Upload
others
View
16
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
Bài 4: Pháp luật cạnh tranh
LAW201_Bai4_v2.0018105230
75
Bài 4 PHÁP LUẬT CẠNH TRANH
Nội dung Mục tiêu
Trong bài này, người học sẽ được tiếp cận
các nội dung:
• Cơ sở lý thuyết của pháp luật cạnh
tranh bao gồm hiệu quả kinh tế và
quan điểm xây dựng chính sách, pháp
luật về cạnh tranh;
• Quy định pháp luật về kiểm soát thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh với các nội
dung về hành vi thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh và hậu quả pháp lý của các
hành vi này;
• Quy định pháp luật về chống hành vi
cạnh tranh không lành mạnh với các
quy định về nhận diện hành vi cạnh
tranh không lành mạnh và quy định về
xử lý vi phạm các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh;
• Các loại trách nhiệm pháp lý đối với
hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh;
• Quy định về chủ thể có thẩm quyền và
thủ tục giải quyết vụ việc cạnh tranh.
• Đưa ra được khái niệm, đặc điểm và nội dung
cơ bản của pháp luật cạnh tranh;
• So sánh được nội dung các hành vi hạn chế
cạnh tranh và cạnh tranh không lành mạnh;
• Vận dụng được thẩm quyền và trình tự thủ tục
giải quyết các vụ việc cạnh tranh.
Hướng dẫn học
Để học tốt bài này sinh viên cần:
• Nắm vững kiến thức cơ bản về thương nhân,
doanh nghiệp, và các hành vi thương mại;
• Nắm vững kiến thức về các yếu tố ảnh hưởng
đến hoạt động xây dựng quy định pháp luật, vai
trò của pháp luật, và các chế tài xử lý vi phạm
pháp luật hành chính, dân sự, thương mại.
Bài 4: Pháp luật cạnh tranh
LAW201_Bai4_v2.0018105230
76
guồn gốc của sự phát triển là cạnh tranh, và cạnh tranh chính là động lực để phát triển
kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, mang lại nhiều lợi ích cho xã hội. Một nền kinh tế
vững mạnh, có tiềm năng là nền kinh tế có sức cạnh tranh cao. Dưới góc độ kinh tế, cạnh
tranh được hiểu là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh doanh trên thị trường nhằm mục đích lôi
kéo về phía mình ngày càng nhiều khách hàng.
Ví dụ: một số doanh nghiệp vận tải taxi cùng nhau thỏa thuận ấn định mức giá dịch vụ taxi thấp
để dần loại bỏ các doanh nghiệp kinh doanh vận tải taxi khác trên thị trường. Việc một số doanh
nghiệp vận tải taxi giảm giá dịch vụ mang lại lợi ích cho người dùng nhưng lại dẫn đến sự ganh
đua không lành mạnh giữa các đối thủ cùng kinh doanh vận tải taxi trên thị trường.
Do đó, để đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng giữa các chủ thể kinh doanh
trong nền kinh tế, Nhà nước cần điều tiết cạnh tranh. Mô hình tự do cạnh tranh có sự điều tiết
của Nhà nước cũng là mô hình chung của mọi nền kinh tế hiện đại. Chính sách cạnh tranh – các
thức nhà nước điều tiết cạnh tranh, được coi là tổng thể các biện pháp, công cụ vĩ mô của nhà
nước nhằm đảm bảo tự do cạnh tranh và điều tiết cạnh tranh trong nền kinh tế và duy trì môi
trường cạnh tranh công bằng, bình đẳng phù hợp với lợi ích chung của xã hội. Chính sách cạnh
tranh bao gồm nhiều yếu tố như chính sách về thương mại quốc tế, chính sách công nghiệp,
chính sách điều tiết kinh tế ngành, cổ phần hóa... và cả pháp luật cạnh tranh. Việc xây dựng
chính sách cạnh tranh đóng vai trò tiên phong, là bước đệm cho sự ra đời pháp luật cạnh tranh.
Ngược lại quá trình thực thi Luật Cạnh tranh giúp đánh giá và hoàn thiện hơn chính sách cạnh
tranh của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ.
4.1. Cơ sở lý thuyết của pháp luật cạnh tranh
4.1.1. Hiệu quả kinh tế
Không thể phủ định rằng nguồn gốc của sự phát triển là cạnh tranh. Khi đặt giả thuyết
nghiên cứu về pháp luật cạnh tranh, các nhà khoa học thường đề câp tới khái niệm “cạnh
tranh” dưới góc độ kinh tế. Theo đó, cạnh tranh được hiểu là sự ganh đua giữa các chủ
thể kinh doanh trên thị trường nhằm mục đích lôi kéo về phía mình ngày càng nhiều
khách hàng và người thua cuộc sẽ dần mất khách hàng, thậm chí phải rút lui khỏi thị
trường. Chủ thể của quá trình ganh đua này chính là đối thủ cạnh tranh của nhau trên thị
trường. Vì chỉ có cùng mục đích, cùng thị trường, thì các chủ thể này mới tranh giành
lẫn nhau, dẫn tới sự xuất hiện của cạnh tranh. Nếu tách bỏ mục đích cạnh tranh, những
phương thức kinh doanh mà các chủ thể này tiến hành chỉ là hành vi thương mại thuần
túy vì mục tiêu lợi nhuận.
Một điểm quan trọng nữa là cạnh tranh chỉ xuất hiện và tồn tại trong điều kiện kinh tế thị
trường, nơi pháp luật thừa nhận quyền tự do kinh doanh, tự do hợp đồng của mọi chủ
thể. Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác động với
nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng hóa, dịch vụ trên
thị trường. Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay, không có một nền kinh tế thị trường hoàn
hảo, tùy ở mỗi quốc gia, mỗi nền kinh tế mà các yếu tố thị trường nhiều hay ít. Vì vậy,
khi xem xét đến tính cạnh tranh của thị trường hay sự phát triển của chính sách cạnh
tranh trong đó bao gồm cả pháp luật cạnh tranh, cần phải đặt trong điều kiện của một
nền kinh tế cụ thể.
N
Bài 4: Pháp luật cạnh tranh
LAW201_Bai4_v2.0018105230
77
4.1.2. Quan điểm xây dựng chính sách và pháp luật cạnh tranh
Cạnh tranh là động lực để phát triển kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, mang lại
nhiều lợi ích cho xã hội. Có thể nói một nền kinh tế vững mạnh, có tiềm năng là nền
kinh tế có sức cạnh tranh cao. Tuy nhiên, sau hơn ba thập kỷ không ngừng đổi mới và
vận động phát triển, nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế có sức cạnh tranh khiêm tốn.
Đây là thách thức lớn đặt ra cho đất nước khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế trong
giai đoạn hiện nay. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do chúng ta có nền kinh tế
với quá ít yếu tố thị trường. Doanh nghiệp nhà nước vẫn chiếm độc quyền trong nhiều
ngành kinh tế then chốt. Hệ lụy của nó là tình trạng lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc
quyền để gây phản cạnh tranh như đầu cơ lũng đoạn thị trường, tăng giá, giảm giá, phá
giá tùy tiện gây tác hại nghiêm trọng đến lợi ích của người tiêu dùng và xã hội. Thêm
vào đó các hành vi cạnh tranh không lành mạnh không chỉ gây thiệt hại cho đối thủ cạnh
tranh mà còn tác động xấu tới môi trường văn hóa kinh doanh nói chung.
Do đó, để đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng Nhà nước cần điều tiết
cạnh tranh. Mô hình tự do cạnh tranh có sự điều tiết của Nhà nước cũng là mô hình
chung của mọi nền kinh tế hiện đại. Tuy nhiên, Nhà nước điều tiết cạnh tranh bằng cách
nào và cần bảo đảm những nguyên tắc gì? Đó chính là chính sách cạnh tranh – là tổng
thể các biện pháp, công cụ vĩ mô của nhà nước nhằm đảm bảo tự do cạnh tranh và điều
tiết cạnh tranh trong nền kinh tế, duy trì môi trường cạnh tranh công bằng, bình đẳng
phù hợp với lợi ích chung của xã hội. Chính sách cạnh tranh bao gồm nhiều yếu tố như
chính sách về thương mại quốc tế, chính sách công nghiệp, chính sách điều tiết kinh tế
ngành, cổ phần hóa... và cả pháp luật cạnh tranh. Luật Cạnh tranh giữ vai trò quan trọng
và là bộ phận không thể thiếu trong chính sách cạnh tranh. Việc xây dựng chính sách
cạnh tranh đóng vai trò tiên phong, là bước đệm cho sự ra đời pháp luật cạnh tranh.
Ngược lại quá trình thực thi Luật Cạnh tranh giúp đánh giá và hoàn thiện hơn chính sách
cạnh tranh của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ.
4.1.3. Pháp luật về cạnh tranh
Pháp luật cạnh tranh bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh hành vi cạnh tranh
giữa các chủ thể kinh doanh trên thương trường, đồng thời bao gồm cả các quy định đảm
bảo thực thi pháp luật cạnh tranh trong thực tế. Đó là các quy định về tổ chức và hoạt
động của cơ quan nhà nước thi hành Luật Cạnh tranh; trình tự, thủ tục xử lý vụ việc cạnh
tranh; các biện pháp xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh. Xét trong tổng thể hệ thống
pháp luật, Luật Cạnh tranh là mảng quy định khá đặc thù, nằm giữa ranh giới luật công
và luật tư bởi Luật Cạnh tranh sử dụng quyền lực công (quyền lực nhà nước) để điều
chỉnh các quan hệ tư như quan hệ hợp đồng trong kinh doanh thương mại. Các đặc trưng
của pháp luật cạnh tranh:
Một là, pháp luật cạnh tranh có tính tiếp cận từ mặt trái. Điều này thể hiện ở chỗ, trong
Luật Cạnh tranh không có điều khoản nào quy định các doanh nghiệp cần làm gì, hay
hướng dẫn các doanh nghiệp phải làm gì để đảm bảo cạnh tranh trên thị trường. Mà các
quy định chủ yếu hướng tới việc cấm đoán các hành vi phản cạnh tranh của các doanh
nghiệp. Sở dĩ cạnh tranh vốn là khái niệm hết sức trừu tượng, cách thức cạnh tranh của
các ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh là hoàn toàn khác nhau. Vì vậy, pháp luật không
thể quy định hướng dẫn về hành vi cạnh tranh, mà chỉ có thể quy định cấm hành vi phản
Bài 4: Pháp luật cạnh tranh
LAW201_Bai4_v2.0018105230
78
cạnh tranh. Ngoài những hành vi mà pháp luật cấm, các chủ thể kinh doanh được tự do
lựa chọn phương thức cạnh tranh với nhau trên thị trường.
Hai là, pháp luật cạnh tranh có tính mềm dẻo. Theo đó, pháp luật cạnh tranh thường đặt
ra các điều khoản mở và những quy định miễn trừ cho phép cơ quan thi hành Luật Cạnh
tranh có thể áp dụng pháp luật một cách linh hoạt. Cụ thể, Luật Cạnh tranh 2004 cấm
tuyệt đối với hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền. Tuy nhiên, đối với
hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và hành vi tập trung kinh tế lại có thể được miễn
trừ theo quy định tại Điều 10 và Điều 19 của Luật này. Ngoài ra, việc liệt kê theo hướng
mở cũng là cách thức quy định khá phổ biến đối với các hành vi phản cạnh tranh bị cấm
trong Luật.
Ba là, ngoài các quy định về nội dung điều chỉnh hành vi cạnh tranh, pháp luật cạnh
tranh còn có các quy định hình thức điều chỉnh hoạt động tố tụng cạnh tranh và xử lý vi
phạm pháp luật cạnh tranh. Đây không hẳn là một đặc trưng của pháp luật chuyên
ngành. Tuy nhiên, có thể nói tố tụng cạnh tranh là một loại tố tụng đặc thù, là một thủ
tục “hành chính lai tư pháp”, vì vậy chỉ có thể quy định trong Luật Cạnh tranh mà không
phải một văn bản tố tụng riêng biệt nào khác.
Về phạm vi điều chỉnh, Luật Cạnh tranh gồm 6 chương với các nội dung:
• Chương I những quy định chung về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, quyền
cạnh tranh trong kinh doanh, nguyên tắc áp dụng Luật Cạnh tranh, trách nhiệm quản
lý nhà nước về cạnh tranh.
• Chương II bao gồm các quy định về kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh tranh;
• Chương III quy định về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh;
• Chương IV quy định về cơ quan cạnh tranh gồm cơ quan quản lý cạnh tranh và hội
đồng cạnh tranh;
• Chương V quy định về trình tự, thủ tục xử lý vụ việc cạnh tranh và các hình thức xử
lý vi phạm pháp luật cạnh tranh;
• Chương VI điều khoản thi hành.
Về đối tượng áp dụng, Luật Cạnh tranh quy định:
• Thứ nhất, là “tổ chức, cá nhân kinh doanh (gọi chung là thương nhân) bao gồm cả
doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, doanh nghiệp hoạt
động trong các ngành, lĩnh vực thuộc độc quyền nhà nước và doanh nghiệp nước
ngoài hoạt động ở Việt Nam”. Có thể nói với cách quy định như vậy, đối tượng áp
dụng của Luật Cạnh tranh rất rộng, bao gồm cả cá nhân có đăng ký kinh doanh và cá
nhân không đăng ký doanh nghiệp (cá nhân hoạt động thương mại độc lập thường
xuyên không phải đăng ký doanh nghiệp), nhưng đều được gọi chung là “thương
nhân”.
• Thứ hai, là các hiệp hội ngành nghề hoạt động ở Việt Nam. Thực tiễn xử lý các hành
vi hạn chế cạnh tranh cho thấy vai trò của các hiệp hội ngành nghề trong việc tổ
chức, lôi kéo, dụ dỗ các chủ thể kinh doanh tham gia các-ten (thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh) là rất lớn. Tuy nhiên, mặc dù quy định “hiệp hội” là đối tượng áp dụng
của Luật Cạnh tranh năm 2004 nhưng các nhà làm luật lại không quy định chế tài xử
lý đối với hành vi vi phạm của hiệp hội. Hiệp hội chỉ bị xử lý với hành vi duy nhất
Bài 4: Pháp luật cạnh tranh
LAW201_Bai4_v2.0018105230
79
quy định tại Điều 47 Luật Cạnh tranh năm 2004 liên quan đến phân biệt đối xử với
các doanh nghiệp khi tham gia hoặc rút khỏi hiệp hội.
4.2. Pháp luật về kiểm soát hạn chế cạnh tranh
4.2.1. Các hành vi hạn chế cạnh tranh
Hành vi hạn chế cạnh tranh là những hành vi của các doanh nghiệp trên thị trường luôn
hướng tới việc hình thành một sức mạnh thị trường hoặc lạm dụng sức mạnh thị trường,
làm cho tình trạng cạnh tranh trên thị trường bị bóp méo. Sự biến dạng cạnh tranh có thể
làm thay đổi cấu trúc thị trường thay đổi tương quan cạnh tranh giữa các doanh nghiệp,
làm cản trở, giảm sức ép cạnh tranh trên thị trường. Hành vi hạn chế cạnh tranh thường
gây hậu quả xấu cho toàn bộ thị trường và người tiêu dùng, do đó chế tài xử lý rất
nghiêm khắc. Thông thường hành vi hạn chế cạnh tranh bao gồm các dạng hành vi như
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền và
tập trung kinh tế.
a. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Trong kinh tế học, hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được nhìn nhận là sự thống
nhất cùng hành động của nhiều doanh nghiệp nhằm giảm bớt hoặc loại bỏ sức ép của
cạnh tranh hoặc hạn chế khả năng hành động một cách độc lập giữa các đối thủ cạnh
tranh. Về cơ bản, khi kinh doanh trên thị trường, mỗi doanh nghiệp đều có quyền tự do
kinh doanh, tự do khế ước, vậy nên việc các doanh nghiệp thỏa thuận hợp tác với nhau
không bị pháp luật ngăn cấm. Tuy nhiên, khi những thỏa thuận ấy trở thành hành vi phản
cạnh tranh và bóp méo thị trường thì Nhà nước cần có thái độ nghiêm khắc. Pháp luật
cạnh tranh chính là công cụ để Nhà nước điều chỉnh mối quan hệ giữa các doanh nghiệp
trong trường hợp này. Dưới góc độ pháp lý có thể hiểu “thỏa thuận hạn chế cạnh tranh”
là sự thống nhất ý chí của từ hai chủ thể kinh doanh trở lên được thể hiện dưới bất kỳ
hình thức nào, có hậu quả làm giảm, sai lệnh, cản trở cạnh tranh trên thị trường. Theo
cách định nghĩa này thì dấu hiệu hậu quả chính là cách để chúng ta nhận biết đâu là thỏa
thuận được phép và đâu là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm. Những hành vi thỏa
thuận với mục tiêu phản cạnh tranh được cho là có hậu quả còn nghiêm trọng hơn cả đối
với các hành vi mang dấu hiệu hình sự như “trộm cắp tài sản”. Bởi hành vi này có sức
ảnh hưởng tới cả thị trường, xâm hại lợi ích của tất cả người tiêu dùng nói chung chứ
không chỉ một cá nhân riêng lẻ.
Luật Cạnh tranh 2004 không đưa ra khái niệm thế nào là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
mà chỉ coi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là một trong các dạng hành vi hạn chế cạnh
tranh điển hình. Tại Khoản 3 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2004 quy định: “hành vi hạn chế
cạnh tranh là hành vi làm giảm sai lệch và cản trở cạnh tranh trên thị trường”. Cũng tại
Điều 8 Luật Cạnh tranh 2004 quy định 8 dạng hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Theo đó chỉ có tám hành vi này mới được coi là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, đây là
cách thức định nghĩa liệt kê theo dạng đóng. Việc quy định như vậy giúp cho cơ quan
cạnh tranh dễ dàng hơn trong việc xác định hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Tuy
nhiên, nó cũng làm mất đi tính mềm dẻo của luật, khiến việc thực thi trở nên khó
khăn hơn.
Bài 4: Pháp luật cạnh tranh
LAW201_Bai4_v2.0018105230
80
Việc phân loại thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có ý nghĩa không chỉ về mặt nghiên cứu
mà còn cả thực thi pháp luật cạnh tranh. Bởi việc phân loại giúp các nhà lập pháp xác
định được ngay từ đầu những thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có ảnh hưởng tới môi
trường cạnh tranh và những thỏa thuận cạnh tranh được phép. Thông thường dựa vào vị
trí của các chủ thể tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong chuỗi quá trình sản xuất
kinh doanh, có thể phân thành thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc và thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang. Thỏa thuận theo chiều ngang là thỏa thuận
giữa các chủ thể kinh doanh trong cùng ngành hàng và cùng khâu của quá trình kinh
doanh. Thỏa thuận theo chiều dọc là thỏa thuận hợp tác giữa hai hoặc nhiều doanh
nghiệp hoạt động ở những khâu khác nhau của quá trình sản xuất hoặc phân phối trên thị
trường. Thỏa thuận dọc thường tập trung vào các điều kiện kinh doanh trên thị trường
thứ cấp như giá bán lại, khu vực phân phối, sản lượng phân phối, khách hàng giao dịch,
điều kiện phân phối... Nhìn chung, các thỏa thuận theo chiều dọc phần lớn ít gây ảnh
hưởng nghiêm trọng tới môi trường cạnh tranh so với thỏa thuận theo chiều ngang. Ngay
cả ở thỏa thuận hạn chế theo chiều ngang, cũng có thể phân loại thành thỏa thuận ngang
nghiêm trọng và thỏa thuận theo chiều ngang ít nghiêm trọng. Theo khuyến nghị về các
hoạt động hiệu quả chống thỏa thuận ngang nghiêm trọng của Tổ chức Hợp tác và phát
triển kinh tế (OECD) (1998), thỏa thuận ngang nghiêm trọng là một thỏa thuận hay
thống nhất ý chí cùng hành động giữa các đối thủ cạnh tranh nhằm ấn định giá, gian lận
thầu (thông đồng đấu thầu), hạn chế sản lượng hoặc hạn ngạch, phân chia thị trường theo
nhóm khách hàng, nguồn cung ứng, khu vực địa lý hay các kênh thương mại”. Ngược lại
có những thỏa thuận ngang mang lại lợi ích kinh tế không chỉ cho bản thân doanh nghiệp
mà còn làm lợi cho cả người tiêu dùng. Những thỏa thuận ngang như thế có thể gọi là
thỏa thuận hợp tác, hay thỏa thuận ngang ít nghiêm trọng. Ví dụ như những thỏa thuận
nghiên cứu phát triển hay thỏa thuận định chuẩn...
Việc phân loại thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo pháp luật Việt Nam không dựa trên
những tiêu chí như trên mà dựa vào tác động của hành vi đối với môi trường cạnh tranh,
các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo Luật Cạnh tranh 2004 được chia thành thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh bị cấm tuyệt đối và thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm có điều
kiện. Trong đó, không phân rõ đâu là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang,
đâu là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc. Những thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh bị cấm tuyệt đối cũng không đồng nhất với các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo
chiều ngang có tính chất nghiêm trọng bởi thỏa thuận ấn định giá, phân chia thị trường
theo Luật Cạnh tranh 2004 lại thuộc thỏa thuận bị cấm có điều kiện. Điều này khiến tiêu
chí xác định hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh của Việt Nam trở nên khập khiễng và
khó thực thi.
Luật Cạnh tranh 2004 và Nghị định 116/2005/NĐ-CP ngày 15/9/2005 quy định về thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh dưới hình thức liệt kê các hành vi cụ thể và mô tả chi tiết về
nội dung, hình thức của các loại thỏa thuận này. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bao gồm
08 dạng thỏa thuận quy định tại Điều 8 Luật Cạnh tranh 2004, và được quy định chi tiết
từ Điều 14 đến 21 Nghị định 116/2005/NĐ-CP.
Cụ thể theo Điều 8, Luật Cạnh tranh 2004 các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bao gồm:
• Thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp;
Bài 4: Pháp luật cạnh tranh
LAW201_Bai4_v2.0018105230
81
• Thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ;
• Thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua bán hàng
hóa, dịch vụ;
• Thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư;
• Thỏa thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng
hóa, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan
trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng;
• Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường
hoặc phát triển kinh doanh;
• Thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của
thỏa thuận;
• Thông đồng để một hoặc các bên của thỏa thuận thắng thầu trong việc cung cấp hàng
hóa, cung ứng dịch vụ.
Như vậy, phạm vi các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị điều chỉnh chỉ nằm trong khuôn
khổ các hành vi được quy định trong Luật và nghị định hướng dẫn.
b. Lạm dụng vị trí thống lĩnh
Sức mạnh thống lĩnh, sức mạnh độc quyền đem lại cho doanh nghiệp lợi thế cạnh tranh
so với các doanh nghiệp khác và đem lại khả năng chi phối các quan hệ với khách hàng.
Những lợi thế cạnh tranh có thể là khả năng kiểm soát các yếu tố của thị trường (như
nguồn nguyên liệu, giá cả, số lượng sản phẩm đáp ứng cho người tiêu dùng, khả năng tài
chính; thói quen tiêu dùng của khách hàng...) và các yếu tố tạo ra địa vị không ngang
bằng trong cạnh tranh giữa doanh nghiệp thống lĩnh trên thị trường và các đối thủ của nó
(bao gồm cả đối thủ tiềm năng). Doanh nghiệp thống lĩnh, độc quyền có điều kiện tận
dụng những ưu thế trên nhằm gây khó khăn cho đối thủ trong quá trình kinh doanh hoặc
ngăn cản việc gia nhập thị trường, có cơ hội để bóc lột khách hàng thông qua việc áp đặt
những điều kiện giao dịch không công bằng. Chính vì những hậu quả tiềm tàng như vậy,
kiểm soát độc quyền hay kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền
trở thành một trong những nội dung cơ bản của pháp luật cạnh tranh.
Theo quy định của Luật Cạnh tranh 2004, hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
được quy định tại Điều 13 Luật Cạnh tranh 2004 và được hướng dẫn từ Điều 23 đến 30
Nghị định 116/2005/NĐ-CP. Theo đó, các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
bao gồm 06 dạng sau:
• Bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ
cạnh tranh;
• Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại tối
thiểu gây thiệt hại cho khách hàng;
• Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ, giới hạn thị trường, cản trở sự phát
triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng;
• Áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong giao dịch như nhau nhằm tạo bất bình
đẳng trong cạnh tranh;
• Áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong giao dịch như nhau nhằm tạo bất bình
đẳng cho khách hàng;
Bài 4: Pháp luật cạnh tranh
LAW201_Bai4_v2.0018105230
82
• Ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới.
Về hành vi lạm dụng vị trí độc quyền, Điều 14 Luật Cạnh tranh 2004 quy định ngoài sáu
dạng hành vi được áp dụng chung cho lạm dụng vị trí thống lĩnh, còn có thêm hai dạng
hành vi chỉ áp dụng riêng đối với lạm dụng vị trí độc quyền, bao gồm:
• Áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng;
• Lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương thay đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng đã giao kết
mà không có lí do chính đáng.
Do mức độ ảnh hưởng rất lớn tới cạnh tranh trên thị trường nên pháp luật Việt Nam
nghiêm cấm các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền mà không có trường
hợp ngoại lệ hay miễn trừ nào khác. Việc cấm lạm dụng vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền
là nhằm thực hiện mục đích chung của pháp luật chống hạn chế cạnh tranh – đảm bảo
môi trường tự do cạnh tranh cho tất cả các chủ thể tham gia.
c. Tập trung kinh tế
Tập trung kinh tế được xem xét như hành vi hạn chế cạnh tranh theo quy định tại Khoản
3 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2004. Ngoài ra tại Điều 16 Luật Cạnh tranh 2004 cũng quy
định, tập trung kinh tế là hành vi của doanh nghiệp bao gồm: “Sáp nhập doanh nghiệp;
Hợp nhất doanh nghiệp; Mua lại doanh nghiệp; Liên doanh giữa các doanh nghiệp; các
hành vi tập trung kinh tế khác theo quy định của pháp luật”.
Theo quy định tại Điều 17 Luật Cạnh tranh 2004, pháp luật phân chia hoạt động tập
trung kinh tế thành năm hình thức riêng biệt và đưa ra định nghĩa cụ thể về từng hình
thức, cụ thể như sau:
• Sáp nhập doanh nghiệp
Khoản 1 Điều 17 Luật Cạnh tranh 2004 quy định: “Sáp nhập doanh nghiệp là việc
một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp
pháp của mình sang một doanh nghiệp khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh
nghiệp bị sáp nhập.” Định nghĩa này tương tự với định nghĩa về sáp nhập doanh
nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 (khoản 1 Điều 195). Do đó, hệ
quả của hành vi sáp nhập đó là việc doanh nghiệp bị sáp nhập không còn tồn tại và bị
xóa tên trong sổ đăng ký kinh doanh, còn doanh nghiệp nhận sáp nhập được hưởng
mọi tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp cũng như chịu trách nhiệm với các nghĩa vụ
của doanh nghiệp bị sáp nhập đối với các bên thứ ba liên quan.
• Hợp nhất doanh nghiệp
Khoản 2 Điều 17 Luật Cạnh tranh 2004 quy định: “Hợp nhất doanh nghiệp là việc
hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp
pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới, đồng thời chấm dứt sự tồn tại
của các doanh nghiệp bị hợp nhất.” Tương tự như định nghĩa về sáp nhập, hành vi
hợp nhất theo quy định của Luật Cạnh tranh phù hợp với quy định của Luật Doanh
nghiệp năm 2014 (Điều 194). Cơ sở để phân biệt hành vi “sáp nhập” và “hợp nhất”
được thể hiện thông qua hậu quả pháp lý của các hành vi. Việc sáp nhập doanh
nghiệp sẽ không tạo ra một chủ thể pháp lý mới trên thị trường và chỉ làm chấm dứt
hoạt động của doanh nghiệp bị sáp nhập, mọi tài sản, quyền lợi và nghĩa vụ pháp lý
sẽ được chuyển giao cho bên doanh nghiệp sáp nhập. Trong khi đó, hợp nhất doanh
Bài 4: Pháp luật cạnh tranh
LAW201_Bai4_v2.0018105230
83
nghiệp tuy làm chấm dứt đồng thời tất cả các doanh nghiệp bị hợp nhất nhưng lại tạo
lập nên một doanh nghiệp hoàn toàn mới trên thị trường.
• Mua lại doanh nghiệp
Mua lại doanh nghiệp theo khoản 3 Điều 17 Luật Cạnh tranh 2004: “là việc một
doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm
soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại.” Mua lại
doanh nghiệp được chia thành hai trường hợp là mua lại toàn bộ và mua lại một phần
doanh nghiệp.
Mua lại toàn bộ là trường hợp mà bên mua sẽ trở thành chủ sở hữu mới đối với toàn
bộ doanh nghiệp bị mua lại, đồng thời thụ hưởng toàn bộ quyền và lợi ích hợp pháp,
chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và các nghĩa
vụ tài sản khác của doanh nghiệp bị mua lại. Trường hợp này khá giống với hành vi
sáp nhập doanh nghiệp. Bởi vậy, để phân biệt hai hành vi này cần phải xác định xem
sau khi quá trình hoàn tất, doanh nghiệp bị mua lại có chấm dứt tồn tại hay không.
Nếu doanh nghiệp bị mua lại chấm dứt tồn tại thì về bản chất đây là hình thức sáp
nhập. Còn nếu tiếp tục hoạt động như một chủ thể độc lập thì đây được coi là mua lại
doanh nghiệp.
Mua lại một phần doanh nghiệp được thực hiện dưới hình thức mua tài sản, mua cổ
phần hoặc phần vốn góp của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát chi phối toàn bộ
hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại. Điều này giúp phân biệt hình
thức này với việc góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp được quy định trong Luật
Doanh nghiệp. Nếu việc góp vốn, mua cổ phần với mục đích đơn thuần là để trở
thành chủ sở hữu chung của doanh nghiệp mà không đủ để giành kiểm soát chi phối
doanh nghiệp thì hoạt động này không được coi là việc mua lại doanh nghiệp và
không thuộc sự điều chỉnh của Luật Cạnh tranh.
• Liên doanh giữa các doanh nghiệp
Liên doanh giữa các doanh nghiệp theo khoản 4 Điều 17 Luật Cạnh tranh 2004 là
“việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp cùng nhau góp một phần tài sản, quyền, nghĩa vụ
và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới.” Như vậy có hai
đặc điểm nổi bật là sự liên kết giữa nhiều doanh nghiệp thông qua việc phối hợp
cùng nhau góp vốn đầu tư sản xuất kinh doanh, và việc góp vốn để thành lập nên một
doanh nghiệp chung (doanh nghiệp liên doanh) nhằm thực hiện các chức năng như
một chủ thể kinh tế độc lập.
• Các hình thức tập trung kinh tế khác
Khoản 5 Điều 17 Luật Cạnh tranh 2004 quy định về các hình thức tập trung kinh tế
khác có thể xem như một quy định mang tính chất dự liệu, dự phòng của các nhà làm
luật nhằm đón đầu những hình thức tập trung kinh tế mới có thể xuất hiện trong các
văn bản pháp luật chuyên ngành hoặc trong thực tiễn kinh doanh, từ đó nâng cao khả
năng kiểm soát một cách toàn diện cũng như đảm bảo sự ổn định của hệ thống pháp
luật trong tương lai.
Bài 4: Pháp luật cạnh tranh
LAW201_Bai4_v2.0018105230
84
4.2.2. Hậu quả pháp lý của các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Quy định cấm đối với hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh dựa vào tính chất nguy
hiểm của hành vi gây ra đối với môi trường cạnh tranh. Theo đó, các hành vi thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh bị cấm ở hai mức độ: cấm tuyệt đối (trong mọi trường hợp) và cấm
khi thị phần kết hợp của các bên tham gia thỏa thuận trên thị trường liên quan chiếm từ
30% trở lên. Mặc dù vậy, căn cứ các quy định pháp luật hiện hành, có thể thấy rằng Luật
Cạnh tranh sử dụng nguyên tắc vi phạm mặc nhiên khi đánh giá các hành vi thỏa thuận.
Thứ nhất, các hành vi bị cấm tuyệt đối quy định tại Khoản 1 Điều 9 Luật Cạnh tranh
2004 bao gồm: thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia
thị trường hoặc phát triển kinh doanh (Khoản 6 Điều 8); thỏa thuận loại bỏ khỏi thị
trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thỏa thuận (Khoản 7 Điều 8);
thông đồng để một hoặc các bên của thỏa thuận thắng thầu trong việc cung cấp hàng
hóa, cung ứng dịch vụ (Khoản 8 Điều 8). Những hành vi này được cho là luôn hàm chứa
những tác hại xấu tới môi trường cạnh tranh, do vậy, pháp luật cần nghiêm cấm dưới
mọi hình thức mà không cần xem xét đến sức mạnh thị trường cũng như sức ảnh hưởng
của doanh nghiệp khi thực hiện hành vi. Ngoài ra, đối với những thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh bị cấm tuyệt đối cũng không cho phép hưởng miễn trừ.
Thứ hai, các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm có điều kiện được áp dụng đối với các
thỏa thuận quy định tại Khoản 1, 2, 3, 4, 5 Điều 8 Luật Cạnh tranh 2004, bao gồm:
• Thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp;
• Thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng
dịch vụ;
• Thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua bán hàng
hóa, dịch vụ;
• Thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư;
• Thỏa thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng
hóa, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan
trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng.
Theo đó, các thỏa thuận trên chỉ có thể bị cấm khi thị phần kết hợp của các doanh nghiệp
tham gia thỏa thuận trên thị trường liên quan từ 30% trở lên. Ngoài ra, nếu đáp ứng các
điều kiện quy định tại Điều 10 Luật Cạnh tranh 2004 thì những thỏa thuận này còn có
thể xem xét để được hưởng miễn trừ.
Theo Luật Cạnh tranh 2004, cơ chế kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế dựa vào tiêu
chí duy nhất là thị phần kết hợp của doanh nghiệp trên thị trường liên quan. Cụ thể:
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 20, Luật Cạnh tranh 2004 thì các trường hợp được tự do
tiến hành tập trung kinh tế bao gồm:
• Thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế thấp hơn 30% thị
trường liên quan;
• Sau khi tập trung kinh tế, doanh nghiệp vẫn thuộc loại nhỏ và vừa theo quy định của
pháp luật.
Bên cạnh đó, các trường hợp tập trung kinh tế phải thông báo khi các doanh nghiệp tập
trung kinh tế có thị phần kết hợp từ 30% đến 50% trên thị trường liên quan thì đại diện
Bài 4: Pháp luật cạnh tranh
LAW201_Bai4_v2.0018105230
85
hợp pháp của các doanh nghiệp đó phải thông báo cho cơ quan quản lý cạnh tranh trước
khi tiến hành tập trung kinh tế. Như vậy, việc kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế được
thực hiện theo chế độ tiền kiểm.
Các trường hợp tập trung kinh tế bị cấm và quy định cho hưởng miễn trừ: căn cứ vào tỷ
lệ thị phần sau khi thực hiện tập trung kinh tế, Luật Cạnh tranh 2004 quy định cấm tập
trung kinh tế nếu thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế
chiếm trên 50% ở thị trường liên quan.
Nhà nước không cấm các doanh nghiệp tăng trưởng để có vị trí thống lĩnh thị trường
nhưng Nhà nước sẽ kiểm soát việc hình thành vị trí đó diễn ra như thế nào. Mục đích của
việc cấm thực hiện tập trung kinh tế trong một số trường hợp là nhằm ngăn chặn việc
hình thành một doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh trên thị trường và lạm dụng vị trí này
gây hậu quả lớn đối với nền kinh tế. Bản chất của hạn chế cạnh tranh thể hiện ngay sự
thay đổi cơ bản, đột ngột trong tương quan cạnh tranh và cấu trúc cạnh tranh trên thị
trường. Điều đó cũng cho thấy mức độ làm giảm, làm cản trở sai lệch cạnh tranh một
cách đáng kể.
Tuy nhiên, cần phải khẳng định không phải mọi trường hợp tập trung kinh tế có thị phần kết
hợp của các doanh nghiệp tham gia chiếm trên 50% trên thị trường liên quan đều bị cấm.
Điều 19 Luật Cạnh tranh 2004 đã quy định các trường hợp tập trung kinh tế bị cấm có
thể được hưởng miễn trừ trong một trong hai trường hợp sau:
• Khi một hoặc nhiều bên tham gia tập trung kinh tế đang trong nguy cơ bị giải thể
hoặc lâm vào tình trạng phá sản. Đối với trường hợp này, Bộ trưởng Bộ Công thương
sẽ xem xét ra quyết định hưởng miễn trừ bằng văn bản.
• Tập trung kinh tế có tác dụng mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần phát triển kinh tế -
xã hội, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ. Trường hợp này Thủ tướng Chính phủ xem xét ra
quyết định bằng văn bản cho hưởng miễn trừ.
4.3. Pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh
4.3.1. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp
trong quá trình kinh doanh, trái với chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây
thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng. Về mặt bản chất, hành vi cạnh tranh không
lành mạnh vẫn là các phương thức kinh doanh, để cạnh tranh của doanh nghiệp. Tuy
nhiên, những hành vi cạnh tranh này được đẩy lên một cách thái quá, nếu không xử lý sẽ
tạo ra cách hành xử tiêu cực trên thị trường. Về mặt hậu quả, nếu như ở hành vi hạn chế
cạnh tranh phạm vi tác động được nhấn mạnh đến môi trường cạnh tranh nói chung, thì
ở hành vi cạnh tranh không lành mạnh, hậu quả hiện hữu được nhắc tới là những thiệt
hại cụ thể của đối thủ cạnh tranh hoặc người tiêu dùng. Các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh cũng đa dạng hơn so với hành vi hạn chế cạnh tranh, và thường được quy
định cụ thể ở các văn bản pháp luật chuyên ngành khác nhau.
• Chỉ dẫn gây nhầm lẫn
Khoản 1 Điều 39 và Điều 40 Luật Cạnh tranh 2004 quy định: Cấm doanh nghiệp sử
dụng chỉ dẫn chứa đựng thông tin gây nhầm lẫn về tên thương mại, khẩu hiệu kinh
Bài 4: Pháp luật cạnh tranh
LAW201_Bai4_v2.0018105230
86
doanh, biểu tượng kinh doanh, bao bì, chỉ dẫn địa lý và các yếu tố khác theo quy định
của Chính phủ để làm sai lệch nhận thức của khách hàng về hàng hóa, dịch vụ nhằm
mục đích cạnh tranh; cấm kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có sử dụng chỉ dẫn gây
nhầm lẫn này. Các quy định về chỉ dẫn gây nhầm lẫn nhằm ngăn chặn các hành vi
sao chép, bắt chước đối thủ kinh doanh, từ đó sử dụng trái phép lợi thế cạnh tranh
của đối thủ khác làm lợi cho doanh nghiệp mình. Đối tượng chỉ dẫn gây nhầm lẫn có
thể là nhãn hiệu, kiểu dáng, bao gói sản phẩm, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng
kinh doanh... Có thể thấy Luật Cạnh tranh 2004 cấm hai dạng hành vi là “sử dụng chỉ
dẫn gây nhầm lẫn” và “kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có sử dụng chỉ dẫn gây
nhầm lẫn”.
• Xâm phạm bí mật kinh doanh
Mỗi doanh nghiệp trên thị trường đều có bí mật kinh doanh riêng nhằm tạo ra lợi thế
so với đối thủ cạnh tranh. Vì thế bí mật kinh doanh cũng là mục tiêu thường xuyên bị
xâm phạm trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt. Khoản 10 Điều 3 Luật
Cạnh tranh 2004 quy định những đặc điểm của bí mật kinh doanh như: “không phải
là hiểu biết thông thường, có khả năng áp dụng trong kinh doanh và khi được sử
dụng sẽ tạo cho người nắm giữ thông tin đó, được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện
pháp cần thiết để thông tin đó không bị tiết lộ và không dễ dàng tiếp cận được”. Theo
quy định tại Điều 41 Luật Cạnh tranh 2004, người thực hiện hành vi xâm phạm bí
mật kinh doanh tại Luật Cạnh tranh chỉ có thể là doanh nghiệp, với tư cách là chủ thể
cạnh tranh. Mục đích của việc thực hiện hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh và
nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Cách thức thực hiện hành vi xâm phạm bí mật
kinh doanh bao gồm: Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh; Tiết lộ,
sử dụng thông tin thuộc bí mật kinh doanh; Vi phạm hợp đồng bảo mật hoặc lừa gạt,
lợi dụng lòng tin của người có nghĩa vụ bảo mật nhằm tiếp cận, thu thập và làm lộ
thông tin thuộc bí mật kinh doanh; Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh
doanh của người khác khi người này làm thủ tục theo quy định của pháp luật liên
quan đến kinh doanh, làm thủ tục lưu hành sản phẩm.
• Ép buộc trong kinh doanh
Cũng được coi là hành vi mang tính chất hạn chế cạnh tranh loại nhẹ. Bởi chỉ có thể
“ép buộc” doanh nghiệp khác, khi doanh nghiệp di ép buộc đứng ở vị thế nhất định,
thường là vị trí thống lĩnh thị trường (tức là có một sức mạnh thị trường nhất định).
Hành vi đe dọa, cưỡng ép này không dựa trên sức mạnh cơ học, hay mang dấu hiệu
của tội phạm hình sự, mà dựa trên vị thế kinh tế của doanh nghiệp. Điều 42 Luật
Cạnh tranh 2004 quy định cấm doanh nghiệp ép buộc khác hàng, đối tác kinh doanh
của doanh nghiệp khác bằng hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp cản trở, làm gián đoạn
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó. Tuy nhiên, quy định như vậy là chưa đủ,
vì nếu chỉ dừng lại ở việc “không giao dịch hoặc ngừng giao dịch” với doanh nghiệp
khác thì hành vi này có thể không mang bản chất của cạnh tranh. Ở đây, nếu quy
định đầy đủ phải là “không giao dịch hoặc ngừng giao dịch” với doanh nghiệp đối
thủ để chuyển sang giao dịch với doanh nghiệp mình.
• Gièm pha doanh nghiệp khác
Bài 4: Pháp luật cạnh tranh
LAW201_Bai4_v2.0018105230
87
Hành vi gièm pha doanh nghiệp khác được quy định tại Điều 43 Luật Cạnh tranh
2004 như sau: “cấm doanh nghiệp dèm pha doanh nghiệp khác bằng hành vi trực tiếp
hoặc gián tiếp đưa ra thông tin không trung thực, gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình
trạng tài chính và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó”. Ở đây, cần xác định
tồn tại quan hệ cạnh tranh giữa bên gièm pha và bên bị gièm pha, theo đó bên gièm
pha thực hiện hành vi để hạ uy tín đối thủ cạnh tranh, lôi kéo khách hàng về phía
mình. Như vậy đối tượng bị gièm pha chính là đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp,
dèm pha vì mục đích cạnh tranh. Cách thức gièm pha được đưa ra khá rộng bao gồm
cả “trực tiếp” hoặc “gián tiếp” đưa thông tin không đúng sự thật. Điều này trên thực
tế rất khó xác định, bởi hành vi “gián tiếp” đưa thông tin qua bên thứ ba có thể xảy ra
rất nhiều, nhưng để xác định chủ thể thực sự đứng đằng sau và mục đích cạnh tranh
lại không đơn giản. Ngoài ra, dấu hiệu về mặt hậu quả: “gây ảnh hưởng xấu tới uy
tín, tình trạng tài chính và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp” cũng không phải
là yếu tố dễ dàng chứng minh và định lượng.
• Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác
Hành vi gây rối hoạt động kih doanh của doanh nghiệp khác được quy định tại Điều
44 Luật Cạnh tranh 2004, theo đó: “Cấm doanh nghiệp gây rối hoạt động kinh doanh
hợp pháp của doanh nghiệp khác bằng hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp cản trở, làm
gián đoạn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó”. Hành vi này sử dụng dấu
hiệu hậu quả để quy định về mặt hành vi, khiến nó giống như một điều khoản “quét”
trong quy định về cạnh tranh không lành mạnh. Bởi bất kỳ hành vi nào chỉ cần làm
ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác vì mục đích cạnh tranh
đều có thể xếp vào dạng hành vi “gây rối hoạt động kinh doanh”.
• Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Quảng cáo vốn được quy định trong Luật Thương mại 2005 và Luật Quảng cáo 2012
như một hành vi xúc tiến thương mại. Theo đó, ngoài việc quy định về cách thức, nội
dung, quản lý nhà nước... trong hoạt động quảng cáo, các văn bản này cũng quy định
về những hành vi quảng cáo bị cấm, trong đó có quảng cáo nhằm cạnh tranh không
lành mạnh lại được Luật Cạnh tranh 2004 quy định cụ thể tại Điều 45 bao gồm:
quảng cáo so sánh trực tiếp sản phẩm; quảng cáo bắt chước và quảng cáo đưa thông
tin gây nhầm lẫn. Đây là ba dạng hành vi có bản chất cạnh tranh không lành mạnh
khác nhau, nhưng có chung đặc điểm là cùng thuộc nhóm hành vi cạnh tranh không
lành mạnh có tính lợi dụng thành quả đầu tư và công kích đối thủ cạnh tranh.
• Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Cũng giống như quảng cáo, khuyến mại là hành vi xúc tiến thương mại góp phần đẩy
mạnh sản xuất và phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, có những hành vi khuyến
mại, không đơn thuần vì mục đích xúc tiến thương mại mà hàm chứa trong đó có tính
chất “cạnh tranh không lành mạnh”, đó là khuyến mại gian dối về giải thưởng,
khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hóa, dịch vụ để lừa dối
khách hàng, phân biệt đối xử với những khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức
khuyến mại khác nhau, tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu
khách hàng đổi hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó
đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình. Về mặt truyền thống, những hành vi này
được xem xét dưới góc độ cản trở, gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Bài 4: Pháp luật cạnh tranh
LAW201_Bai4_v2.0018105230
88
khác, phá vỡ các quan hệ ổn định của khách hàng đối với đối thủ cạnh tranh, khuếch
trương một cách quá mức và không trung thực về chương trình xúc tiến thương mại
của mình.
• Phân biệt đối xử của hiệp hội
Hiệp hội, bao gồm hiệp hội ngành hàng hay hiệp hội ngành nghề đều là các tổ chức
xã hội nghề nghiệp. Các tổ chức này đôi khi đóng vai trò rất quan trọng, góp phần
định hướng thị trường, xây dựng mục tiêu phát triển... Tuy nhiên, nếu như các hiệp
hội này lại sử dụng vai trò của mình như một cách thức “chia bè, kết phái” nhằm
phân biệt đối xử với các doanh nghiệp trên thị trường thì đây là hành vi bị pháp luật
nghiêm cấm. Tính chất cạnh tranh không lành mạnh ở đây không chỉ là trái về
“chuẩn mực đạo đức kinh doanh” mà về lâu dài còn có thể dẫn tới sự kìm hãm sự
phát triển của thị trường, sự xuất hiện của nhân tố mới trên thị trường.
• Bán hàng đa cấp bất chính
Theo Khoản 11 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2004, bán hàng đa cấp được hiểu là phương
thức tiếp thị để bán lẻ hàng hóa đáp ứng được các yêu cầu sau:
o Việc tiếp thị để bán lẻ hàng hóa được thực hiện thông qua mạng lưới người tham
gia bán hàng đa cấp gồm nhiều cấp, nhiều nhánh khác nhau;
o Hàng hóa được người tham gia bán hàng đa cấp tiếp thị trực tiếp cho người tiêu
dùng tại nơi ở, nơi làm việc của người tiêu dùng hoặc địa điểm khác không phải là
địa điểm bán lẻ thường xuyên của doanh nghiệp hoặc của người tham gia;
o Người tham gia bán hàng đa cấp được hưởng tiền hoa hồng, tiền thưởng hoặc lợi
ích kinh tế khác từ kết quả tiếp thị bán hàng của mình và của người tham gia bán
hàng đa cấp cấp dưới do mình tổ chức và mạng lưới đó được doanh nghiệp bán
hàng đa cấp chấp thuận.
Bản thân bán hàng đa cấp là một phương thức kinh doanh được pháp luật thừa nhận
(quy định tại Luật Thương mại 2005). Tuy nhiên, bán hàng đa cấp bất chính theo mô
hình kim tự tháp, lại được coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Điều 48 Luật
Cạnh tranh 2004 quy định 4 dạng hành vi vi phạm về bán hàng đa cấp bất chính bị
cấm, bao gồm: yêu cầu người muốn tham gia phải đặt cọc, phải mua một số lượng
hàng hóa ban đầu hoặc phải trả một khoản tiền đẻ được quyền tham gia mạng lưới
bán hàng đa cấp, không cam kết mua lại với mức giá ít nhất là 90% giá hàng hóa đã
bán cho người tham gia để bán lại, cho người tham gia nhận tiền hoa hồng, tiền
thưởng, lợi ích kinh tế khác chủ yếu từ việc dụ dỗ người khác tham gia mạng lưới
bán hàng đa cấp, cung cấp thông tin gian dối về lợi ích của việc tham gia mạng lưới
bán hàng đa cấp, thông tin sai lệch về tính chất, công dụng của hàng hóa để dụ dỗ
người khác tham gia.
Ngoài ra, còn có các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác đáp ứng tiêu chí quy
định tại khoản 4 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2004 do Chính phủ quy định. Đây chính là
điều khoản mở, quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh thể hiện rõ tính
“mềm dẻo” của Luật Cạnh tranh.
Bài 4: Pháp luật cạnh tranh
LAW201_Bai4_v2.0018105230
89
4.3.2. Xử lý vi phạm các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Theo quy định của pháp luật hiện hành, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh phải
chịu hậu quả pháp lý khi thỏa mãn các yếu tố sau:
Một là, phải có hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Hành vi cạnh tranh đó có bản chất
là hành vi chiếm đoạt ưu thế cạnh tranh, hủy hoại ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp
khác một cách bất hợp pháp hoặc là hành vi tạo ra ưu thế cạnh tranh giả tạo.
Hai là, phải có thiệt hại trong cạnh tranh không lành mạnh. Thiệt hại là một đặc điểm cơ
bản của hành vi cạnh tranh không lành mạnh và là điểm phân biệt giữa cạnh tranh không
lành mạnh với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Việc xác định thiệt hại là một yêu cầu bắt
buộc và cần thiết để bên bị hại có căn cứ đòi bồi thường và cơ quan có thẩm quyền áp
dụng chế tài bồi thường thiệt hại.
Ba là, phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi cạnh tranh không lành mạnh và thiệt
hại. Quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại là mối quan hệ trực tiếp, không
phải là sự suy diễn chủ quan. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi diễn ra
trước, thiệt hại trực tiếp do hành vi đó gây ra xảy ra sau. Bên thực hiện hành vi cạnh
tranh không lành mạnh chỉ phải chịu trách nhiệm pháp lý và các chế tài tương ứng khi
gây ra thiệt hại nhất định cho đối thủ cạnh tranh, mà nguyên nhân trực tiếp là hành vi
cạnh tranh không lành mạnh của mình.
Bốn là, phải có lỗi trong cạnh tranh không lành mạnh. Lỗi là trạng thái tâm lý của người
có hành vi vi phạm, phản ánh nhận thức của người đó đối với hành vi và hậu quả của
hành vi mà họ thực hiện. Hành vi cạnh tranh bị coi là có lỗi và không lành mạnh là hành
vi vi phạm các tập quán nghề nghiệp, phá vỡ quan hệ bình đẳng, công bằng trong quan
hệ cạnh tranh trên thị trường.
Theo Điều 3 Nghị định 71/2014/NĐ-CP thì đối với mỗi hành vi vi phạm, tổ chức cá
nhân vi phạm phải chịu một trong các hình thức xử phạt chính cảnh cáo hoặc phạt tiền.
Mức tiền phạt tối đa đối với hành vi vi phạm quy định về cạnh tranh không lành mạnh là
100.000.000 đồng đối với cá nhân và 200.000.000 đồng đối với tổ chức. Mức tiền phạt
cụ thể đối với một hành vi vi phạm quy định về cạnh tranh không lành mạnh và vi phạm
pháp luật về cạnh tranh khác là mức trung bình của khung tiền phạt được quy định đối
với hành vi đó; nếu có tình tiết giảm nhẹ thì mức tiền phạt có thể giảm xuống nhưng
không được giảm quá mức tối thiểu của khung tiền phạt; nếu có tình tiết tăng nặng thì
mức tiền phạt có thể tăng lên nhưng không được vượt quá mức tiền phạt tối đa của
khung tiền phạt.
Tại Mục 4 Chương II Nghị định 71/2014/NĐ-CP quy định từng mức phạt cụ thể đối với
từng hành vi bị coi là cạnh tranh không lành mạnh (từ Điều 28 đến Điều 36).
• Các hình thức xử phạt bổ sung: Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, tổ chức, cá nhân
vi phạm pháp luật về cạnh tranh còn có thể bị áp dụng một hoặc các hình thức xử
phạt bổ sung như: Thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; tước quyền sử
dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề; Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng
để vi phạm pháp luật về cạnh tranh bao gồm cả tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ
việc thực hiện hành vi vi phạm.
• Các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 3 Điều 3 Nghị định
71/2004/NĐ-CP, theo đó khi hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra những tổn
Bài 4: Pháp luật cạnh tranh
LAW201_Bai4_v2.0018105230
90
thất về vật chất và tinh thần cho bên có quyền thì phải bồi thường thiệt hại nhằm khôi
phục, đền bù nhằm bù đắp những tổn thất đó. Khi áp dụng chế tài bồi thường thiệt
hại đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh thì dẫn chiếu đến pháp luật dân sự,
cụ thể là áp dụng các quy định tương ứng về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng (Bộ luật Dân sự).
Bên cạnh các biện pháp xử lý hành chính và dân sự nói trên, các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với các tội danh tương ứng
được quy định trong Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), như: Tội
sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 192); Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực,
thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 193); Tội sản xuất, buôn bán hàng
giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống
cây trồng, vật nuôi (Điều 194); Tội đầu cơ (Điều 196); Tội quảng cáo gian dối (Điều
197); Tội lừa dối khách hàng (Điều 198); Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
(Điều 226). Chế tài các tội phạm này là phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù có
thời hạn.
4.4. Trách nhiệm pháp lý vi phạm pháp luật cạnh tranh
4.4.1. Trách nhiệm hành chính
Theo quy định tại Điều 3 Nghị định số 71/2014/NĐ-CP ngày 21/7/2014 của Chính phủ
về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh, đối với mỗi hành vi vi phạm pháp
luật về cạnh tranh, tổ chức, cá nhân vi phạm phải chịu một trong các hình thức xử phạt
chính sau:
• Cảnh cáo;
• Phạt tiền.
Ngoài hình thức phạt chính là phạt tiền và cảnh cáo, Luật Cạnh tranh còn quy định các
hình thức phạt bổ sung như: thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, tước quyền sử
dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề; tịch thu tang vật, phương tiện sử dụng để vi phạm
pháp luật về cạnh tranh. Các biện pháp khắc phục hậu quả như: cơ cấu lại doanh nghiệp
đã lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường; chia, tách doanh nghiệp đã sáp nhập, hợp nhất;
buộc bán lại phần doanh nghiệp đã mua; cải chính công khai; loại bỏ những điều khoản
vi phạm pháp luật ra khỏi hợp đồng hoặc giao dịch kinh doanh; các biện pháp cần thiết
khác để khắc phục tác động hạn chế cạnh tranh của hành vi vi phạm.
Về mức tiền phạt đối với các hành vi vi phạm cũng có sự khác nhau. Đối với hành vi hạn
chế cạnh tranh, do tính chất nghiêm trọng của hành vi vi phạm gây ra đối với môi trường
cạnh tranh, nên mức tiền phạt được xác định theo tỷ lệ phần trăm doanh thu bán ra hoặc
doanh số mua vào của hàng hóa, dịch vụ liên quan đến hành vi vi phạm trong thời gian
thực hiện hành vi vi phạm của từng doanh nghiệp. Trường hợp không thể xác định được
doanh thu hoặc doanh số trong khoảng thời gian thực hiện hành vi vi phạm thì mức tiền
phạt được xác định theo tỷ lệ phần trăm tổng doanh thu hoặc doanh số trong năm tài
chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm. Đối với các hành vi vi phạm về thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền hoặc tập trung kinh tế, cơ
quan có thẩm quyền có thể phạt tiền tối đa lên tới 10% doanh thu của tổ chức, cá nhân vi
phạm trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm. Đối với hành vi cạnh
Bài 4: Pháp luật cạnh tranh
LAW201_Bai4_v2.0018105230
91
tranh không lành mạnh chủ yếu xâm phạm đến quyền và lợi ích chính đáng của các chủ
thể kinh doanh là đối thủ cạnh tranh. Cơ quan có thẩm quyền có thể tiến hành xử phạt
theo quy định của pháp luật có liên quan. Tuy nhiên, mức độ xử phạt đối với các hành vi
cạnh tranh không lành mạnh thường quy định theo khung hình phạt cố định, tùy từng
hành vi mà mức xử phạt khác nhau, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ khác nhau.
4.4.2. Trách nhiệm hình sự
Đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình
sự với các tội danh tương ứng được quy định trong Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi,
bổ sung năm 2017), như: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 192); Tội sản xuất, buôn
bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 193);
Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y,
thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi (Điều 194); Tội đầu cơ (Điều 196); Tội
quảng cáo gian dối (Điều 197); Tội lừa dối khách hàng (Điều 198); Tội xâm phạm quyền
sở hữu công nghiệp (Điều 226). Chế tài các tội phạm này là phạt tiền, cải tạo không
giam giữ hoặc phạt tù có thời hạn.
4.4.3. Trách nhiệm dân sự
Đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, ngoài chế tài về hình sự và hành chính,
còn có thể bị áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 3 Điều 3
Nghị định 71/2004/NĐ-CP, theo đó khi hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra
những tổn thất về vật chất và tinh thần cho bên có quyền thì phải bồi thường thiệt hại
nhằm khôi phục, đền bù nhằm bù đắp những tổn thất đó. Khi áp dụng chế tài bồi thường
thiệt hại đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh thì dẫn chiếu đến pháp luật dân sự,
cụ thể là áp dụng các quy định tương ứng về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng (Bộ luật Dân sự).
4.5. Giải quyết vụ việc cạnh tranh
4.5.1. Chủ thể có thẩm quyền
Theo pháp luật cạnh tranh hiện hành thì cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm gồm: Cơ
quan quản lý cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh.
Cơ quan quản lý cạnh tranh là cơ quan thuộc hệ thống cơ quan hành pháp, cụ thể là Cục
Quản lý cạnh tranh trực thuộc Bộ Công thương, có chức năng giúp Bộ trưởng thực hiện
quản lý nhà nước về cạnh tranh, bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và một số chức
năng khác theo quy định của pháp luật. Trong lĩnh vực cạnh tranh, cụ thể là trong việc
xử lý hành vi hạn chế cạnh tranh, Cục Quản lý cạnh tranh chỉ có thẩm quyển điều tra các
vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh mà không có thẩm quyền
giải quyết và xử lý vụ việc. Kết quả điều tra vụ việc phải được gửi lên Hội đồng Cạnh
tranh để giải quyết theo quy định của pháp luật. Ngoài thẩm quyền điều tra các vụ việc
cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh, Cục Quản lý cạnh tranh còn có
nhiệm vụ tổ chức điều tra và xử lý đối với các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi
cạnh tranh không lành mạnh và các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh khác theo quy
định của pháp luật. Thẩm định hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ theo quy định của pháp luật
để trình Bộ trưởng Bộ Công thương quyết định hoặc trình Thủ tướng Chính phủ quyết
Bài 4: Pháp luật cạnh tranh
LAW201_Bai4_v2.0018105230
92
định, kiểm soát quá trình tập trung kinh tế, xây dựng, quản lý hệ thống thông tin về các
doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, các doanh nghiệp độc quyền, về quy tắc
cạnh tranh trong hiệp hội, về các trường hợp miễn trừ.
Hội đồng cạnh tranh là cơ quan có vị trí đặc thù. Khoản 1 Điều 1 Nghị định
07/2015/NĐ-CP ngày 16/1/2015 của Chính phủ quy định Hội đồng Cạnh tranh là cơ
quan tiến hành tố tụng cạnh tranh độc lập do Chính phủ thành lập. Cơ cấu tổ chức của
Hội đồng Cạnh tranh bao gồm 11 đến 15 thành viên, do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm,
miễn nhiệm, theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công thương. Hội đồng Cạnh tranh có
nhiệm vụ tổ chức xử lý, giải quyết khiếu nại đối với các vụ việc cạnh tranh liên quan đến
hành vi hạn chế cạnh tranh. Hoạt động của Hội đồng Cạnh tranh được thực hiện trên cơ
sở báo cáo điều tra của Cục Quản lý cạnh tranh. Tuy được xếp vào hệ thống cơ quan
hành pháp song hoạt động của Hội đồng Cạnh tranh lại mang tính chất của cơ quan tài
phán do hội đủ những yếu tố cần thiết như: áp dụng pháp luật để ra phán quyết, thủ tục
xử lý mang tính chất tranh tụng, quyết định của Hội đồng Cạnh tranh chỉ bị xét lại bởi hệ
thống Tòa án. Là cơ quan hành pháp nhưng hoạt động của Hội đồng Cạnh tranh lại được
tổ chức xử lý theo chế độ tập thể chứ không theo chế độ thủ trưởng như các cơ quan
hành pháp khác. Cụ thể, theo pháp luật hiện hành, Chủ tịch Hội đồng Cạnh tranh sẽ chọn
ít nhất 05 thành viên trong số thành viên Hội đồng cạnh tranh tham gia Hội đồng xử lý
một vụ việc cạnh tranh. Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh sẽ quyết định vụ việc theo
nguyên tắc đa số.
4.5.2. Thủ tục giải quyết vụ việc cạnh tranh
Trình tự, thủ tục xử lý vụ việc cạnh tranh gồm ba giai đoạn cơ bản là điều tra vụ việc
cạnh tranh; xem xét, giải quyết vụ việc cạnh tranh và giải quyết khiếu nại quyết định xử
lý vụ việc cạnh tranh. Tuy nhiên, trình tự thủ tục xử lý đối với vụ việc hạn chế cạnh
tranh và cạnh tranh không lành mạnh là khác nhau.
Đối với vụ việc cạnh tranh không lành mạnh, cơ quan quản lý cạnh tranh có thể tự mình
quyết định tiến hành điều tra sơ bộ vụ việc cạnh tranh không lành mạnh, hoặc thụ lý hồ
sơ khiếu nại vụ việc cạnh tranh không lành mạnh. Thời hạn điều tra sơ bộ vụ việc cạnh
tranh không lành mạnh không quá 30 ngày kể từ ngày có quyết định điều tra sơ bộ.
Trong thời gian này, điều tra viên được phân công điều tra vụ việc cạnh tranh không
lành mạnh phải hoàn thành điều tra sơ bộ và kiến nghị Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh
tranh ra quyết định mở cuộc điều tra chính thức là 90 ngày, kể từ ngày có quyết định
điều tra chính thức. Trong trường hợp cần thiết, thời hạn này có thể được Thủ trưởng cơ
quan quản lý cạnh tranh gia hạn một lần không quá 60 ngày. Điều tra viên phải xác định
căn cứ chứng minh rằng bên bị điều tra đã hoặc đang thực hiện hành vi cạnh tranh không
lành mạnh. Trên cơ sở nội dung báo cáo điều tra, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ
(nếu có) theo quy định tại Điều 85 Nghị định 116/2005/NĐ-CP, Thủ trưởng cơ quan
quản lý cạnh tranh sẽ xem xét, ra quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh không lành mạnh.
Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có hiệu lực sau 30 ngày, kể từ ngày ký nếu trong
thời hạn đó không có khiếu nại. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày ký quyết định xử lý
vụ việc cạnh tranh, nếu không nhất trí một phần hoặc toàn bộ nội dung quyết định xử lý
vụ việc cạnh tranh thì các bên có quyền khiếu nại. Khiếu nại đối với quyết định xử lý vụ
việc cạnh tranh không lành mạnh của Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh thuộc thẩm
Bài 4: Pháp luật cạnh tranh
LAW201_Bai4_v2.0018105230
93
quyền xem xét, giải quyết của Bộ trưởng Bộ Công thương. Trường hợp không nhất trí
với quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh không lành
mạnh, các bên liên quan có quyền khởi kiện vụ án hành chính đối với một phần hoặc
toàn bộ nội dụng của quyết định giải quyết khiếu nại ra Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương có thẩm quyền.
Đối với vụ việc hạn chế cạnh tranh: Trình tự, thủ tục xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh
cũng bao gồm ba bước cơ bản kể trên, tuy nhiên khác với cạnh tranh không lành mạnh,
trình tự thủ tục xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh có phần phức tạp hơn. Cụ thể, đối với
vụ việc hạn chế cạnh tranh, thời hạn điều tra chính thức được kéo dài hơn so với thời hạn
áp dụng đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh, kéo dài 180 ngày, kể từ ngày có
quyết định điều tra chính thức; trường hợp cần thiết, thời hạn này có thể được Thủ
trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh gia hạn hai lần, mỗi lần không quá 60 ngày. Nội dung
điều tra bao gồm: xác minh thị trường liên quan, xác minh thị phần trên thị trường liên
quan của bên bị điều tra, thu nhập và phân tích chứng cứ về hành vi vi phạm. Kết thúc
điều tra chính thức, Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh phải chuyển báo cáo điều tra
cùng toàn bộ hồ sơ vụ việc hạn chế cạnh tranh đến Hội đồng Cạnh tranh. Chủ tịch Hội
đồng Cạnh tranh thành lập Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh để xem xét, giải quyết vụ
việc. Việc xem xét, xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh được Hội đồng xử lý vụ việc cạnh
tranh tiến hành thông qua phiên điều trần. Về nguyên tắc, phiên điều trần được mở công
khai. Nếu không đồng ý với quyết định của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh các bên
có quyền khiếu nại trong thời hạn 30 ngày. Khiếu nại đối với quyết định xử lý vụ việc
cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh thuộc thẩm quyền xem xét, giải quyết
của Hội đồng cạnh tranh. Trường hợp không nhất trí với quyết định giải quyết khiếu nại
về quyết định xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh, các bên liên quan có quyền khởi kiện vụ
án hành chính ra Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Bài 4: Pháp luật cạnh tranh
LAW201_Bai4_v2.0018105230
94
TÓM LƯỢC CUỐI BÀI
• Pháp luật cạnh tranh bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh hành vi cạnh tranh giữa các
chủ thể kinh doanh trên thương trường, đồng thời bao gồm cả các quy định đảm bảo thực thi
pháp luật cạnh tranh trong thực tế.
• Các đặc trưng của pháp luật cạnh tranh:
o Pháp luật cạnh tranh có tính tiếp cận từ mặt trái;
o Pháp luật cạnh tranh có tính mềm dẻo;
o Ngoài các quy định về nội dung điều chỉnh hành vi cạnh tranh, pháp luật cạnh tranh còn
có các quy định hình thức điều chỉnh hoạt động tố tụng cạnh tranh và xử lý vi phạm pháp
luật cạnh tranh.
• Hành vi hạn chế cạnh tranh là những hành vi của các doanh nghiệp trên thị trường luôn
hướng tới việc hình thành một sức mạnh thị trường hoặc lạm dụng sức mạnh thị trường, làm
cho tình trạng cạnh tranh trên thị trường bị bóp méo.
• Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong
quá trình kinh doanh, trái với chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại
hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh
nghiệp khác hoặc người tiêu dùng.
• Trách nhiệm pháp lý vi phạm pháp luật cạnh tranh gồm có trách nhiệm hành chính, trách
nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự.
• Các chủ thể có thẩm quyền giải quyết vụ việc cạnh tranh: Cơ quan quản lý cạnh tranh và Hội
đồng cạnh tranh.
• Thủ tục giải quyết vụ việc cạnh tranh gồm có ba giai đoạn: (i) Điều tra vụ việc cạnh tranh;
(ii) Xem xét, giải quyết vụ việc cạnh tranh; (iii) Giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc
cạnh tranh.
Bài 4: Pháp luật cạnh tranh
LAW201_Bai4_v2.0018105230
95
BÀI TẬP THỰC HÀNH
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Pháp luật cạnh tranh là gì và có đặc trưng gì?
2. Trình bày về hành vi hạn chế cạnh tranh.
3. Trình bày các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
4. Trình bày các chủ thể có thẩm quyền giải quyết vụ việc cạnh tranh.
5. Trình bày các giai đoạn trong thủ tục giải quyết vụ việc cạnh tranh.
CÂU HỎI ĐÚNG/SAI
1. Hành vi thông đồng để thắng thầu không thuộc nhóm hành vi lạm dụng vị trí độc quyền, vị
trí thống lĩnh.
2. Quy trình sản xuất sản phẩm là yếu tố được sử dụng để xác định thị trường sản phẩm
liên quan.
3. Các tiêu chí để xác định thị trường sản phẩm liên quan bao gồm: khả năng thay thế cho nhau
về đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả.
4. Mức phạt tiền đối với hành vi gây hạn chế cạnh tranh được tính căn cứ vào mức cố định do
pháp luật quy định.
5. Hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh có thể được thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý.
CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM
1. Chủ thể vi phạm pháp luật cạnh tranh có thể phải chịu hình thức trách nhiệm pháp lý nào?
A. Trách nhiệm kỷ luật và trách nhiệm hành chính.
B. Trách nhiệm hành chính, trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự.
C. Trách nhiệm hành chính và trách nhiệm vật chất.
D. Trách nhiệm kỷ luật và trách nhiệm vật chất.
2. Doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường nếu doanh nghiệp đó có thị phần trên thị trường
liên quan từ:
A. 50% trở lên.
B. 75% trở lên.
C. 30% trở lên.
D. 65% trở lên.
3. Nếu hai hoặc nhiều doanh nghiệp sau khi hợp nhất, sáp nhập là doanh nghiệp vừa và nhỏ và
có thị phần trên thị trường liên quan lớn hơn 50% thì:
A. hành vi tập trung kinh tế đó bị cấm.
B. hành vi tập trung kinh tế đó có thể bị cấm.
C. hành vi tập trung kinh tế đó không bị cấm.
D. hành vi tập trung kinh tế đó phải thông báo cho cơ quan quản lý cạnh tranh biết.
Bài 4: Pháp luật cạnh tranh
LAW201_Bai4_v2.0018105230
96
4. Doanh nghiệp thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể bị phạt tối đa là bao
nhiêu tiền?
A. 25 triệu đồng
B. 50 triệu đồng
C. 75 triệu đồng
D. 200 triệu đồng
5. Mức phạt tiền đối với hành vi gây hạn chế cạnh tranh được tính căn cứ vào yếu tố nào?
A. Thiệt hại thực tế do hành vi gây hạn chế cạnh tranh gây ra.
B. Theo mức cố định do pháp luật quy định.
C. Tổng doanh thu của doanh nghiệp trong năm tài chính trước đó.
D. Căn cứ vào mức doanh thu trung bình trong 3 năm trước đó của doanh nghiệp.
6. Trong đơn khởi kiện liên quan đến vụ việc cạnh tranh, bên nguyên đơn thường chứng minh
sự tồn tại của thị trường liên quan theo hướng:
A. mở rộng phạm vi thị trường.
B. loại bỏ sự tồn tại của thị trường.
C. thu hẹp phạm vi thị trường.
D. không cần phải chứng minh.
BÀI TẬP VẬN DỤNG
Bài tập 1
Ba doanh nghiệp A, B, C kinh doanh dịch vụ bảo hiểm cùng nhau thỏa thuận ấn định mức phí
bảo hiểm vận tải. Pháp luật đối xử với hành vi này như thế nào?.
Bài tập 2
Một số doanh nghiệp trong lĩnh vực xây dựng cùng nhau thỏa thuận ngầm để một doanh
nghiệp thắng thầu xây dựng. Pháp luật đối xử với hành vi này như thế nào?
Bài tập 3
Một hãng sản xuất bia có thị phần 10% trên thị trường liên quan yêu cầu các cửa hàng bia
nếu muốn nhận được ưu đãi về giá từ nhà sản xuất thì không được treo biển quảng cáo sản
phẩm bia của hãng khác. Hành vi đó có vi phạm pháp luật cạnh tranh hay không? Vì sao?
Bài tập 4
Nhà hàng A rất đông khách đến ăn do phong cách phục vụ tốt, món ăn ngon và giá cả hợp lý.
Nhà hàng B muốn lôi kéo khách của nhà hàng A nên tung tin đồn rằng chủ nhà hàng A bị
bệnh lao, rất dễ lây nhiễm. Hành vi tung tin đồn của nhà hàng B có vi phạm pháp luật cạnh
tranh không? Vì sao?
Bài tập 5
Doanh nghiệp X cho rằng doanh nghiệp Y đã quảng cáo so sánh trực tiếp hàng hóa của hai
doanh nghiệp với nhau bằng cách đưa ra một sản phẩm có hình dáng, màu sắc rất giống với
sản phẩm của X, sau đó đưa ra sản phẩm của Y và ghi dòng chữ lớn hơn 30%. Vậy khi khởi
kiện, X có cần chứng minh hành vi quảng cáo của Y đã gây thiệt hại cho X hay không?
Bài 4: Pháp luật cạnh tranh
LAW201_Bai4_v2.0018105230
97
ĐÁP ÁN
CÂU HỎI ĐÚNG/SAI
1. Đáp án đúng là: Sai.
Vì: Thông đồng để thắng thầu thuộc nhóm hành vi thỏa thuận gây hạn chế cạnh tranh theo
quy định tại khoản 8 Điều 8 Luật Cạnh tranh 2004.
2. Đáp án đúng là: Sai.
Vì: Theo Khoản 1 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2004, thị trường liên quan bao gồm thị trường sản
phẩm liên quan và thị trường địa lý liên quan.
3. Đáp án đúng là: Đúng.
Vì: Theo khoản 1 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2004, các tiêu chí để xác định thị trường sản phẩm
liên quan bao gồm: khả năng thay thế cho nhau về đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả.
4. Đáp án đúng là: Sai.
Vì: Căn cứ vào tổng doanh thu của doanh nghiệp trong năm tài chính trước đó theo quy định
tại Điều 118 Luật Cạnh tranh 2004.
5. Đáp án đúng là: Đúng.
Vì: Theo lý thuyết cấu thành vi phạm pháp luật cạnh tranh.
CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM
1. Đáp án đúng là: B. Trách nhiệm hành chính, trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự.
Vì: Theo quy định của Điều 117 Luật Cạnh tranh 2004 và Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự.
2. Đáp án đúng là: C. 30% trở lên.
Vì: Theo quy định tại Điều 11 Luật Cạnh tranh 2004, doanh nghiệp được coi là có vị trí
thống lĩnh thị trường nếu có thị phần từ 30% trở lên trên thị trường liên quan hoặc có khả
năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể.
3. Đáp án đúng là: C. hành vi tập trung kinh tế đó không bị cấm.
Vì: Được quy định tại Điều 18 Luật Cạnh tranh 2004, nhằm khuyến khích sự lớn mạnh của
các doanh nghiệp Việt Nam để vươn ra cạnh tranh với thế giới.
4. Đáp án đúng là: D. 200 triệu đồng.
Vì: Theo quy định tại định Nghị định số 71/2014/NĐ-CP về xử lý vi phạm pháp luật trong
lĩnh vực cạnh tranh.
Hành vi bị phạt đến 200 triệu đồng là hành vi bán hàng đa cấp bất chính diến ra trong phạm
vi từ hai tỉnh trở lên.
5. Đáp án đúng là: C. Tổng doanh thu của doanh nghiệp trong năm tài chính trước đó.
Vì: Theo quy định tại Điều 118 Luật Cạnh tranh 2004.
6. Đáp án đúng là: A. mở rộng phạm vi thị trường.
Bài 4: Pháp luật cạnh tranh
LAW201_Bai4_v2.0018105230
98
Vì: Theo lý thuyết về thị trường liên quan và khoản 1 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2004, để xác
định là các mặt hàng có cạnh tranh với nhau thì chúng phải tồn tại trên một thị trường liên
quan. Vì vậy, nguyên đơn phải cố gắng mở rộng phạm vi thị trường để thuyết phục cơ quan
giải quyết tranh chấp.
BÀI TẬP VẬN DỤNG
Bài tập 1
Đối với hành vi thỏa thuận ấn định giá là hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh được xác định
theo quy tắc lý do mà không phải hành vi vi phạm mặc nhiên. Theo đó, cần phải tính đến thị
phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận và lý do thỏa thuận. Do đó, theo quy
định tại Điều 9 Luật Cạnh tranh 2004 thì các thỏa thuận này chỉ bị cấm nếu các doanh nghiệp
tham gia thỏa thuận có thị phần kết hợp chiếm trên 30%.
Bài tập 2
Hành vi hoàn toàn bị cấm vì nó luôn gây ra hệ quả phản cạnh tranh và không thể được bằng
bất cứ lý do gì vì thông đồng để thắng thầu là hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh có cấu
thành hình thức.
Bài tập 3
Có vi phạm pháp luật cạnh tranh vì theo Điều 42 Luật Cạnh tranh 2004, đây là hành vi ép
buộc trong kinh doanh - hành vi đe dọa hoặc cưỡng ép khách hàng hoặc đối tác kinh doanh của
doanh nghiệp khác để họ không được giao dịch hoặc ngừng giao dịch với doanh nghiệp đó.
Bài tập 4
Có vi phạm pháp luật cạnh tranh vì đó là hành vi gièm pha - hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp
đưa ra thụng tin không trung thực, gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài chính và hoạt
động kinh doanh của đối thủ cạnh tranh.
Bài tập 5
Không cần chứng minh hành vi quảng cáo của Y gây thiệt hại cho X vì đây là hành vi cạnh
tranh không lành mạnh, có cấu thành hình thức nên X không cần chứng minh thiệt hại đã xảy
ra trên thực tế.