32
KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM 1945-1975

KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM 1945-1975

  • Upload
    papina

  • View
    93

  • Download
    0

Embed Size (px)

DESCRIPTION

KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM 1945-1975. I. Bối cảnh xã hội, lịch sử và văn hóa. Sự lãnh đạo của Đảng với đường lối văn nghệ xuyên suốt là yếu tố trọng yếu chấm dứt sự phân hóa phức tạp của văn hóa và văn học nước ta những năm trước 45, tạo nên một nền văn nghệ khá thống nhất về tư tưởng. - PowerPoint PPT Presentation

Citation preview

Page 1: KHÁI QUÁT  VĂN HỌC VIỆT NAM 1945-1975

KHÁI QUÁT

VĂN HỌC VIỆT NAM 1945-1975

Page 2: KHÁI QUÁT  VĂN HỌC VIỆT NAM 1945-1975

I. Bối cảnh xã hội, lịch sử và văn hóa

Sự lãnh đạo của Đảng với đường lối văn nghệ xuyên suốt là yếu tố trọng yếu chấm dứt sự phân hóa phức tạp của văn hóa và văn học nước ta những năm trước 45, tạo nên một nền văn nghệ khá thống nhất về tư tưởng.

Hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ suốt 30 năm đã tác động sâu sắc, toàn diện tới đời sống tinh thần nói chung và đời sống văn học nói riêng.

Nền kinh tế chậm phát triển, điều kiện giao lưu văn hóa bị hạn chế đã có ảnh hưởng không nhỏ đến văn học.

Page 3: KHÁI QUÁT  VĂN HỌC VIỆT NAM 1945-1975
Page 4: KHÁI QUÁT  VĂN HỌC VIỆT NAM 1945-1975
Page 5: KHÁI QUÁT  VĂN HỌC VIỆT NAM 1945-1975
Page 6: KHÁI QUÁT  VĂN HỌC VIỆT NAM 1945-1975

II. Quá trình phát triển và những thành tựu chủ yếu

Chặng 1: Kháng chiến chống Pháp (1945- 1954)

Nội dung chủ đạo:

1945-1946: Đây là thời kỳ văn học chuyển mình. Văn học cách mạng là trào lưu chủ đạo, chi phối, nhưng vẫn còn đan xen với những xu hướng văn học khác.

1946-1954: Văn học gắn bó sâu sắc với đời sống cách mạng và kháng chiến; hướng tới khám phá sức mạnh và phẩm chất tốt đẹp của quần chúng công nông binh; thể hiện niềm tự hào dân tộc và niềm tin vào tương lai tất thắng của kháng chiến.

Page 7: KHÁI QUÁT  VĂN HỌC VIỆT NAM 1945-1975

“Cái giờ nghiêm trọng của đời mày đang điểm. Bây giờ hoặc là không bao giờ nữa, mày phải cương quyết. Không có thứ nhân đạo nào cấm mày không được tàn nhẫn ngay với mày. Mày hãy diệt hết những con người cũ ở trong mày đi – những con người mà mày mệnh danh là cố nhân, theo một cái cố tật ưa du dương với kỷ niệm. Đào thải, chưa đủ. Phải tàn sát. Giết, giết hết. Thò đứa nào ở dĩ vãng hiện về đòi hỏi bất cứ một tí gì của mày bây giờ, là mày phải giết ngay. Mày phải tự hoại nội tâm của mày đi đã. Mà hãy lấy mày ra làm lửa mà đốt cháy hết những phong cảnh cũ của tâm tưởng mày”… Chàng chạy ra đường. Ngoài đường, cuộc Cách Mệnh đang bước dài trên khắp ngả phố. Trên các cửa sổ mở, gió đời lùa cờ máu bay theo một chiều… Nguyễn thấy mệt mỏi trong lòng và trên thân chàng thì xót nhức vô cùng. Thì ra, lúc ở nhà ra đi, chàng vừa chịu xong một cái nhục hình. Lý trí đã lột hết lượt da trên mình Nguyễn… Cái luồng gió ban nãy thổi cờ máu, thổi mãi vào thịt non Nguyễn đang se dần lại. Nguyễn thèm đến một con rắn mỗi năm thoát xác một lần…

Trích “Lột xác” (1946)Nguyễn Tuân

Page 8: KHÁI QUÁT  VĂN HỌC VIỆT NAM 1945-1975

II. Quá trình phát triển và những thành tựu chủ yếuChặng 1: Kháng chiến chống Pháp (1945- 1954)

Những thành tựu chủ yếu:

a/ Văn xuôi:

+ Mở đầu cho văn xuôi kháng chiến là truyện ngắn và ký (Một lần tới thủ đô - Trần Đăng, Đôi mắt, Ở rừng - Nam Cao, Làng - Kim Lân, Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài…)

+ Từ 1951 mới xuất hiện những tác phẩm tiểu thuyết dày dặn (Vùng mỏ - Võ Huy Tâm, Đất nước đứng lên – Nguyên Ngọc…)

b/ Thơ:

+ Đạt được những thành tựu bước đầu về cách tân nghệ thuật, phát triển lối thơ tự do (Màu tím hoa sim – Hữu Loan, Tình sông núi, Nhớ máu - Trần Mai Ninh, Không nói, Đêm mít tinh - Nguyễn Đình Thi…) và lối thơ dân tộc (Cá nước, Bầm ơi - Tố Hữu…)

Page 9: KHÁI QUÁT  VĂN HỌC VIỆT NAM 1945-1975

Nhớ máu – Trần Mai Ninh

Ơ cái gió Tuy Hoà…Cái gió chuyên cầnVà phóng túng.Gió đi ngang, đi dọc,Gió trẻ lại - lưng chừngGió nghĩGió cười,Gió reo lên lồng lộng.

Tôi đã thấy lòng tôi dậyRồi đâyCòn mấy bước tới Nha Trang- A, gần lắm!Ta gần máu,Ta gần người,Ta gần quyết liệt.

Ơi hỡi Nha Trang!Cái đô thành vĩ đạiBiết bao người niệm đọc tên mi.

Và Khánh Hoà vĩ đại!Mắt ta căng lênCả mặtCả người,Cả hồn ta sát tớiNhìn mi!Ta có nhớNhững con ngườiĐã bước vào bất tử!Ơ, những người!Đen như mực, đặc thành keoTròn một củHay những người gầy sắt lạiMặt rẹt một đường gươmLạnh gáyLòng bàn tayKhắc ấn chuỗi dao găm.Chân bọc sắt,Mắt khoét thủng đêm dày …

TRẦN MAI NINH

(1917-1947)

Page 10: KHÁI QUÁT  VĂN HỌC VIỆT NAM 1945-1975

NHỚ Hồng Nguyên

Lũ chúng tôi

Bọn người tứ xứ,

Gặp nhau từ hồi chưa biết chữ

Biết nhau từ buổi “một hai”

Súng bắn chưa quen,

Quân sự mươi bài

Lòng vẫn cười vui kháng chiến

Lột sắt đường tàu,

Rèn thêm đao kiếm,

Áo vải chân không,

Đi lùng giặc đánh.

Ba năm rồi gửi lại quê hương.

Mái lều gianh,

Tiếng mõ đêm trường,

Luống cày đất đỏ

Ít nhiều người vợ trẻ

Mòn chân bên cối gạo canh khuya

Chúng tôi đi

Nắng mưa sờn mép ba lô,

Tháng năm bạn cùng thôn xóm.

Nghỉ lại lưng đèo

Nằm trên dốc nắng.

Kì hộ lưng nhau ngang bờ cát trắng.

Quờ chân tìm hơi ấm đêm mưa.

- Đằng nớ vợ chưa?

- Đằng nớ?

- Tớ còn chờ độc lập.

Cả lũ cười vang bên ruộng bắp,

Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu.

Page 11: KHÁI QUÁT  VĂN HỌC VIỆT NAM 1945-1975

NHỚ Hồng Nguyên

[…]

Chúng tôi đi mang cuộc đời lưu động,

Qua nhiều nơi không nhớ hết tên làng.

Đã nghỉ lại rất nhiều nhà dân chúng

Tôi nhớ bờ tre gió lộng

Làng xuôi xóm ngược mái rạ như nhau

Có nắng chiều đột kích mấy hàng cau.

Có tiếng gà gáy xóm,

Có “Khai hội, yêu cầu, chất vấn!”

Có mẹ hiền bắt rận cho những đứa con xa.

Trăng lên tập hợp hát om nhà.

Tôi nhớ

Giường kê cánh cửa,

Bếp lửa khoai vùi

Đồng chí nứ vui vui,

Đồng chí nứ dạy tôi dăm tối chữ,

Đồng chí mô nhớ nữa,

Kể chuyện Bình – Trị – Thiên,

Cho bầy tôi nghe ví,

Bếp lửa rung rung đôi vai đồng chí- Thưa trong nớ hiện chừ vô cùng gian khổ,Đồng bào ta phải kháng chiến ra ri.

Đêm đó chúng tôi điNòng súng nghiêng nghiêng,Đường mòn thấp thoáng…Trong điếm nhỏ,Mươi người trai tráng,Sờ chuôi lựu đạn.Ngồi thổi nùn rơmThức vừa rạng sáng.Nhìn trời sương nhẩm bước chúng tôi điChúng tôi đi nhớ nhất câu ni:Dân chúng cầm tay lắc lắc:“Độc lập nhớ rẽ viền chơi ví chắc!”

Page 12: KHÁI QUÁT  VĂN HỌC VIỆT NAM 1945-1975

KHÔNG NÓI Nguyễn Đình Thi

Dừng chân trong mưa bay

ướt đầm mái tóc

Em em nhìn đi đâu

Môi em đôi mắt

Còn ôm đây

Nhìn em nữa

Phút giây

Chiều mờ gió hút

Em

Bóng nhỏ

Đường lầy.

1948

Dừng chân trong mưa bay

Liếp nhà ai ánh lửa 

Yên lặng đứng trước nhau

Em em nhìn đi đâu

Em sao em không nói

Mưa rơi ướt mái đầu

Mỗi đứa một khăn gói

Ngày nào lần gặp sau

Ngập ngừng không dám hỏi

Chuyến này chắc lại lâu

Đoàn thể gọi

Chiều mờ gió hút

Nào đồng chí - bắt tay

Em

Bóng nhỏ

Đường lầy.

Page 13: KHÁI QUÁT  VĂN HỌC VIỆT NAM 1945-1975

BẦM ƠI Tố Hữu

Ai về thăm mẹ quê taChiều nay có đứa con xa nhớ thầm...

Bầm ơi có rét không bầm!Heo heo gió núi, lâm thâm mưa phùnBầm ra ruộng cấy bầm runChân lội dưới bùn, tay cấy mạ nonMạ non bầm cấy mấy đonRuột gan bầm lại thương con mấy lần.Mưa phùn ướt áo tứ thânMưa bao nhiêu hạt, thương bầm bấy nhiêu!

Bầm ơi, sớm sớm chiều chiềuThương con, bầm chớ lo nhiều bầm nghe!Con đi trăm núi ngàn kheChưa bằng muôn nỗi tái tê lòng bầmCon đi đánh giặc mười nămChưa bằng khó nhọc đời bầm sáu mươi.Con ra tiền tuyến xa xôiYêu bầm yêu nước, cả đôi mẹ hiền.

Nhớ thương con bầm yên tâm nhéBầm của con, mẹ Vệ quốc quân.Con đi xa cũng như gầnAnh em đồng chí quây quần là con.

Bầm yêu con, yêu luôn đồng chíBầm quý con, bầm quý anh em.Bầm ơi, liền khúc ruột mềmCó con có mẹ, còn thêm đồng bàoCon đi mỗi bước gian laoXa bầm nhưng lại có bao nhiêu bầm!Bao bà cụ từ tâm như mẹYêu quý con như đẻ con ra.Cho con nào áo nào quàCho củi con sưởi, cho nhà con ngơi.Con đi, con lớn lên rồiChỉ thương bầm ở nhà ngồi nhớ con!Nhớ con, bầm nhé đừng buồnGiặc tan, con lại sớm hôm cùng bầm.

Mẹ già tóc bạc hoa râmChiều nay chắc cũng nghe thầm tiếng con...

Page 14: KHÁI QUÁT  VĂN HỌC VIỆT NAM 1945-1975

II. Quá trình phát triển và những thành tựu chủ yếu

Chặng 1: Kháng chiến chống Pháp (1945- 1954)

Giai đoạn này chứng kiến sự hình thành

của NỀN VĂN NGHỆ MỚI: Văn học bật lên

từ cuộc sống đời thường nhộn nhịp và gian

khổ của kháng chiến, khắc họa hình ảnh

nhân dân kháng chiến.

Page 15: KHÁI QUÁT  VĂN HỌC VIỆT NAM 1945-1975

II. Quá trình phát triển và những thành tựu chủ yếu

Chặng 2: Kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam và xây dựng XHCN ở miền Bắc (1955- 1964)

Nội dung bao trùm: Hình ảnh con người mới xã hội chủ nghĩa.

Những thành tựu chủ yếu:

a/ Văn xuôi: mở rộng đề tài

- Đề tài kháng chiến chống Pháp (Sống mãi với thủ đô - Nguyễn Huy Tưởng, Cao điểm cuối cùng - Hữu Mai…)

- Đề tài hiện thực đời sống trước cách mạng tháng Tám (Vợ nhặt - Kim Lân, Vỡ bờ - Nguyễn Đình Thi, Cửa biển – Nguyên Hồng …)

- Đề tài công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội gắn với sự đổi đời của con người (Sông Đà - Nguyễn Tuân, Mùa lạc - Nguyễn Khải, Cái sân gạch - Đào Vũ…)

Page 16: KHÁI QUÁT  VĂN HỌC VIỆT NAM 1945-1975

II. Quá trình phát triển và những thành tựu chủ yếu

Chặng 2: Kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam và xây dựng XHCN ở miền Bắc (1955- 1964)

Những thành tựu chủ yếu:

b/ Thơ: tiếp tục đẩy mạnh những tìm tòi, đổi mới về nghệ thuật. Thơ tự do ngày càng mở rộng, phong phú về hình thức (Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên)

Page 17: KHÁI QUÁT  VĂN HỌC VIỆT NAM 1945-1975

Xanh biếc màu xanh, bể như hàng nghìn mùa thu

qua còn để tâm hồn nằm đọng lại

Sóng như hàng nghìn trưa xanh trời đã tan xanh ra

thành bể và thôi không trở lại làm trời

Nếu núi là con trai thì bể là phần yểu điệu nhất

của quê hương đã biến thành con gái

Mỗi đêm hè, da thịt sóng sinh sôi.

(Cành phong lan bể - Chế Lan Viên)

Page 18: KHÁI QUÁT  VĂN HỌC VIỆT NAM 1945-1975

Quê hương Giang Nam

Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trườngYêu quê hương qua từng trang sách nhỏ“Ai bảo chăn trâu là khổ?”Tôi mơ màng nghe chim hót trên caoNhững ngày trốn họcĐuổi bướm cầu aoMẹ bắt đượcChưa đánh roi nào đã khóc!Có cô bé nhà bênNhìn tôi cười khúc khích…

Cách mạng bùng lênRồi kháng chiến trường kỳQuê tôi đầy bóng giặcTừ biệt mẹ, tôi điCô bé nhà bên – (có ai ngờ)Cũng vào du kíchHôm gặp tôi vẫn cười khúc khíchMắt đen tròn (thương thương quá đi thôi!)Giữa cuộc hành quân không nói được một lờiĐơn vị đi qua, tôi ngoái đầu nhìn lạiMưa đầy trời nhưng lòng tôi ấm mãi…

Hòa bình tôi trở về đâyVới mái trường xưa, bãi mía, luống càyLại gặp emThẹn thùng nép sau cánh cửaVẫn khúc khích cười khi tôi hỏi nhỏChuyện chồng con (khó nói lắm anh ơi!)Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn ngậm ngùiEm vẫn để yên trong tay tôi nóng bỏng…

Hôm nay nhận được tin emKhông tin được dù đó là sự thậtGiặc bắn em rồi, quăng mất xácChỉ vì em là du kích, em ơi!Đau xé lòng anh, chết nửa con người!

Xưa yêu quê hương vì có chim có bướmCó những ngày trốn học bị đòn roiNay yêu quê hương vì trong từng nắm đấtCó một phần xương thịt của em tôi.

Page 19: KHÁI QUÁT  VĂN HỌC VIỆT NAM 1945-1975

II. Quá trình phát triển và những thành tựu chủ yếuChặng 3: Toàn quốc chống Mỹ (1965 - 1975)

Nội dung chủ đạo: phản ánh cuộc kháng chiến chống Mỹ và xây dựng hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ.

Những thành tựu chủ yếu:

a/ Văn xuôi: Truyện và ký phát triển mạnh ở cả 2 miền Nam Bắc nhằm phản ánh chính xác và kịp thời hiện thực kháng chiến (Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi – Nguyễn Tuân, Người mẹ cầm súng – Nguyễn Thi, Hòn Đất – Anh Đức…)

b/ Thơ:

+ Đào sâu chất hiện thực, suy tưởng, chính luận.

+ Hình thành một lớp nhà thơ trẻ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ (Bằng Việt, Nguyễn Duy, Xuân Quỳnh, Phạm Tiến Duật, Trần Đăng Khoa, Nguyễn Khoa Điềm…)

+ Thơ tự do và trường ca là hai thể loại phát triển mạnh mẽ.

Page 20: KHÁI QUÁT  VĂN HỌC VIỆT NAM 1945-1975

PHẠM TIẾN DUẬT (1941-2007)

Không có kính, ừ thì có bụi, Bụi phun tóc trắng như người già Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha. 

Không có kính, ừ thì ướt áo Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi. 

Những chiếc xe từ trong bom rơi Ðã về đây họp thành tiểu đội Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi. 

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy Võng mắc chông chênh đường xe chạy Lại đi, lại đi trời xanh thêm. 

Không có kính, rồi xe không có đèn, Không có mui xe, thùng xe có xước, Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước Chỉ cần trong xe có một trái tim.

BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH

Không có kính không phải vì xe không có kính Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi Ung dung buồng lái ta ngồi, Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng. 

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Như sa, như ùa vào buồng lái.

Page 21: KHÁI QUÁT  VĂN HỌC VIỆT NAM 1945-1975

LƯU QUANG VŨ (1948-1988) – XUÂN QUỲNH (1942-1988)

Page 22: KHÁI QUÁT  VĂN HỌC VIỆT NAM 1945-1975

Ôi cái quần chéo goỐng rộng dài quét đấtCái áo cánh chúc bâuĐi qua nghe sột soạt

Tiếng gà trưaMang bao nhiêu hạnh phúcĐêm cháu về nằm mơGiấc ngủ hồng sắc trứng

Cháu chiến đấu hôm nayVì lòng yêu tổ quốcVì xóm làng thân thuộcBà ơi, cũng vì bàVì tiếng gà cục tácỔ trứng hồng tuổi thơ. 

Tiếng gà trưa Xuân Quỳnh

Trên đường hành quân xaDừng chân bên xóm nhỏTiếng gà ai nhảy ổ:"Cục... cục tác cục ta"Nghe xao động nắng trưaNghe bàn chân đỡ mỏiNghe gọi về tuổi thơ

Tiếng gà trưaỔ rơm hồng những trứngNày con gà mái tơKhắp mình hoa đốm trắngNày con gà mái vàngLông óng như màu nắng

Tiếng gà trưaCó tiếng bà vẫn mắng:- Gà đẻ mà mày nhìnRồi sau này lang mặt!Cháu về lấy gương soiLòng dại thơ lo lắng

Tiếng gà trưaTay bà khum soi trứngDành từng quả chắt chiuCho con gà mái ấp

Cứ hàng năm hàng nămKhi gió mùa đông tớiBà lo đàn gà toiMong trời đừng sương muốiĐể cuối năm bán gàCháu được quần áo mới

Page 23: KHÁI QUÁT  VĂN HỌC VIỆT NAM 1945-1975

Hạt gạo làng ta Có bão tháng bảyCó mưa tháng baGiọt mồ hôi saNhững trưa tháng sáuNước như ai nấuChết cả cá cờCua ngoi lên bờMẹ em xuống cấy…

Hạt gạo làng taNhững năm bom MỹTrút trên mái nhàNhững năm khẩu súngTheo người đi xaNhững năm băng đạnVàng như lúa đồngBát cơm mùa gặtThơm hào giao thông…

Hạt gạo làng taCó công các bạnSớm nào chống hạnVục mẻ miệng gàuTrưa nào bắt sâuLúa cao rát mặtChiều nào gánh phânQuang trành quét đất…

Hạt gạo làng taGửi ra tiền tuyếnGửi về phương xaEm vui em hátHạt vàng làng ta.

HẠT GẠO LÀNG TA

Hạt gạo làng ta

Có vị phù sa

Của sông Kinh Thầy

Có hương sen thơm

Trong hồ nước đầy

Có lời mẹ hát

Ngọt bùi đắng cay.

TRẦN ĐĂNG KHOA (1958-)

Page 24: KHÁI QUÁT  VĂN HỌC VIỆT NAM 1945-1975

III. Những đặc điểm cơ bản1. Nền văn học chủ yếu vận động theo hướng cách mạng

hóa, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nước

Mô hình nhà văn – chiến sĩ

Nội dung phản ánh những vấn đề lớn lao, trọng đại nhất của đất nước và cách mạng (tất cả các nội dung đời tư đều được nhìn nhận lại từ góc độ này)

Sự hình thành CÁI TÔI QUẦN CHÚNG (cái tôi cá nhân tan hòa vào tập thể, nhân dân, phát ngôn nhân danh dân tộc, thời đại và nhân loại tiến bộ)

Page 25: KHÁI QUÁT  VĂN HỌC VIỆT NAM 1945-1975

Là thi sĩ phải là hồn cao khiết,Chí kiên cường và sứ mệnh cao siêu;Ca tự do, tiến bộ với tình yêu- Yêu nhân loại, hòa bình và công lý -Cao giọng hát những bài ca chính khíCủa anh hùng đã vì nước quên mình,Sống quang vinh mà chết cũng quang vinh,Của Bãi Sậy, Thái Nguyên và Yên Bái...[…]Là thi sĩ nghĩa là cao khúc họaCuộc đấu tranh vĩ đại của hoàn cầuChống hung tàn xâm lược khắp năm châu,Trên trái đất dựng cao cờ dân chủ.Dùng cán bút làm đòn xoay chế độ,Mỗi vần thơ: bom đạn phá cường quyền,Và lúc cần, quẳng bút lấy long tuyền.

Là thi sĩ – Sóng Hồng

Page 26: KHÁI QUÁT  VĂN HỌC VIỆT NAM 1945-1975

Hãy nhìn đây!Nhìn ta phút này!Ôi không chỉ là ta với con gái nhỏ trong tayTa là Hôm nayVà con ta, Ê-mi-ly ơi, con là Mãi mãi!Ta đứng đây,Với trái tim vĩ đạiCủa trăm triệu con ngườiNước Mỹ.Để đốt sáng đến chân trờiMột ngọn đènCông lý. ...

Emily, con – Tố Hữu

Page 27: KHÁI QUÁT  VĂN HỌC VIỆT NAM 1945-1975

III. Những đặc điểm cơ bản1. Nền văn học chủ yếu vận động theo hướng cách mạng

hóa, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nước

2. Nền văn học hướng về đại chúng

Quần chúng là nguồn bổ sung cho lực lượng sáng tác

Quần chúng là đối tượng phản ánh của văn học

Quần chúng là đối tượng phục vụ của văn học

Page 28: KHÁI QUÁT  VĂN HỌC VIỆT NAM 1945-1975

III. Những đặc điểm cơ bản1. Nền văn học chủ yếu vận động theo hướng cách mạng

hóa, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nước

2. Nền văn học hướng về đại chúng

3. Nền văn học mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn

Khuynh hướng sử thi: là khuynh hướng xây dựng những tượng đài thiêng liêng, lớn lao, đại diện cho sức mạnh của cộng đồng

- Đề tài: những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và tính chất toàn dân tộc

- Nhân vật chính: những con người đại diện cho tinh hoa, khí phách, phẩm chất, ý chí toàn dân tộc, tiêu biểu cho lí tưởng dân tộc

- Lời văn : ngợi ca, tráng lệ, hào hùng

Page 29: KHÁI QUÁT  VĂN HỌC VIỆT NAM 1945-1975

III. Những đặc điểm cơ bản1. Nền văn học chủ yếu vận động theo hướng cách mạng

hóa, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nước

2. Nền văn học hướng về đại chúng

3. Nền văn học mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn

Cảm hứng lãng mạn: là cảm hứng khẳng định cái tôi dạt dào tình cảm cách mạng

- Niềm tin yêu mãnh liệt vào tương lai đất nước và dân tộc

- Xu hướng xây dựng những hình ảnh đẹp đẽ, bay bổng, nâng đỡ con người vượt qua thực tế gian khổ.

Page 30: KHÁI QUÁT  VĂN HỌC VIỆT NAM 1945-1975

DÁNG ĐỨNG VIỆT NAM Lê Anh Xuân

Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhứt

Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực

thăng

Và Anh chết trong khi đang đứng bắn

Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng.

Chợt thấy Anh, giặc hốt hoảng xin hàng

Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn

Bởi Anh chết rồi, nhưng lòng dũng cảm

Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công.

Anh tên gì hỡi Anh yêu quý

Anh vẫn đứng lặng im như bức thành đồng

Như đôi dép dưới chân Anh giẫm lên bao xác Mỹ

Mà vẫn một màu bình dị, sáng trong

Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ

Anh chẳng để lại gì cho Anh trước lúc lên đường

Chỉ để lại cái dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ

Anh là chiến sĩ Giải phóng quân.

Tên Anh đã thành tên đất nước

Ôi anh Giải phóng quân!

Từ dáng đứng của Anh giữa đường băng Tân Sơn Nhứt

Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân.

3.1968

Page 31: KHÁI QUÁT  VĂN HỌC VIỆT NAM 1945-1975

Ta đi giữa ban ngày

Trên đường cái, ung dung ta bước.

Đường ta rộng thênh thang tám thước

Đường Bắc Sơn, Đình Cả, Thái Nguyên

Đường qua Tây Bắc, đường lên Điện Biên

Đường cách mạng, dài theo kháng chiến...

Đến hôm nay đường xuôi về biển

Mới tinh khôi màu đất đỏ tươi

Đẹp vô cùng, Tổ quốc ta ơi!

Rừng cọ đồi chè, đồng xanh ngào ngạt

Nắng chói sông Lô, hò ô tiếng hát

Chuyến phà rào rạt bến nước Bình Ca...

Ai qua Phú Thọ

Ai xuôi Trung Hà

Ai về Hưng Hóa

Ai xuống khu Ba

Ai vào khu Bốn

Đường ta đó, tự do cuồn cuộn

Bốt đồn Tây đã cuốn sạch rồi!

Sông Thao nô nức sóng dồi

Ai về Hà Nội thì xuôi cùng thuyền.

Ờ, đã chín năm rồi đấy nhỉ!

Kháng chiến ba ngàn ngày không nghỉ

Bắp chân, đầu gối vẫn săn gân.

Ngẩng đầu lên: Trong sáng tuyệt trần

Tháng Tám mùa thu xanh thẳm

Mây nhởn nhơ bay

Hôm nay ngày đẹp lắm!

Mây của ta, trời thẳm của ta

Nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà!

Ta đi tới – Tố Hữu

Page 32: KHÁI QUÁT  VĂN HỌC VIỆT NAM 1945-1975

CUỘC CHIA LY MÀU ĐỎNguyễn Mỹ

Ðó là cuộc chia ly chói ngời sắc đỏ 

Tươi như cánh nhạn lai hồng 

Trưa một ngày sắp ngả sang đông 

Thu, bỗng nắng vàng lên rực rỡ: 

Tôi nhìn thấy một cô áo đỏ 

Tiễn đưa chồng trong nắng vườn hoa 

Chồng của cô sắp sửa đi xa 

Cùng đi với nhiều đồng chí nữa 

Chiếc áo đỏ rực như than lửa 

Cháy không nguôi trước cảnh chia li 

Vườn cây xanh và chiếc nón trắng kia 

Không giấu nổi tình yêu cô rực cháy. 

Không che được nước mắt cô đã chảy 

Những giọt long lanh nóng bỏng sáng ngời 

Chảy trên bình minh đang hé giữa làn môi 

Và rạng đông đang bừng trên nét mặt 

- Một rạng đông với màu hồng ngọc 

Cây si xanh gọi họ đến ngồi 

Trong bóng rợp của mình, nói tới ngày mai 

Ngày mai sẽ là ngày sum họp 

Ðã toả sáng những tâm hồn cao đẹp! 

Nắng vẫn còn ngời trên những mắt lá si 

Và người chồng ấy đã ra đi... 

Cả vườn hoa đã ngập tràn nắng xế 

Cánh hoa đỏ vẫn còn rung nhè nhẹ 

Gió nói tôi nghe những tiếng thì thào 

"Khi Tổ quốc cần, họ biết sống xa nhau..." 

Nhưng tôi biết cái màu đỏ ấy 

Cái màu đỏ như cái màu đỏ ấy 

Sẽ là bông hoa chuối đỏ tươi 

Trên đỉnh dốc cao vẫy gọi đoàn người 

Sẽ là ánh lửa hồng trên bếp 

Một làng xa giữa đêm gió rét... 

Nghĩa là màu đỏ ấy theo đi 

Như chưa hề có cuộc chia ly...