131
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected] Trang MỤC LỤC Tran g LỜI MỞ ĐẦU 6 1

Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected] Trang

MỤC LỤC

Trang

LỜI MỞ ĐẦU 6

CHƯƠNG I: Một số vấn đề lý luận về xuất khẩu và vai trò của

xuất khẩu hàng may mặc trong doanh nghiệp

8

I. Khái niệm, các hình thức xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu 8

II. Vai trò của xuất khẩu hàng may mặc đối với Việt Nam. 14

III. Thị trường cho hàng may mặc và xu hướng nhập khẩu

hàng may mặc trên thế giới.

16

CHƯƠNG II: Thực trạng kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc ở

Tổng Công ty Dệt - May Việt Nam giai đoạn 1995-1998.

29

I. Những nét khái quát về Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam. 29

II. Thực trạng xuất khẩu hàng may mặc của Tổng Công ty

Dệt- May thời kỳ 1995-1998.

42

III. đánh giá chung những thành tựu và hạn chế của hoạt động

xuất khẩu hàng may mặc ở Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam.

61

CHƯƠNG III: Phương hướng và giải pháp chủ yếu đẩy mạnh

xuất khẩu hàng may mặc ở Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam

trong thời gian tới.

67

I. Triển vọng xuất khẩu hàng may mặc của Tổng Công ty

trong thời gian tới.

67

II. Những giải pháp chủ yếu về phía Tổng Công ty Dệt-May

Việt Nam.

73

III. Một số kiến nghị Chính phủ. 80

KẾT LUẬN 86

1

Page 2: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

TÀI LIỆU THAM KHẢO 88

2

Page 3: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

LỜI MỞ ĐẦU

Đặc trưng quan trọng của tình hình thế giới ngày nay là xu hướng quốc tế

hoá. Nền kinh tế thế giới ngày càng phát triển, mỗi nước dù lớn hay nhỏ đều

phải tham gia vào sự phân công lao động khu vực và quốc tế. Ngày nay

không một dân tộc nào có thể phát triển đất nước mình mà chỉ bằng tự lực

cánh sinh. Đặc biệt đối với các nước đang phát triển như Việt Nam thì việc

nhận thức đầy đủ những đặc trưng quan trọng này và ứng dụng vào tình hình

thực tế đất nước có tầm quan trọng hơn bao giờ hết. ở nước ta, Khi xác định

những quan điểm lớn về công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nghị đại biểu toàn

quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng đã khẳng định “kiên trì chiến lược

hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm

trong nước sản xuất có hiệu quả, phát huy lợi thế so sánh của đất nước cũng

như của từng vùng, từng nghành, từng lĩnh vực trong từng thời kỳ, không

ngừng nâng cao sức mạnh cạnh tranh trên thị trường trong nước, thị trường

khu vực và thị trường thế giới” .

Thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, trong

những năm qua thương mại Việt Nam đã đạt được những thành tựu bước đầu

quan trọng, góp phần tạo nên những biến đổi sâu sắc nền kinh tế - xã hội nước

ta và vị thế mới trên thị trường quốc tế. Việt Nam đã thiết lập được nhiều mối

quan hệ ngoại giao với nhiều nước, tiếp tục mở rộng hoạt động ngoại thương

theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá, tích cực hội nhập vào nền kinh tế thế

giới, tham gia các tổ chức thương mại quốc tế như ASEAN, AFTA, APEC . ..

Điều này đã đạc biệt làm cho lĩnh vực xuất nhập khẩu ngay càng trở nên sôi

động.

Trong số 10 mặt hàng có giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của Việt

Nam, phải kể đến hàng dệt may. Tuy đứng ở vị trí thứ hai, nhưng đây là mặt

hàng có nhiều lợi thế so sánh và có khả năng phát triển cao. Hơn nữa, với

điều kiện tình hình nước ta hiện nay, tập trung phát triển hàng dệt may là hoàn

toàn phù hợp.

Như vậy, cả về mặt lý luận và thực tiễn, đề tài “ Một số biện pháp đẩy

3

Page 4: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

mạnh xuất khẩu hàng may mặc ở Tổng Công ty Dệt May Việt Nam” góp

phần giải quyết những vấn đề đặt ra quan trọng và cần thiết. Trong đề tài này,

tôi chỉ tập trung phân tích tình hình thực tế hoạt động kinh doanh xuất khẩu

hàng may mặc của Tổng Công ty Dệt May Việt Nam giai đoạn 1995 - 1998,

tìm ra những thành công và những vấn đề còn tồn tại ở Tổng Công ty . Trên

cơ sở đó, đưa ra một số biện pháp kiến nghị nhằm mở rộng hoạt động và tăng

cường hiệu quả kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc của Tổng Công ty trong

thời gian tới.

Đề tài chia làm ba chương :

Chương I : Một số vấn đề lý luận về xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu

hàng may mặc đối với nền kinh tế Việt Nam.

Chương II : Thực trang xuất khẩu hàng may mặc ở Tổng Công ty dệt

may Việt Nam giai đoạn 1995 - 1998.

Chương III : Phương hướng và giải phấp chủ yếu đẩy mạnh xuất khẩu

hàng may mặc của tổng Công ty trong thời gian tới.

Trong quá trìng tìm hiểu và hoàn thành đề tài, Tôi đã được sự chỉ bảo chi

tiết của thầy giáo - MBA Bùi Anh Tuấn, sự giúp tận tình của các bác, các cô

ở Tổng Công ty Dệt may Việt Nam. Tôi xin chân thành cảm ơn và rất mong

nhận được ý kiến nhận xét giúp tôi có thể hoàn thiện kiến thức chuyên môn

của mình.

4

Page 5: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

CHƯƠNG I

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XUẤT KHẨU VÀ VAI TRÒ CỦA

XUẤT KHẨU HÀNG MAY MẶC TRONG

DOANH NGHIỆP

I. KHÁI NIỆM, CÁC HÌNH THỨC XUẤT KHẨU VÀ VAI TRÒ CỦA

XUẤT KHẨU

1. Khái niệm :

Xuất khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế.

Nó không phải là hành vi buôn bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan

hệ mua bán trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài

nhằm bán sản phẩm, hàng hoá sản xuất trong nước ra nước ngoài thu ngoại tệ,

qua đẩy mạnh sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế oỏn

định từng bước nâng cao mức sống nhân dân.

Kinh doanh xuất nhập khẩu cũng chính là hoạt động kinh doanh quốc tế

đầu tiên của một doanh nghiệp. Hoạt động này được tiếp tục ngay cả khi

doanh nghiệp đã đa dạng hoá hoạt động kinh doanh của mình.

Xuất khẩu hàng hoá nằm trong lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hoá

của một quá trình tái sản xuất mở rộng, nhằm mục đích liên kết sản xuất với

tiêu dùng của nước này với nước khác. Nền sản xuất xã hội phát triển như thế

nào phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động kinh doanh này.

2. Các hình thức xuất khẩu thông dụng ở Việt Nam

a/ Xuất khẩu uỷ thác

Trong phương thức này, đơn vị có hàng xuất khẩu là bên uỷ thác giao cho

đơn vị xuất khẩu gọi là bên nhận uỷ thác tiến hành xuất khẩu một hoặc một số

lô hàng nhất định với danh nghĩa của mình (bên nhận uỷ thác) nhưng với chi

phí của bên uỷ thác. Về bản chất, chi phí trả cho bên nhận uỷ thác chính là

tiền thu lao trả cho đại lý. Theo nghị định 64-HĐBT, chi phí uỷ thác xuất

5

Page 6: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

khẩu không cao hơn 1% của tổng số doanh thu ngoại tệ về xuất khẩu theo

điều kiện FOB tại Việt Nam.

Ưu nhược điểm của xuất khẩu uỷ thác:

-Ưu điểm: Công ty uỷ thác xuất khẩu không phải bỏ vốn vào kinh doanh,

tránh được rủi ro trong kinh doanh mà vẫn thu được một khoản lợi nhuận là

hoa hồng cho xuất khẩu. Do chỉ thực hiện hợp đồng uỷ thác xuất khẩu nên tất

cả các chi phí từ nghiên cứu thị trường, giao dịch đàm phán ký kết hợp đồng

và thực hiện hợp đồng không phải chi, dẫn tới giảm chi phí trong hoạt động

kinh doanh của Công ty.

-Nhược điểm: do không phải bỏ vốn vào kinh doanh nên hiệu quả kinh

doanh thấp không bảo đảm tính chủ động trong kinh doanh. Thị trường và

khách hàng bị thu hẹp vì Công ty không có liên quan tới việc nghiên cứu thị

trường và tìm khách hàng.

b/ Xuất khẩu trực tiếp:

Trong phương thức này, đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp ký kết

hợp đồng ngoại thương, với tư cách là một bên phải tổ chức thực hiện hợp

đồng đó. Hợp đồng ký kết giữa hai bên phải phù hợp với luật lệ quốc gia và

quốc tế, đồng thời bảo đảm được lợi ích quốc gia và đảm bảo uy tín kinh

doanh của doanh nghiệp. Để thực hiện hợp đồng xuất khẩu, đơn vị kinh doanh

phải tiến hành các khâu công việc:

Giục mở L/C và kiểm tra luận chứng (nếu hợp đồng quy định sử dụng

phương pháp tín dụng chứng từ), xin giấy phép xuất khẩu, chuẩn bị hàng hoá

làm thủ tục hải quan, giao hàng lên tàu, mua bảo hiểm, làm thủ tục thanh toán

và giải quyết khiếu nại (nếu có).

Ưu nhược điểm của hình thức xuất khẩu trực tiếp:

-Ưu điểm: Với phương thức này, đơn vị kinh doanh chủ động trong kinh

doanh, tự mình có thể thâm nhập thị trường và do vậy có thể đáp ứng nhu cầu

thị trường, gợi mở, kích thích nhu cầu. Nếu đơn vị tổ chức hoạt động kinh

doanh tốt sẽ đem lại hiệu quả kinh doanh cao, tự khẳng định mình về sản

6

Page 7: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

phẩm, nhãn hiệu ... dần dần đưa được uy tín về sản phẩm trên thế giới.

- Nhược điểm: Trong điều kiện đơn vị mới kinh doanh được mấy năm thì

áp dụng hình thức này rất khó do điều kiện vốn sản xuất hạn chế, am hiểu

thương trường quốc tế còn mờ nhạt, uy tín nhãn hiệu sản phẩm còn xa lạ với

khách hàng

c/ Gia công hàng xuất khẩu.

Gia công hàng xuất khẩu là một phương thức kinh doanh trong đó một bên

(gọi là bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của

một bên khác (gọi là bên đặt gia công) để chế biến ra thành phẩm giao lại cho

bên đặt gia công và nhận thù lao ( gọi là chi phí gia công). Tóm lại, gia công

xuất khẩu là đưa các yếu tố sản xuất (chủ yếu là nguyên vật liệu) từ nước

ngoài về để sản xuất hàng hoá theo yêu cầu của bên đặt hàng, nhưng không

phải để tiêu dùng trong nước mà để xuất khẩu thu ngoại tệ chênh lệch do hoạt

động gia công đem lại. Vì vậy, suy cho cùng, gia công xuất khẩu là hình thức

xuất khẩu lao động, nhưng là loại lao động dưới dạng được sử dụng(được thể

hiện trong hàng hoá) chứ không phải dưới dạng xuất khẩu nhân công ra nước

ngoài.

Gia công xuất khẩu là một phương thức phổ biến trong thương mại quốc

tế. Hoạt động này phát triển sẽ khai thác được nhiều lợi thế của hai bên: bên

đặt gia công và bên nhận gia công.

3.Vị trí, vai trò của hoạt động xuất khẩu.

Xuất khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc

tế. Nó không phải là hành vi mua bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan

hệ mua bán trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài

nhằm bán sản phẩm, hàng hoá sản xuất trong nước ra nước ngoài thu ngoại tệ,

qua đó có thể đẩy mạnh sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh

tế ổn định từng bước nâng cao mức sống nhân dân. Do vậy, xuất khẩu là hoạt

động kinh tế đối ngoại để đem lại những hiệu quả đột biến cao hoặc có thể

gây thiệt hại vì nó phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà

chủ thể trong nước tham gia xuất khẩu không dễ dàng khống chế được.

7

Page 8: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

Xuất khẩu hàng hoá nằm trong lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng

hoá của một quá trình tái sản xuất mở rộng, nhằm mục đích liên kết sản xuất

với tiêu dùng của nước này với nước khác. Nền sản xuất xã hội phát triển như

thế nào phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động kinh doanh này.

Đối với nước ta, nền kinh tế đang bước đầu phát triển, cơ sở vật chất kỹ

thuật còn thấp kém, không đồng bộ, dân số phát triển nhanh nên việc đẩy

mạnh xuất khẩu thu ngoại tệ cải thiện đời sống và phát triển kinh tế là cực kỳ

quan trọng. Đảng và Nhà nước ta chủ trương phát triển quan hệ đối ngoại và

kinh tế đối ngoại đặc biệt hướng mạnh vào xuất khẩu hàng hoá là một chủ

chương đúng đắn phù hợp với quy luật kinh tế khách quan. Hơn bao giờ hết,

xuất khẩu hàng hoá thực sự có vai trò quan trọng, cụ thể là:

Thứ nhất: Hoạt động xuất khẩu tạo nguồn vốn ngoại tệ quan trọng để

đảm bảo nhu cầu nhập khẩu.

Trong kinh doanh quốc tế, xuất khẩu không phải là chỉ để thu ngoại tệ về,

mà là với mục đích đảm bảo cho nhu cầu nhập khẩu hàng hoá dịch vụ khác

nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng, tăng trưởng nền kinh tế và tiến tới xuất

siêu (xuất khẩu > nhập khẩu), tích luỹ ngoại tệ (thực chất là đảm bảo chắc

chắn hơn nhu cầu nhập khẩu trong tương lai).

Xuất khẩu và nhập khẩu trong thương mại quốc tế vừa là điều kiện, vừa là

tiền đề của nhau xuất khẩu để nhập khẩu và nhập khẩu để phát triển xuất

khẩu. Đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, để phát triển kinh

tế, tránh được nguy cơ tụt hậu với thế giới, đồng thời còn tìm cách đuổi kịp

thời đại, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại

hoá đất nước. Trong đó nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ hiện đại là

một điều kiện tiên quyết. Muốn nhập khẩu, chúng ta phải có ngoại tệ, có các

nguồn ngoại tệ sau:

- Xuất khẩu hàng hoá. dịch vụ.

- Viện trợ đi vay, đầu tư ....

- Liên doanh đầu tư nước ngoài với ta.

8

Page 9: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

- Các dịch vụ thu ngoại tệ: ngân hàng, du lịch ...

Có thể thấy rằng, trong các nguồn trên thì xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ là

nguồn quan trọng nhất vì: nó chiếm tỷ trọng lớn, đồng thời là khả năng bảo

đảm trả được các khoản đi vay, viện trợ ... trong tương lai. Như vậy cả về dài

hạn và ngắn hạn, xuất khẩu luôn là câu hỏi quan trọng cho nhập khẩu.

Thứ hai: Hoạt động xuất khẩu phát huy được các lợi thế của đất nước.

Để xuất khẩu được, các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu phải lựa chọn

được những ngành nghề, mặt hàng có tổng chi phí (chi phí sản xuất và chi phí

xuất khẩu) nhỏ hơn giá trị trung bình trên thị trường thế giới. Họ phải dựa vào

những ngành hàng, những mặt hàng khai thác được các lợi thế của đất nước

cả về tương đối và tuyệt đối. Ví dụ như trong các mặt hàng xuất khẩu mũi

nhọn của ta thì dầu mỏ, thuỷ sản, gạo, than đá là những mặt hàng khai thác lợi

thế tuyệt đối nhiều hơn (vì chỉ một số nước có điều kiện để sản xuất các mặt

hàng này). Còn hàng may mặc khai thác chủ yếu lợi thế so sánh về giá nhân

công rẻ. Tuy nhiên, phân biệt lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh chỉ mang ý

nghĩa tương đối.

Hoạt động xuất khẩu vừa thúc đẩy thai thác các lợi thế của đất nước vừa

làm cho việc khai thác đó có hiệu quả hơn vì khi xuất khẩu, các doanh nghiệp

xuất nhập khẩu có ngoại tệ để nhập máy móc, thiết bị tiên tiến đưa năng suất

lao động lên cao. Các lợi thế cần khai thác ở nước ta là nguồn lao động dồi

dào, cần cù, giá thuê rẻ, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và địa thế

địa lý đẹp.

Thứ ba: Hoạt động xuất khẩu góp phần làm chuyển dịch cơ cấu sản

xuất, định hướng sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Chúng ta biết rằng có hai xu hướng xuất khẩu: xuất khẩu đa dạng và xuất

khẩu mũi nhọn.

Xuất khẩu đa dạng là có mặt hàng nào xuất khẩu được thì xuất khẩu nhằm

thu được nhiều ngoại tệ nhất, nhưng với mỗi mặt hàng thì lại nhỏ bé về quy

mô, chất lượng thấp (vì không được tập trung đầu tư) nên không hiệu quả.

9

Page 10: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

Xuất khẩu hàng mũi nhọn: Tuân theo quy luật lợi thế so sánh của David

Ricardo tức là tập trung vào sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng mà mình

có điều kiện nhất, có lợi thế so sánh hay chính là việc thực hiện chuyên môn

hoá và phân công lao động quốc tế. Khi đó, nước ta có khả năng chiếm lĩnh

thị trường, trở thành "độc quyền" mặt hàng đó và thu lợi nhuận siêu ngạch.

Xuất khẩu mũi nhọn có tác dụng như đầu của một con tàu, tuy nhỏ bé nhưng

nó có động cơ, do đó nó có thể kéo cả đoàn tàu tiến lên. Hiện nay, đây là

hướng xuất khẩu chủ yếu của nước ta, có kết hợp với xuất khẩu đa dạng để

tăng thu ngoại tệ.

Và khi mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn đem lại hiệu quả cao thì các doanh

nghiệp sẽ tập trung đầu tư để phát triển ngành hàng đó, dẫn đến phát triển các

ngành hàng có liên quan. Ví dụ: Khi ngành may xuất khẩu phát triển làm cho

ngành dệt cũng phát triển để cung cấp nguyên vật liệu cho ngành may dẫn đến

ngành trồng bông, đay cũng phát triển để cung cấp nguyên vật liệu cho ngành

dệt.

Hơn nữa, xu hướng xuất khẩu là mũi nhọn làm thay đổi cơ cấu các ngành

sản xuất trong nền kinh tế vì cơ cấu một nền kinh tế chính là số lượng các

ngành sản xuất và tỷ trọng của chúng so với tổng thể.

Rõ ràng, tỷ trọng ngành hàng mũi nhọn là tăng lên và tăng mạnh còn trong

nội bộ ngành đó thì những khâu, những loại sản phẩm ưa chuộng trên thị

trường thế giới cũng sẽ phát triển hơn. Tức là xuất khẩu hàng mũi nhọn làm

thay đổi cơ cấu ngành và cả cơ cấu trong nội bộ một ngành theo hướng khai

thác tối ưu lợi thế so sánh của đất nước.

Mặt khác, trên thị trường thế giới yêu cầu về hàng hoá dịch vụ ở mức chất

lượng cao, cạnh tranh gay gắt. Chỉ có các doanh nghiệp đủ mạnh ở mỗi nước

mới tham gia thị trường thế giới. Do đó, các doanh nghiệp kinh doanh xuất

nhập khẩu phải nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí để tồn tại và phát

triển.

Toàn bộ các tác động trên làm cho nền kinh tế phát triển tăng trưởng theo

hướng tích cực. Đó là ý nghĩa kinh tế của hoạt động xuất khẩu.

10

Page 11: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

Thứ tư: Giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, tạo thu nhập

và tăng mức sống.

Về ngắn hạn, để tập trung phát triển các ngành hàng xuất khẩu thì phải cần

thêm lao động, còn để xuất khẩu có hiệu quả thì phải tận dụng được lợi thế

lao động nhiều, giá rẻ ở nước ta. Chính vì thế mà chúng ta chủ trương phát

triển ngành nghề cần nhiều lao động như ngành may mặc. Với một đất nước

hơn 70 triệu dân, tỷ lệ thất nghiệp tương đối cao thì đây là một vấn đề có ý

nghĩa rất lớn trong điều kiện nước ta hiện nay.

Thứ năm: Hoạt động xuất khẩu nâng cao uy tín nước ta trên thị trường

thế giới tăng cường quan hệ kinh tế đối ngoại.

Hoạt động xuất khẩu đem lại ngoại tệ, góp phần làm cân bằng cán cân

thanh toán, là một trong bốn điều kiện đánh giá nền kinh tế của một nước:

GDP, lạm pháp, thất nghiệp và cán cân thanh toán. Cao hơn nữa là xuất siêu,

tăng tích luỹ ngoại tệ, luôn đảm bảo khả năng thanh toán với đối tác, tăng

được tín nhiệm. Qua hoạt động xuất khẩu, hàng hoá Việt Nam được bầy bán

trên thị trường thế giới, khuyếch trương được tiếng vang và sự hiểu biết.

Hoạt động xuất khẩu làm cho các quan hệ kinh tế chặt chẽ hơn, làm tiền đề

thúc đẩy các hoạt động kinh tế đối ngoại khác như dịch vụ du lịch, ngân hàng,

đầu tư, hợp tác, liên doanh ....

Tóm lại : phát triển hoạt động xuất khẩu là một chiến lược để phát triển

nền kinh tế nước ta.

II. VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU HÀNG MAY MẶC ĐỐI VỚI VIỆT

NAM.

Trước khi tìm hiểu vai trò của xuất khẩu chúng ta phải xác định được

nhiệm vụ của chúng đó là:

- Phải biết khai thác có hiệu quả lợi thế của đất nước, kích thích các

ngành kinh tế phát triển.

- Phải góp phần tăng tích luỹ, mở rộng sản xuất tăng thu nhập cho nền

11

Page 12: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

kinh tế quốc dân.

- Xuất khẩu là cải thiện đời sống nhân dân thông qua việc tạo công ăn việc

làm, tạo nguồn thu nhập.

- Phải biết khai thác những thị trường hiện có và quan tâm tới thị trường

chưa được khai thác.

- Lợi dụng khối lượng mua hàng lớn lao của nước ngoài.

- Tìm thị trường cho sản phẩm khi lượng bán giảm sút.

- Mở rộng nền tảng bán hàng để trải rộng chi phí bán hàng.

- Sử dụng năng lực sản xuất thừa.

- Biết được những phương pháp kỹ thuật tiên tiến được sử dụng ở nước

ngoài.

- Theo dõi sự cạnh tranh của các đối thủ có sản phẩm cùng loại trên thị

trường.

Ngoài ra hoạt động kinh doanh xuất khẩu còn phải có nhiệm vụ góp phần

thực hiện tốt chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước: “Đa dạng hoá và

đa phương hoá quan hệ quốc tế, tăng cường hợp tác khu vực “.

Để thực hiện tốt nhiệm vụ kể trên thì công tác xuất khẩu phải nhận rõ các

vai trò quan trọng sau:

- Thu ngoại tệ về cho đất nước, đây là nguồn vốn quan trọng để thoả mãn

nhu cầu nhập khẩu và tích luỹ phát triển sản xuất. Thật vậy, nhập khẩu cũng

như vốn đầu tư của một nước thường dựa vào ba nguồn chủ yếu là viện trợ,

đi vay, xuất khẩu.

Trong khi mức viện trợ là bị đọng và có hạn, còn đi vay sẽ tạo thêm gánh

nặng cho nền kinh tế thì xu hướng phát triển xuất khẩu để tự đảm bảo và phát

triển được coi như một chiến lược quan trọng mà hầu hết các nước đều ứng

dụng.

12

Page 13: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

- Xuất khẩu là công cụ giải quyết thất nghiệp trong nước; theo

International Trade 1980-1990 ở Mỹ và các nước công nghiệp phát triển cứ

xuất khẩu 1tỷ USD thì tạo được 40 nghìn việc làm trong nước, còn ở các

nước tư bản đang phát triển khác có thể tạo ra 45-50 nghìn chỗ việc làm. ở

nước ta nền công nghiệp còn lạc hậu, năng suất lao động thấp nên xuất khẩu

1 tỷ USD thì sẽ tạo được trên 50 nghìn chỗ làm việc trong nước.

- Xuất khẩu làm tăng hiệu quả sản xuất trong nước và tăng hiệu quả sử

dụng vốn thông qua tác động ngược chiều đối với việc đổi mới trang thiết bị

hiện đại và phương thức quản lý tiên tiến.

- Khai thác các tiềm năng, phát huy các lợi thế của đất nước, kích thích

các ngành lts phát triển cả về quy mô lẫn chiều sâu. Đặc biệt là sự tác động

đến sự thay đổi cơ cấu ngành kinh tế theo hướng ngày càng sử dụng có hiệu

quả các lợi thế đất nước. Phát triển các ngành công nghiệp, áp dụng kỹ thuật

tiên tiến giúp có thêm nguồn lức công nghiệp mới, tăng năng suất lao động,

tiết kiệm chi phí lao động xã hội.

- Tạo điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá của quốc gia.

- Đẩy mạnh xuất khẩu còn có vai trò tăng cường sự hợp tác quốc tế giữa

các nước, nâng cao địa vị và uy tín của Việt Nam trên thương trường quốc

tế. Nhờ có những hàng xuất khẩu mà nhiều Công ty nước ngoài biết đến năng

lực của ta và sẵn sàng thiết lập quan hệ buôn bán và đầu tư.

Như vậy, xuất khẩu nó không chỉ đóng vai trò xúc tác, hỗ trợ phát triển mà

nó có thể thành yếu tố bên trong của sự phát triển; trực tiếp tham gia vào việc

giải quyết các vấn đề bên trong của nền kinh tế quốc dân như vốn, kỹ thuật,

lao động, nguyên liệu, thị trường...

III. THỊ TRƯỜNG CHO HÀNG MAY MẶC VÀ XU HƯỚNG NHẬP

KHẨU HÀNG MAY MẶC TRÊN THẾ GIỚI.

1. Về thị trường may mặc Việt Nam.

1.1. thị trường EU:

Thị trường EU với dân số 340 triệu là nơi tiêu thụ lớn và đa dạng các loại

13

Page 14: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

quần áo. Mức tiêu thụ thị trường này là khá cao: 17 kg / người / năm. Ở đây,

người ta có thấy đủ loại hàng hoá từ các nước như Mỹ, Trung Quốc, Nhật,

Hồng Kông, Đài Loan. Hàng năm EU nhập khoảng 63 tỷ USD quần áo vừa

qua hạn ngạch mà EU dành cho công nghệ là 22 nghìn tấn hàng dệt may giá

trị khoảng 450 triệu USD và hiệp định ký cho giai đoạn tới 1998-200 giá trị sẽ

tăng 40% và so với giá trị hiệp định cũ (chi giai đoạn 1993-1997). Đây là thị

trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam và EU ký hiệp định buôn bán dệt

may từ năm 1992 trong đó có hạn ngạch gia công thuần tuý (TPP). Có nghĩa

là khách hàng gửi nguyên phụ liệu từ một nước thứ ba thuê gia công tại Việt

Nam, sau đó xuất sang EU. Còn nếu khách hàng EU gửi nguyên phụ liệu từ

EU sang gia công tại Việt Nam, sau đó xuất ngược lại sang EU thì không tính

vào hạn ngạch. Qua 5 năm thực hiện hiệp định buôn bán hàng dệt may với EU

sản xuất hàng may mặc của Việt Nam sang thị trường này đã có bước tiến

vững chắc. Năm 1993 tổng kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam

vào EU đạt được khoảng 250 triệu USD, năm 1996 đạt 400 triệu USD và dự

kiến năm 1998 sẽ đạt 650 triệu USD.

Bảng 5: Một số chủng loại hàng đạt mức xuất khẩu cao của Việt Nam

vào EU qua các năm (Đơn vị: Triệu chiếc)

Tên hàng Chủng loại 1995 1996 1997

Jacket Cat 21 8,9 9,4 11,7

T- Shirt Cat 4 2,9 3,71

áo len Cat 5 1,65 1,81

Quần Cat 6 1,65 2,4

áo sơ mi nữ Cat 7 0,91 1,49

áo khoách nữ Cat 15 0,13 0,17

áo dài nữ Cat 26 0,19 0,39

Váy ngắn Cat 27 0,14 0,23

(Nguồn: Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam.)

Cũng như các năm trước đây mặt hàng áo Jacket luôn chiếm tỷ trọng lớn

trong cơ cấu xuất khẩu may mặc đi EU và thường chiếm 50% trong tổng kim

ngạch. Chất lượng hàng may mặc Việt Nam đã được khách hàng chấp nhận,

14

Page 15: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

chỉ tính riêng năm 1996 hàng dệt-may Việt Nam đã xuất sang tất cả các nước

EU với giá trị hàng trăm triệu USD, đứng đầu là Đức ( 150 triệu USD), Pháp

(60 triệu USD), Tây Ban Nha ( 16 triệu USD), Bỉ ( 10 triệu USD), Thuỵ Điển

(7,5 triệu USD), Bồ Đào Nha ( 1,3 triệu USD)...

Thị trường may mặc EU có tiềm năng và triển vọng rất lớn đối với các

doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, để có được điều đó, các doanh nghiệp

Việt Nam phải tuân thủ những quy định khá nghiêm ngặt khi xuất khẩu vào

thị trường này như:

- Không được mua bán, chuyển nhượng hạn ngạch để xuất khẩu các mặt

hàng có xuất xứ từ các nước khác vào EU.

- Các doanh nghiệp Việt Nam không được lợi dụng thuế ưu đãi, giá nhân

công trong nước rẻ để bán hàng rẻ hơn mức giá hiện hành gây bất lợi cho

các nhà sản xuất cùng loại hàng đó hoặc các mặt hàng trực tiếp bị cạnh

tranh của EU. Có thể sẽ bị áp dụng quy định cụ thể đã được hai bên thoả

thuận.

- Các doanh nghiệp Việt Nam không được phép bán hàng cho nước thứ ba

để tái xuất vào EU.

- Đối với hàng gia công tại Việt Nam khi xuất sang EU phải ghi rõ phí gia

công, giá trị nguyên vật liệu mua tại Việt Nam để làm căn cứ giảm thuế nhập

khẩu vào EU.

Trong hiệp định cũng quy định rõ danh mục hàng hoá và kim ngạch mà

Việt Nam đưa vào EU ( tổng cộng 151 nhóm mặt hàng với 108 nhóm thoe

hạn ngạch và 43 nhóm tự do). Hạn ngạch năm trước không dùng hết có thể

chuyển sang năm sau. Đặc biệt trong hiệp định này còn quy định hàng năm

Việt Nam và EU sẽ xem xét khả năng xuất khẩu của Việt Nam để nới lỏng

hạn ngạch cấp cho Việt Nam. Bởi vậy, đây là thị trường tiềm năng lớn, các

doanh nghiệp của ta cần tuân thủ tốt các quy định này, tránh làm tổn hại đến

quan hệ buôn bán giữa nước ta và cộng đồng kinh tế Châu Âu.

1.2. Thị trường Nhật Bản

15

Page 16: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

Nhật Bản là một thị trường nhập khẩu may mặc lớn thứ ba thế giới và đây

là thị trường phi hạn ngạch. Nhưng đây cũng là một thị trường khó tính với

những đòi hỏi khắt khe cả về chất lượng và giá cả, họ thường yêu cầu kiểm

tra chất lượng chi tiết và quan tâm nhiều tới mẫu mốt. Ví dụ như:

- Đồ lót, tất: mốt chiếm 70,5%

- Quần áo nữ: 56,4%là mốt; 37,5% là giá và còn lại là phẩm chất.

- Comple nam: 50% là phẩm chất; 43,7% là mốt và còn lại là giá cả.

Với dân số khoảng 120 triệu người và mức thu nhập bình quân đầu người

26 nghìn USD/năm thì nhu cầu về may mặc là không nhỏ, hàng năm Nhật

Bản nhập khẩu khoảng 7-8 tỷ USD hàng may mặc. Năm 1994 hàng may Việt

Nam xuất sang Nhật xấp xỉ 130 triệu USD, năm 1996 xuất sang Nhật chiếm

90% kim ngạch của mảng thị trường không hạn ngạch và đạt 500 triệu USD.

Mặt khác, xuất sang Nhật thường là áo Jacket, quần áo sơ mi do các đơn vị

phía Bắc gia công, áo Kimono do các đơn vị phía Nam thực hiện.

Đây tuy là thị trường đòi hỏi cao song cũng đầy hứa hẹn, neus như đầu tư

tốt, nâng cao được chất lượng, mẫu mã phong phú, màu sắc đa dạng, nắm

vững thị hiếu thì có khả năng hàng may mặc của ta sé phát triển mạnh ở thị

trường này.

1.3. Thị trường Hoa Kỳ và Bắc Mỹ

Mỹ là thị trường khá hấp dẫn, lý tưởng của ngành dệt-may vì dân số Mỹ

khá đông, hiện có 253 triệu người, đa số sống ở thành thị có mức thu nhập

quốc dân cao. Do đó người Mỹ có sức mua lớn và nhu cầu đa dạng. Riêng

hàng dệt may nhu cầu nhập khẩu hàng năm lên tới 30-36 tỷ USD như năm

1996 là 34 tỷ USD. Nguồn nhập chủ yếu là từ các nước Châu Á:

Bảng 6: Một số nguồn nhập khẩu chính về hàng may mặc tại Châu Á của

Hoa Kỳ.

Nước Giá trị ( tỷ USD)Trung Quốc 6,1Hồng Kông 5Hàn Quốc 1,8

16

Page 17: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

Đài Loan 2,3Các nước ASEAN khác 4,5

(Nguồn: Tổng Công ty dệt may Việt Nam.)

Tháng 2/1994 Mỹ bỏ cấm vận với Việt Nam, tháng 8/1994 Mỹ bỏ cấm vận

viện trợ và tháng 7/1995 Mỹ bình thường hoá mối quan hệ với Việt Nam. Tuy

nhiên, chúng ta đang mong chờ được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN-The

Most Favourel Nation) cho hàng nhập khẩu từ Mỹ vào Việt Nam. Đây cũng là

điều kiện chìa khoá để xâm nhập thị trường Mỹ.

Phải nói rằng, thị trường may mặc Bắc Mỹ là một miếng mồi béo bở, hấp

dẫn ngay bởi mức cầu lơn, tính thời trang, mẫu mốt và thị hiếu thể hiện rất rõ

phong cách của người Mỹ; đó là sự phong phú và khác biệt. Song với Việt

Nam sự lạc quan đó vẫn nằm trong nỗi ô âu vì Mỹ chưa dành cho Việt Nam

MFN và như vậy hàng may Việt Nam qua Mỹ phải chịu thuế nhập khẩu còn

rất cao, từ 40-49% giá trị nhập khẩu. Trong khi Trung Quốc và một số nước

khác được hưởng quy chế này chỉ phải chịu thuế 25%. Ưu thế cạnh tranh đã

không tthuộc về các doanh nghiệp Việt Nam. Mặt khác, ngân hàng hai nước

chưa có mối quan hệ bạn hàng bang giao chặt chẽ nên việc thanh toán còn là

một vấn đề bất cập. Trường hợp này đã có thực tế khi có một Công ty Mỹ

muốn trả tiền cho Công ty may Phương Đông, họ không thể mở L/C từ Mỹ

mà phải sang tận Việt Nam yêu cầu Vietcombank Thành phố Hồ Chí Minh

cho phép vừa mở vừa nhận tiền và họ phải trả bằng tiền mặt.

Do những hạn chế nêu trên, kim ngạch hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu

sang Mỹ mới chỉ là mức tương đối. Năm 1994 đạt 2 triệu USD, năm 1995 đạt

5 triệu, năm 1996 đạt 25 triệu và năm 1997 đạt trên 30 triệu USD. Đây mới

chỉ là những con số rất nhỏ bé so với nhu cầu của thị trường Mỹ và khả năng

xuất khẩu của ta. Vậy chúng ta phải làm gì để tích cực xâm nhập được vào thị

trường đầy triển vọng này đang là câu hỏi đặt ra là hết sức cấp bách cho nhiều

nhà quản lý và cả phía doanh nghiệp.

1.4. Thị trường SNG và một số nước Đông Âu

Trong những năm trước khi các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tan vỡ thì

tỷ trọng kim ngạch của ta vào thị trường này chiếm vị trí khá lớn và đóng vai

17

Page 18: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

trò quan trọng, xuất khẩu theo những hiệp định hàng đổi hàng. Qua thời gian

dài đó nhà xuất khẩu của ta phần nào nắm bắt được thị hiếu, nhu cầu của

người tiêu dùng ở khu vực này và người tiêu dùng cũng đã phần nào quen với

hàng may mặc của ta. Tuy nhiên, kể từ khi các nước XHCN Đông Âu tan vỡ

thì kim ngạch hàng may mặc của ta vào thị trường này giảm mạnh. Hiện nay,

hàng may mặc của ta vào thị trường này chủ yếu do các thương gia buôn theo

từng chuyến còn về phía doanh nghiệp thì chỉ mức thấp do chưa tìm được

phương thức thanh toán hợp lý thây thế cho phương thức hàng đổi hàng trước

đây.

Như vậy có thể nói, với Việt Nam đây là thị trường truyền thống mà mấy

năm vừa qua chúng ta để vượt khỏi tầm tay. Cần nhanh chóng tìm ra giải

pháp cần thiết để nối lại quan hệ với thị trường không kém phần hấp dẫn này.

Các doanh nghiệp cần mạnh dạn triển khai phương thức thanh toán mới phát

huy lợi thế vốn có của ta trong nhiều năm qua trên thị trường này.

1.5. Thị trường các nước ASEAN

Việt Nam đã là thành viên chính thức của ASEAN và đang trên tiến trình

thực hiện AFTA, bên cạnh những cơ hội lớn mở ra cũng còn nhiều thách

thức. Phải tiến hành cắt giảm thuế quan và hàng hoá được lưu chuyển tự do

giữa các nước ASEAN tạo nên sự cạnh tranh gay gắt đối với hàng hoá Việt

Nam, buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải nỗ lực cải tiến công nghệ, áp

dụng phương thức quản lý hiện đại và phải tạo được cho mình một nền tảng

vững chắc về mọi mặt để trụ vững trên thương trường. Sản phẩm có được thị

trường chấp nhận hay không quyết định đến sự tốn tại của Công ty. Dưới sức

ép đó sẽ xoá bỏ đi được các Công ty làm ăn trì trệ. Tuy nhiên về phía Việt

Nam chắc chắn sẽ có nhiều Công ty cần phải “lột xác “.

Bù lại, thị trường ASEAN với 430 triệu dân, thu nhập bình quân đầu người

hàng năm 1.608 USD, tốc độ phát triển bình quân 6-8%/ năm, thì đây quả là

một thị trường lớn cho hàng may mặc. ASEAN còn là một thị trường có nền

văn hoá tương đồng lẫn nhau. Do đó thị hiếu, lối sống cũng tương đối giống

nhau, điều này là điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp may mặc Việt

Nam xâm nhập dế ràng hơn.

18

Page 19: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

1.6. Thị trường trong nước

Chúng ta chủ yếu chú trọng đến sản xuất hàng may xuất khẩu và đã có

những đóng góp đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Song chúng ta đã để lại

khoảng trống sau lưng mình đó là thị trường nội địa. Hiện nay, dân số Việt

Nam trên 75 triệu người, chỉ tính khiêm tốn sức mua cũng vào khoảng 750

triệu USD/năm (10 USD/người/năm). Đây là con số không nhỏ có sức hấp

dẫn đối với bất kỳ nhà đầu tư nào.

Thực tế trên thị trường Việt Nam còn nhiều mặt hàng second-hand của

nước ngoài, chứng tỏ rằng nhu cầu đã vượt khả năng cung cấp trong nước. Do

vậy, các doanh nghiệp Việt Nam một mặt tăng cường sản xuất hàng xuất

khẩu, một mặt phải chú ý đến sản xuất hàng phục vụ nhu cầu nội địa. Nhà

nước chỉ có biện pháp như giao chỉ tiêu cho một số doanh nghiệp sản xuất

hàng may mặc đáp ứng tiêu dùng trong nước. Tránh bỏ trống thị trường ngay

trong tầm tay.

Trên đây là một số thị trường lớn mà chúng ta đã và đang có được. Cần

phải có biện pháp và định hướng đúng đắn để khai thác nó một cách triệt để.

Mặt khác phải tăng cường mở rộng và tìm kiếm những thị trường đang bị bỏ

ngỏ, đây cũng là mục tiêu mà chúng ta đang đặt ra. Chẳng hạn sẽ tìm cách

tiếp cận thị trường Trung Cận Đông và Mỹ La Tinh là một ví dụ.

2. Xu hướng nhập khẩu hàng may mặc trên thế giới.

Thị trường thế giới sau nhiều năm vận hành độc lập nay đã trở nên có tổ

chức và đang hoạt động trong sự ràng buộc chặt chẽ các thể chế sau:

- Các định chế kinh tế như WTO. GSP. MFA, các công ước về lao động, về

sở hữu trí tuệ...

- Các thể chế về khu vực: EU, NAPTA, ASEAN...

- Các thể chế về tài chính: WB,IMF, ADB và các hiệp định liên ngân hàng.

- Các hiệp định về hàng hoá như về cao su thiên nhiên, cà phê, dầu mở ,

hàng dệt may...

19

Page 20: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

- Các trung tâm giao dịch: Sỏ giao dịch hàng hoá ở Luân Đôn, Paris,

Singapore, Chicago...

- Các công hội vận tải biển, tổ chức hàng không quốc tế (ICAO), tổ chức

du lịch quốc tế, các tính chất liên lạc viễn thông quốc tế, các mạng lưới và

trung tâm dịch vụ tiêu thụ...

Hoạt động của các thể chế quốc tế và khu vực đã đưa lại hiệu quả giúp cho

thương mại quốc tế được ổn dịnh và phát triển. Trong tương lai các định chế

này sẽ không thể không tham gia một cách tích cực vào các định chế thế giới

và khu vực nói trên.

Với cơ chế hoạt động của thị trường thế giới như vậy đã ảnh hưởng tới

việc sản xuất và tiêu thụ hàng dệt may trên thế giới. Như khu vực EU đã có

các mức thuế ưu đãi đối với hàng dệt may của các nước đang phát triển xuất

khẩu vào thị trường này. Hiệp định các nước EU đã có hiệp định về hàng may

mặc với từng nước cụ thể, dưới các quy định các sản phẩm Dệt may của

Trung Quốc.

Với các định chế này, nó tạo ra sự công bằng giữa các nước có nền công

nghiệp may phát triển và các nước đang phát triển.

Trong bối cảnh chung của thị trường thế giới như hiện nay, tình hình sản

xuất và xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam cũng có nhiều biến động và nổi

lên một số đặc điểm sau:

+ Năm 1997 đã kết thúc hiệp định buôn bán hàng dệt may với EU hạn

ngạch 22 nghìn tấn dệt may đạt giá trị 450 triệu. Gần đây, Việt Nam đã ký

hiệp định trong lĩnh vực này cho giai đoạn 1998-2000, điều đó sẽ mở ra một

triển vọng to lớn về xuất khẩu hàng dệt may của nước ta.

+ Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ được cải thiện một cách cơ bản, song quy

chế tối huệ quốc cho Việt Nam vẫn còn là một câu hỏi chưa chính xác. Nếu

chế độ này được áp dụng thì đây sẽ là cơ hội lớn về thị trường hàng dệt may

cho Việt Nam.

+ Kinh tế khu vực phát triển chận lại : việc trao trả Hồng Kông cho Trung

20

Page 21: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

Quốc vào 1/7/1997 vừa qua có thể ảnh hưởng đến kinh tế thị trường khu vực.

Hiện nay một số khách hàng Hồng Kông đang đặt gia công hàng may mặc tại

Việt Nam như vậy sẽ ít nhiều bị biến động. Bên cạnh đó cuộc khủng hoảng

kinh tế ở Châu Á vừa qua làm ảnh hưởng nặng nề tới việc tiêu thụ cũng như

khả năng sản xuất trên thị trường các mặt hàng nói chung và hàng may mặc

nói riêng.

+ Trước đây khách hàng EU tập trung vào thuê gia công áo Jacket ba lớp

(cat 21) và sơ mi (cat 8) tại Việt Nam. Thời gian tới xu hướng chung là giảm

cat 21 và cat 8, đi vào một số cat khác như quần (cat 78), áo (cat 161).

+ Xí nghiệp may không ngừng cải tiến trang thiết bị, máy móc nâng cao

năng suất lao động. Bên cạnh đó một số xí nghiệp liên doanh sản xuất hàng

may mặc đã đi vào hoạt động.

+ Mọi năm các xí nghiệp có quota cat 21 thì bắt buộc các khách hàng

nước ngoài phải làm gia công ở xí nghiệp đó để tận dụng quota cat 21. Thời

gian tới, những xí nghiệp nào làm chất lượng tốt, đảm bảo thời gian giao

hàng đúng hạn thì khách hàng mới đặt hàng.

+ Giá cả sợi để dệt vải trên thế giới tăng cao đã ảnh hưởng tới giá thành

sản phẩm quần áo và liên quan tới gia công. Trong khi đó, giá cả sản phẩm

bán ra lại hạ mà giá gia công của Việt Nam nói chung thì ngày càng cao do

yêu cầu của đời sống và lượng thu nhập ngày càng tăng lên của nhân dân. Nó

đã tạo sự mâu thuẫn giữa phía Việt Nam và phí các khách hàng nước ngoài.

+ Bộ Thương mại có chủ trương sắp tới bỏ hoạt động cấp quota cho các

doanh nghiệp sản xuất mà tổ chức đấu thầu quota. Thông tư liên bộ Thương

mại - Công nghiệp điều chỉnh cơ chế giao quyền sử dụng hạn ngạch hàng dệt

may xuất đi EU. Nhà nước cho phép các doanh nghiệp tự quyết định giá cả.

+ Đặc biệt, Viện Mốt của Việt Nam đã đi vào hoạt động đang từng bước

nghiên cứu các kiểu mốt được thịnh hành trên các thị trường thế giới và trong

nước.

+ Hàng may mặc của Việt Nam xuất đi chủ yếu dưới hình thức gia công,

21

Page 22: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

xuất khẩu trực tiếp còn rất thấp. Bên cạnh đó là sự yếu kém trong việc cung

cấp nguyên liệu dầu vào các ngành dệt cho ngành may mặc.

Tính theo kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng thì hàng may mặt Việt Nam

có tốc độ tăng trưởng lớn nhất. Năm 1995 tăng gấp 5 lần so với năm 1991.

Đây là con số khả quan đánh giá sự phát triển ngành may mặc xuất khẩu,

song nhìn vào thực tế thì giá trị ngoại tệ thực thu từ gia công đem lại là 150

triệu USD trên tổng giá trị xuất khẩu là 874 triệu USD, còn năm 1996 là 194

triệu USD trên tổng số kim ngạch xuất khẩu là 1,1 tỷ USD thì quả là xuất

khẩu kiểu này không mấy hiệu quả.

Hiện nay năng lực sản xuất hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam có thể

đạt 2,15 tỷ USD. Đó là kết quả của sự đầu tư không ngừng của các doanh

nghiệp, xí nghiệp Việt Nam - hầu hết các địa phương đều có xí nghiệp may ra

đời, các xí nghiệp may như : Công ty may 10, Công ty may Việt Tiến, Công

ty may Đức Giang, Công ty may Nhà Bè.. không ngừng cải tiến trang thiết bị,

đào tạo đội ngũ quản lý, công nhân phục vụ quá trình sản xuất tạo ra sản

phẩm chất lượng cao.

Hiệp hội các xí nghiệp may của Việt Nam hoạt động tích cực, mới đây đã

thành lập Viện mốt với nhiệm vụ tạo mốt, mẫu mã kỹ thuật phục vụ các Công

ty may sản xuất có hiệu quả. Bên cạnh sự đầu tư của các doanh nghiệp Việt

Nam các Công ty nước ngoài cũng đã tham gia đáng kể trong việc đầu tư vào

ngành may mặc, nhiều liên doanh trong lĩnh vực may mặc đã đi vào hoạt

động thu kết quả khả quan. Tất cả đã tạo ra một năng lực sản xuất mới cho

ngành may mặc Việt Nam. Quy mô sản xuất được mở rộng, tay nghề công

nhân không ngừng được nâng lên, mẫu mã được cải tiiến phong phú, đa dạng.

Các yếu tố này gây nên sự hấp dẫn đối với các khách hàng có ý định hợp tác.

3. Một số kinh nghiệm thực tiễn từ hoạt động sản xuất và kinh doanh

xuất hàng may mặc.

Ngành công nghiệp may mặc xuất khẩu Việt Nam đang trên đà phát triển

mạnh mẽ và được nhiều đơn vị, thành phần kinh tế tham gia. Hệ thống các

Công ty , xí nghiệp may từ Trung ương đến địa phương đều trưởng thành

22

Page 23: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

đáng kể. Năm 1997 có trên 400 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu dự kiến

1998 con số này sẽ là gần 500 doanh nghiệp. Không những đội ngũ may xuất

khẩu tăng nhanh về số lượng doanh nghiệp mà quy mô doanh nghiệp công

nghệ sản xuất, chất lượng, đội ngũ công nhân lành nghề đang từng bước được

nâng cao. Tất cả những điều này đang là dấu hiệu tốt cho sự khởi sắc của

ngành may Việt Nam khi vươn ra thị trường thế giới.

Tuy nhiên, để làm tốt hơn nữa chứng từ xuất khẩu may mặc, phát huy hết

mọi sức mạnh tiềm tàng của đất nước thì bên cạnh các biện pháp chuyên môn

các nhà xuất khẩu Việt Nam cần phải thường xuyên học hỏi kinh nghiệm từ

các cơ sở may xuất khẩu trong nước và ngoài nước. Thường xuyên coi trọng

công tác tự đánh giá và rút ra những bài học chính mình để kịp thời điều

chỉnh những vấn đề còn yếu kém, tránh thua thiệt trong cạnh tranh, tránh xu

hướng đầu tư sai lầm mà trong thời gian ngắn khó có thể thay đổi được.. Cụ

thể trong thực tiễn hoạt động của chúng ta đang còn nổi cộm lên một số vấn

đề lớn sau và cần được nhìn nhận lại một cách nghiêm túc.

Trong đầu tư mua sắc, chuyển giao máy móc công nghệ một số đơn vị do

nguồn vốn hạn hẹp phải mua thiết bị Second-hand đã để khách hàng nước

ngoài lợi dụng đưa thiết bị quá cũ, tân trang lại nên hiệu quả sử dụng rất hạn

chế ; nguy cơ là bãi thải công nghiệp với những cỗ máy lạc hậu tới hàng thế

kỷ. Bên cạnh đó công tác lập luận chứng đầu tư còn phiến diện, thiếu đồng

bộ. Có trường hợp khi mua thiết bị sợi về thấy thiếu thiết bị lạnh lại phải chờ

lập luận chứng mua thiết bị lạnh nên phải mất thêm 2 năm mới sử dụng được,

hoặc thiếu sự phối hợp giữa các khâu trong đầu tư dẫn đến máy móc thiết bị

nhập về rồi mới tính chất đào tạo công nhân. Tình trạng đã dẫn tới thời gian

vay nợ kéo dài nhiều khi ảnh hưởng lớn tới uy tín Công ty vì nguồn vốn vay

đầu tư không được trả đúng hạn thậm chí có trường hợp mất khả năng chi trả.

Khi giao nhận nguyên vật liệu và thành phẩm có trường hợp Công tylàm

hàng gia công trong nước do sơ xuất trong việc cụ thể hoá các chỉ tiêu như :

định mức tiêu hao vật liệu, kiểu cách kết hợ gam màu thời gian và địa điểm

giao nhận, phương thức thanh toán nên khi thực hiện hợp đồng đã để xảy ra

những kết cục tranh chấp đáng tiếc.

23

Page 24: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

Như chúng ta đã biết, hàng may mặc luôn đi kèm với yếu tố thời trang, khi

tham gia thị trường trên thế giới thì các yếu tố đó lại càng phức tạp. Do đó

tăng cường thực hiện chiến lược sản phẩm là con đường thiết thực nhất,

thường xuyên cách tân, thay đổi mẫu mốt, kiểu dáng và nâng cao chất lượng

sản phẩm. Hãy để chính sản phẩm lên tiiếng là việc làm hiệu quả hơn bất cứ

nỗ lực nào. Đây cũng là bí quyết tất cả các doanh nghiệp thành công nhất trên

trường quốc tế.

Học hỏi kinh nghiệm trong đàm phán, ký kết hợp đồng với nước ngoài

cũng đang được coi là việc làm cần thiết. Công tác đàm phán cần được chuẩn

chu đáo bởi đây sẽ là thời điểm xác định lợi ích kinh tế của các bên. Muốn đạt

được lợi ích lớn trước hết phải có nghệ thuật đàm phán khôn khéo, nhiều khi

khách hàng đang có rất nhiều mối hàng nhưng do nghệ thuật thuyết phục của

ta mà họ vẫn chấp nhận đặt hàng với những điều kiện có lợi cho chúng ta.

Trong đàm phán rất cần thiết phải hiểu rõ đối phương (về văn hoá, tài chính,

thái độ, phong tục..); tuỳ theo từng đối tượng mà sử dụng các chiến lược đàm

pháp kiểu cứng, chiến lược đàm phán kiểu mềm hay chiến lược đàm phán

kiểu hợp tác. Ngoài ra còn phải chủ ý tới việc nên áp dụng chiến thuật đàm

phán gì ? chiến thuật tri thức hay chiến thuật tâm lý.

Kinh nghiệm tạo uy tín và tạo khả năng xâm nhập vào thị trường nước

ngoài của các doanh nghiệp thành đạt cho thấy cần phải thực hiện song song

hai chiến lược đó là : chiến lược marketing và chiến lược sản phẩm một cách

tốt nhất. Thực hiện chiến lược marketing hợp lý sẽ cho phép sản phẩm của

Công ty được mọi người quan tâm, chú ý. Khi sản phẩm đã được nhiều người

biết đến cần tiếp tục củng cố lòng tin và uy tín với khách hàng bằng chính với

yếu tố nội tại sản phẩm, nhất là với hàng may mặc cần luôn luôn tạo ra tính

đặc thù, có như vậy mới mong duy trì được trên thị trường một cách bền

vững. Có câu nói thấy triết lý mà bao hàm toàn bộ nội dung trên, đó là : “Hãy

tạo dựng uy tín so cho khách hàng sẽ mua sản phẩm của Công ty như một thói

quen”.

Ngoài ra kinh nghiệm xuất khẩu một số nước cũng cho thấy: trong thời

gian mới đầu các đơn vị tham gia xuất khẩu may mặc còn gặp nhiều hạn chế

về vốn, công nghệ, thị trường.. do đó cần phải tăng cường chính sách hỗ trợ

24

Page 25: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

xuất khẩu từ phía Nhà nước. Các nước đã đi lên từng bước, từ chỗ nhận hàng

gia công đến xuất khẩu trực tiếp, từ chỗ chỉ xuất được một số lượng nhỏ với

những mặt hàng may mặc thấp cấp tới việc xuất đi những sản phẩm cao cấp

nhất đạt giá trị cao mà cụ thể là các nước châu Á đã làm được điều đó như:

Hồng Kông, Đài Loan, Nhật Bản, Thái Lan.. với Việt Nam hiện nay sản phẩm

may mặc xuất khẩu chủ yếu dưới dạng nhận gia công do đó thị trường xuất

khẩu của ngành may Việt Nam thực chất là của người đặt ra công. Việc phân

phối sản phẩm hoàn chỉnh đi thị trường nào là quyền của họ. Như vậy dưới

hình thức này Việt Nam sẽ bị tước đi rất nhiều quyền lợi, vừa hạn chế sử

dụng nguyên liệu trong nước vừa mất đi khả năng xâm nhập thị trường chưa

kể đến giá trị lợi nhuận xuất khẩu thu về là rất nhỏ. Do đó Nhà nước cần có

chính sách tập trung đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp là việc làm thiết thực và

cấp bách.

Có nhiều nước đã thực hiện thành công bước nhảy này bằng con đường

liên doanh liên kết, thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực may mặc bước đầu

tạo sức mạnh bứt phá về công nghệ, kiểu cách, ấn tượng sản phẩm. Phương

pháp phát huy nội lực kết hợp với sử dụng ngoại lực cần được chúng ta xem

xét vận dụng để sớm tìm ra hướng đi và chỗ đứng vững chắc cho hàng may

Việt Nam trong thị trường may thế giới.

25

Page 26: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

CHƯƠNG II

THỰC TRẠNG KINH DOANH XUẤT KHẨU HÀNG MAY

MẶC Ở TỔNG CÔNG TY DỆT - MAY VIỆT NAM

GIAI ĐOẠN 1995-1998.

I. NHỮNG NÉT KHÁI QUÁT VỀ TỔNG CÔNG TY DỆT-MAY VIỆT

NAM.

1. Quá trình hình thành và phát triển của Tổng Công ty Dệt-may Việt

Nam:

Ngành Dệt - May xuất khẩu Việt Nam ra đời từ những năm 58 ở miền Bắc

và những năm 70 ở miền Nam, nhưng mãi tới năm 1975 sau khi thống nhất

đất nước thì ngành mới có sự phát triển đáng kể.

Năm 1978, Liên hiệp các xí nghiệp dệt toàn quốc được thành lập trên cơ

sở thống nhất Liên hiệp các xí nghiệp Dệt phía Bắc và Tổng Công ty Dệt phía

Nam, đã phát huy vai trò tích cực trong công tác quản lí ngành kinh tế kĩ

thuật, tạo ra những khả năng liên kết sản xuất giữa hai miền.

Năm 1987-1989, từ tổ chức Liên hiệp các xí nghiệp Dệt chuyển thành Liên

hiệp sản xuất - xuất nhập khẩu Dệt để kết hợp sản xuất và kinh doanh xuất

nhập khẩu. Đến ngày 5/3/1993 Liên hiệp sản xuất, xuất nhập khẩu Dệt được

chuyển thành Tổng Công ty Dệt Việt Nam với chức năng nhiệm vụ là:

- Trung tâm thương mại của ngành dệt, lấy xuất nhập khẩu là trung tâm

hoạt động để thúc đẩy sự phát triển của ngành.

- Làm đầu mối của ngành kinh tế kĩ thuật và là hạt nhân của hiệp hội Dệt

Việt Nam.

Với mô hình này, không đáp ứng được yêu cầu củng cố và phát triển

ngành Dệt, không phát huy được sức mạnh tổng hợp, không tạo được thế và

lực để thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Mặt khác, Nghị định 388/HĐBT ra đời

tạo cho các cơ sở phát huy lợi thế chủ động nhưng lại thiếu sự liên kết với

26

Page 27: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

nhau thành sức mạnh, xuất hiện việc tranh mua tranh bán cục bộ bản vị trong

sản xuất kinh doanh, dẫn đến không có một sự chỉ huy thống nhất trong

ngành. Do quản lí phân tán nên không đủ sức có đại diện ở nước ngoài, một

cuộc triển lãm ở nước ngoài có nhiều đơn vị tham gia mặt hàng trùng lặp, giá

cả chào hàng không giống nhau. Nhiều Công ty nước ngoài đã lợi dụng sơ hở

về mặt tổ chức và quản lí của ta chèn ép, thủ đoạn dẫn đến thua thiệt cho nền

kinh tế nói chung và cho từng cơ sở ngành dệt nói riêng.

Tiến gần đến thế kỷ 21, công nghiệp dệt may đã và đang có thêm những

thuận lợi để phát triển sôi động với tốc độ ngày càng cao. Song song cùng

phát triển các nguồn lực trong nước, các doanh nghiệp quốc doanh cũng đang

trong quá trình tích cực thay đổi về tổ chức quản lí, sắp xếp lại sản xuất theo

hướng liên kết nhiều đơn vị cùng ngành nghề hoặc cùng cấp quản lí thành

những Tổng Công ty, Công ty lớn : đổi mới thiết bị và công nghệ, tăng cường

đào tạo cán bộ quản lí kỹ thuật, tiếp thị, thiết kế mẫu mã nhằm nâng cao hiệu

quả sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường

tiêu thụ trong và ngoài nước. Trên tinh thần này, ngày 29 tháng 4 năm 1995

Chính Phủ Việt Nam đã quyết định thành lập Tổng Công ty Dệt-May Việt

Nam (VINATEX) trên cơ sở thống nhất Tổng Công ty Dệt Việt Nam và Liên

hiệp các xí nghiệp sản xuất-xuất nhập khẩu May nhằm tạo sức mạnh tổng

hợp, tạo được thế và lực để thúc đẩy sản xuất-kinh doanh hàng Dệt-May phát

triển.

Tổng Công ty Dệt May Việt Nam có tên giao dịch quốc tế là Vietnam

National Textile and Garment Corporation, viết tắt là VINATEX. Trụ sở

chính của Tổng Công ty đặt tại 25 Bà Triệu Hà Nội. Tổng Công ty Dệt-May

Việt Nam là một trong 18 Công ty quốc gia hoạt động theo hướng tập đoàn,

chịu sự quản lí trực tiếp của Chính phủ và Bộ công nghiệp. Tổng Công ty có

tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự theo luật định, tự chịu

trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong tổng số vốn do Tổng Công

ty quản lý, có con dấu, có tài sản và các quĩ tập trung, được mở tài khoản tại

ngân hàng trong nước và nước ngoài theo luật định của Nhà nước, được tổ

chức và hoạt động theo điều lệ Tổng Công ty.

Tổng Công ty Dệt May Việt Nam thực hiện nhiệm vụ kinh doanh hàng

27

Page 28: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

dệt, hàng may mặc (từ đầu tư, sản xuất, cung ứng, tiêu thụ, xuất khẩu, nhập

khẩu), tiến hành các hoạt động kinh doanh ngành nghề khác nhau theo qui

định của pháp luật. Liên doanh liên kết với các tổ chức kinh tế trong và ngoài

nước. Lựa chọn, khai thác mở rộng thị trường trong và ngoài nước, hướng dẫn

và phân công thị trường cho các đơn vị thành viên. Nghiên cứu ứng dụng

công nghệ và kỹ thuật tiên tiến, đổi mới công nghệ, thiết bị theo chiến lược

chung. Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lí, kĩ thuật và công nhân lành

nghề.

Các ngành nghề kinh doanh cụ thể là : Công nghiệp dệt may : sản xuất

kinh doanh từ nguyên liệu vật tư, thiết bị phụ tùng, phụ liệu hoá chất, thuốc

nhuộm và các sản phẩm cuối cùng của ngành dệt may, xuất nhập khẩu hàng

dệt may gồm các chủng loại tơ, sợi vải hàng may mặc, dệt kim, chỉ khâu,

khăn bông, len thảm đay tơ, tơ tằm, nguyên liệu, thiết bị phụ tùng, phụ liệu

hoá chất, thuốc nhuộm, hàng công nghệ thực phẩm, nông lâm hải sản, thủ

công mĩ nghệ, ô tô xe máy, các mặt hàng công nghiệp tiêu dùng khác, kinh

doanh kho vận, khu ngoại quan. Thiết kế, thi công xây lắp phục vụ ngành dệt

may và xây dựng dân dụng. Dịch vụ khoa học công nghệ, du lịch khách sạn,

nhà hàng văn phòng, vận tải, du lịch lữ hành trong nước, xuất nhập khẩu thiết

bị, phụ tùng ngành dệt may, trang thiết bị văn phòng, thiết bị tạo mẫu thời

trang, phương tiện vận tải, vật liệu điện, điện tử cao su.

Với tổng số vốn khi thành lập là 1.562.500 triệu đồng, trong đó:

-Vốn lưu động: 547.140 triệu đồng

-Vốn cố định : 1.015.360 triệu đồng

Hiện tại, Tổng Công ty có 40 doanh nghiệp thành viên tham gia sản xuất

từ kéo sợi dệt vải, hoàn tất và may mặc, một Công ty tài chính, ba xí nghiệp

sửa chữa và sản xuất phụ tùng, một viện thiết kế kĩ thuật dệt may, một viện

mẫu và thời trang, ba trường đào tạo công nhân. Có các chi nhánh ở thành

phố Hải Phòng và Đà Nẵng và hai Công ty du lịch và dịch vụ thương mại ở

Hà nội và thành phố Hồ Chí Minh. Một số đại diện ở nước ngoài. Bên cạnh

đó, Tổng Công ty còn có Công ty tài chính TFC là tổ chức tạo nguồn vốn cho

28

Page 29: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Sự đổi mới tổ

chức như trên có ý nghĩa kết hợp hai ngành dệt và may trước đây vốn hoạt

động riêng lẻ thành một tổ chức chung để giảm dần sự cạnh tranh phân tán,

manh mún trong đầu tư sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, đồng thời

có thể tích tụ, tập trung vốn cho sự phát triển lâu dài vừa chuyên môn hoá vừa

đa dạng hoá một cách cân đối, hài hoà. Trong tương lai không xa, với sự ra

đời của hiệp hội Dệt May Việt Nam đã tạo mái nhà chung cho các doanh

nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế có thể liên kết và hỗ trợ nhau

tốt hơn trong sản xuất kinh doanh.

2.Chức năng, nhiệm vụ của Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam.

Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam có quyền quản lí, sử dụng vốn, đất đai

và các nguồn lực đã được giao theo qui định của pháp luật để thực hiện các

mục tiêu nhiệm vụ do Nhà nước giao. Mặt khác, Tổng Công ty có quyền giao

lại cho các đơn vị thành viên quản lí, sử dụng các nguồn lực mà Tổng Công ty

đã nhận của Nhà nước, điều chỉnh các nguồn lực đã giao cho các đơn vị thành

viên trong trường hợp cần thiết, phù hợp với kế hoạch phát triển chung của

toàn Tổng Công ty. Ngoài những quyền hạn trên, Tổng Công ty còn có những

nhiệm vụ sau đây:

- Thực hiện nhiệm vụ kinh doanh hàng dệt và hàng may theo qui hoạch và

kế hoạch phát triển ngành dệt và ngành may của Nhà nước và theo yêu cầu

của thị trường, bao gồm : xây dựng kế hoạch phát triển, đầu tư, tạo nguồn vốn

đầu tư sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, cung ứng nguyên vật liệu, xuất nhập khẩu

phụ liệu, thiết bị phụ tùng, liên doanh liên kết với các tổ chức trong và ngoài

nước, phù hợp với pháp luật và chính sách của Nhà nước.

- Nhận và sử dụng có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn của Nhà nước

giao, gồm cả phần vốn đầu tư vào doanh nghiệp khác, nhận và sử dụng có

hiệu quả tài nguyên đất đai và các nguồn lực khác do Nhà nước giao để thực

hiện nhiệm vụ kinh doanh và những nhiệm vụ khác được giao.

- Tổ chức quản lí công tác nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật,

khoa học công nghệ và công tác đào tạo cán bộ, bồi dưỡng cán bộ và công

nhân trong Tổng Công ty.Tổ chức các hoạt động dịch vụ thông tin, tư vấn đầu

29

Page 30: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

tư, đào tạo trong và ngoài Tổng Công ty.

- Xác định chiến lược đầu tư, thẩm định các luận chứng hợp tác, đầu tư,

liên doanh với nước ngoài của các doanh nghiệp thành viên trình Nhà nước

xét duyệt, làm chủ các công trình đầu tư mới.

- Điều tra nghiên cứu, mở rộng thị trường trong và ngoài nước về cung cấp

vật tư, nguyên liệu chính, thực hiện hợp tác quốc tế, kinh doanh đối ngoại, thị

trường xuất nhập khẩu.

3. Hệ thống cơ cấu tổ chức, chức năng các phòng ban của Tổng Công ty

Dệt-May Việt Nam

Hệ thống tổ chức của Tổng Công ty gồm có:

- Hội đồng quản trị, ban kiểm soát

- Tổng giám đốc và bộ máy giúp việc

- Các đơn vị thành viên Tổng Công ty

Hội đồng quản trị thực hiện chức năng quản lí các hoạt động của Tổng

Công ty, chịu trách nhiệm về sự phát triển của Tổng Công ty theo nhiệm vụ

của Nhà nước giao.

Ban kiểm soát thực hiện nhiệm vụ do Hội đồng quản trị giao về việc kiểm

tra giám sát hoạt động điều hành của Tổng giám đốc, bộ máy giúp việc và

các đơn vị thành viên Tổng Công ty trong hoạt động tài chính, chấp hành

pháp luật, điều lệ Tổng Công ty, các nghị quyết và quyết định của Hội đồng

quản trị.

Tổng giám đốc do Thủ Tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm khen

thưởng, kỉ luật theo đề nghị của Hội đồng quản trị. Tổng giám đốc là đại diện

pháp nhân của Tổng Công ty và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị,

trước Thủ Tướng Chính phủ và trước pháp luật về điều hành hoạt động của

Tổng Công ty, Tổng giám đốc là người có quyền điều hành cao nhất trong

Tổng Công ty.

30

Page 31: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

Phó Tổng giám đốc là người giúp Tổng giám đốc điều hành một hoặc một

số lĩnh vực hoạt động của Tổng Công ty theo phân công của Tổng giám đốc

và chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc và pháp luật về nhiệm vụ được

Tổng giám đốc phân công thực hiện.

Kế toán trưởng Tổng Công ty giúp Tổng giám đốc chỉ đạo thực hiện công

tác kế toán, thống kê của Tổng Công ty, có các quyền và nhiệm vụ theo qui

định của pháp luật.

Văn phòng Tổng Công ty, các ban chuyên môn, nghiệp vụ có các chức

năng tham mưu, giúp việc Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc trong quản lí

điều hành công việc.

Đơn vị thành viên là doanh nghiệp hạch toán độc lập và Tổng Công ty có

quyền tự chủ kinh doanh và tự chủ tài chính, chịu sự ràng buộc về quyền lợi

và nghĩa vụ đối với Tổng Công ty theo luật định tại điều lệ của Tổng Công ty.

Thành viên là các đơn vị hạch toán phụ thuộc: có quyền tự chủ kinh doanh

theo phân cấp của Tổng Công ty chịu sự ràng buộc về nghĩa vụ và quyền lợi

đối với Tổng Công ty. Được kí kết các hợp đồng kinh tế, được chủ động thực

hiện các hoạt động kinh doanh, hoạt động tài chính, tổ chức và nhân sự theo

phân cấp của Tổng Công ty. Quyền hạn nhiệm vụ của các đơn vị hạch toán

phụ thuộc được cụ thể hoá trong điều lệ tổ chức của đơn vị này.

Tổng Công ty có 8 ban, bao gồm các ban sau đây:

- Ban tổ chức cán bộ lao động

- Ban kế hoạch đầu tư

- Ban tài chính kế toán

- Ban hợp tác quốc tế

- Ban trung tâm thông tin

- Văn phòng Tổng Công ty

31

Page 32: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

- Ban khoa học công nghệ và môi trường

- Ban xuất nhập khẩu

Ban tổ chức cán bộ lao động: có chức năng tham mưu giúp việc cho Tổng

giám đốc và hội đồng quản trị trong các lĩnh vực tổ chức cán bộ, đào tạo công

tác lao động tiền lương và công tác thanh tra, góp phần bảo đảm cho công tác

quản lí của Tổng Công ty hoạt động thông suốt và có hiệu quả.

Ban kế hoạch tài chính: Là bộ môn nghiệp vụ có chức năng tham mưu

giúp Tổng giám đốc và Hội đồng quản trị trong các lĩnh vực kế hoạch, kế

hoạch dài hạn, kế hoạch hàng năm trong lĩnh vực đầu tư, xây dựng toàn Tổng

Công ty.

Ban tài chính kế toán: Là cơ quan chuyên môn của Tổng Công ty tham

mưu giúp ban lãnh đạo Tổng Công ty thực hiện hai chức năng chủ yếu sau:

- Quản lí các đơn vị thành viên của Tổng Công ty về tài chính, kế toán,

giá cả trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ bản, hành

chính sự nghiệp.

-Tổ chức thực hiện công tác tài chính kế toán, giá cả và tín dụng trong

hoạt động sản xuất kinh doanh và đầu tư xây dựng cơ bản của cơ quan Tổng

Công ty.

Văn phòng Tổng Công ty: Là bộ môn chức năng tham mưu giúp việc

Tổng giám đốc và hội đồng quản trị trong lĩnh vực hành chính quản trị, tổng

hợp, làm cầu nối giữa Nhà nước với Tổng Công ty và kinh doanh trong lĩnh

vực đối nội đối ngoại, bảo đảm cho hoạt động của Tổng Công ty được tiến

hành có hiệu quả.

Ban kỹ thuật đầu tư: Có chức năng tham mưu giúp Tổng giám đốc và hội

đồng quản trị trong lĩnh vực quản lí khoa học công nghệ-môi trường và công

tác chất lượng sản phẩm của Tổng Công ty.

Ban xuất nhập khẩu: Là bộ môn chức năng tham mưu giúp việc cho Tổng

giám đốc và Hội đồng quản trị trong lĩnh vực quản lí ngành. Giúp đỡ các đơn

32

Page 33: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

vị thành viên trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu. Trực tiếp kinh doanh

xuất nhập khẩu nhằm tạo nguồn thu và thúc đẩy sự phát triển của Tổng Công

ty.

Nhiệm vụ của ban là:

-Xây dựng chiến lược phát triển và mục tiêu phát triển kinh doanh xuất

nhập khẩu của Tổng Công ty trong từng giai đoạn.

-Nghiên cứu tình hình thị trường, giá cả, khách hàng, sự biến đổi, xu

hướng phát triển của ngành Dệt-May thế giới.

-Nghiên cứu hệ thống quản lí, các chính sách và công cụ của nó như

quota (giá tối thiểu, giá nhập tối đa) đối với những sản phẩm chính để Tổng

giám đốc và hội đồng quản trị duyệt.

-Hướng dẫn các đơn vị thành viên thực hiện khung giá, giá đã duyệt,

theo dõi tình hình giá cả thị trường để đề xuất Tổng giám đốc và hội đồng

quản trị thay đổi kịp thời, đáp ứng yêu cầu kinh doanh trong cơ chế thị

trường.

-Xây dựng các chính sách của Tổng Công ty đối với thương nhân,

khách hàng, chính sách đối với từng khu vực để Tổng giám đốc duyệt phục vụ

cho công tác kinh doanh xuất nhập khẩu.

-Phối hợp với ban kế hoạch đầu tư xây dựng kế hoạch kinh doanh xuất

nhập khẩu của cơ quan Tổng Công ty.

-Trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu tìm mọi khả năng khai thác

nguồn hàng xuất nhập khẩu bằng các hình thức tự doanh, đổi hàng xuất nhập

khẩu uỷ thác... bảo đảm kế hoạch kinh doanh của Tổng Công ty.

-Tổng hợp dự kiến nhu cầu bông xơ, nguyên liệu chính hàng năm, có kế

hoạch nhập bông dự trữ chiến lược đồng thời đảm bảo kinh doanh có hiệu

quả.

-Thực hiện tốt luật cũng như chế độ chính sách trong kinh doanh xuất

33

Page 34: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

nhập khẩu.

-Theo dõi tổng hợp, kiểm tra tình hình thực hiện công tác pháp chế

trong xuất nhập khẩu của Tổng Công ty.

( Sơ đồ cơ cấu tổ chức Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam - Xem trang sau)

Bảng 1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức Tổng Công ty Dệt May Việt Nam

4. Đặc điểm và xu thế ngành may Việt Nam.

4.1. Đặc điểm.

Ngành may Việt nam có truyền thống lâu đời gắn bó với truyền thống

nhân dân từ nông thôn đến thành thị, đóng một vai trò quan trọng trong nền

kinh tế quốc dân nhằm đảm bảo hàng hoá cho tiêu dùng trong nước, có điều

kiện mở rộng thương mại quốc tế, thu hút nhiều lao động tạo ra ưu thế cạnh

tranh cho sản phẩm xuất khẩu, hàng năm mang về cho Nhà nước một lượng

ngoại tệ đáng kể, kim ngạch xuất khẩu chỉ đứng sau dầu khí và đã trở thành

một ngành công nghiệp then chốt của nước ta. Đây là một ngành phù hợp với

điều kiện nền kinh tế nước ta, vì:

Một là: Sản xuất hàng may mặc cần nhiều lao động, không đòi hỏi trình

độ tay nghề cao. Trong khi lao động giản đơn ở nước ta thừa rất nhiều. Hơn

nữa, để đào tạo một lao động trong ngành may mặc chỉ cần từ hai đến hai

tháng rưỡi và lao động trong ngành may mặc thường sử dụng nhiều nữ.

Hai là: Vốn đầu tư cho một chỗ làm việc ít, đồng thời ngành may mặc

có thể tạo nhiều công ăn việc làm so với các ngành khác với cùng một lượng

vốn đầu tư, thời gian thu hồi vốn nhanh. Chỉ cần khoảng 700-800 USD là có

thể tạo ra một chỗ làm trong ngành may, so với 1500-1700 USD để cho một

nông dân có thể cấy ở vùng Đồng Tháp Mười. Thời hạn thu hồi vốn chỉ 3-3,5

năm.

Ba là: Thị trường rộng lớn ở cả trong và ngoài nước. Ở trong nước thì

đời sống nhân dân được nâng lên, nhu cầu về mặc chuyển từ “ấm” sang

34

Page 35: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

“đẹp”, “mốt” tức là nhu cầu hàng may mặc ngày càng tăng và nhanh biến đổi.

Còn trên thế giới thì xu thế ngành may mặc phổ thông đang chuyển dần sang

các nước đang phát triển do ở những nước này có lợi thế về lao động rẻ hơn

những nước phát triển.

Bốn là: Nước ta có điều kiện để phát triển trồng bông, đay, thúc đẩy

ngành dệt may phát triển vì nguyên liệu cung cấp trong nước thường rẻ hơn

nhập khẩu.

Với những đặc điểm trên mà ngành may Việt Nam đã ngày càng phát

triển, thu hút được nhiều lao động xã hội - gần 50 vạn người, chiếm 22,7% lao

động công nghiệp toàn quốc, góp phần giải quyết công ăn việc làm, tạo sự ổn

định chính trị-kinh tế-xã hội, do đó được Đảng và Nhà nước quan tâm. Hiện

nay ngành may vẫn đang chiếm một vị trí quan trọng về ăn mặc của nhân dân,

quốc phòng và tiêu dùng trong các ngành công nghiệp khác.

4.2. Thực trạng ngành may Việt Nam.

Do có những đặc điểm phù hợp với điều kiện nước ta, nên ngành may Việt

nam và may xuất khẩu phát triển rất cao trong thời gian qua cả về mặt sản

lượng và kim ngạch xuất khẩu. Hiện nay, kim ngạch xuất khẩu chỉ đứng sau

dầu thô và liên tục tăng, có thể thấy rõ qua bảng dưới đây:

Bảng 2: Tốc độ tăng trưởng qua các năm

Năm 1994 1995 1996 1997 1998

Kim ngạch xuất khẩu(tr.USD) 550 750 1150 1250 1350

Tốc độ tăng trưởng(%) 36 53 8,7 14,0

Đồng thời cũng là ngành mang tính xã hội cao, sử dụng mọi lao động trên

khắp mọi miền đất nước, đặc biệt là lao động nữ. Số lao động công nghiệp

của ngành vào loại đứng đầu trong cả nước: khoảng 300 lao động chính và

nhiều lao động phụ khác.

Về mặt hàng: Sản phẩm ngành may rất đa dạng, có tính chất thời trang vừa

có tính quốc tế vừa có tính dân tộc. Kinh tế phát triển, đời sống nhân dân

35

Page 36: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

được nâng cao, nhu cầu hàng may mặc lại càng phong phú và chất lượng cao

hơn. Bên cạnh những mặt hàng truyền thống, thông qua gia công cho các

nước, các doanh nghiệp may Việt Nam có điều kiện làm quen với công nghệ

may các mặt hàng phức tạp, thời trang của thế giới. Công nghiệp may Việt

Nam tiến bộ nhanh, từ chỗ may quần áo lao động xuất khẩu, các loại quần áo

đơn giản như vỏ chăn, áo gối, quần áo ngủ, quần áo học sinh... đến nay đã

may được nhiều mặt hàng cao cấp được nguời tiêu dùng chấp nhận, khách

nước ngoài tín nhiệm đặt hàng đi tiêu thụ tại các thị trường khó tính trên thế

giới.

Tính đến năm 1995, sản phẩm may Việt Nam đã xuất khẩu sang 46 nước,

riêng thị trường EU chiếm 40%, tiếp sau là Nhật Bản 16%, Đài Loan 11%,

Hàn Quốc 9%, các nước SNG 6%, các nước khác 8%. Ngoài ra còn có Nauy

và Canada cấp hạn ngạch xuất khẩu hàng may cho ta. Việc có được hạn

ngạch may là rất có ý nghĩa, đặc biệt là hiệp định may với EC (European

community), nay đổi là EU (European Union) bởi vì:

Thứ nhất: EU là thị trường rất rộng lớn, khả năng tài chính, tiêu thụ

cũng rất lớn. Một thị trường với hơn 350 triệu dân có mức sống cao, nhu cầu

về hàng may mặc hàng năm lên tới 22-23 ngàn tấn vải, quả là một thị trường

lý tưởng cho ngành may Việt Nam.

Thứ hai: là hiệp định may tạo ra thị trường ổn định để phát triển ngành

may, trị giá hạn ngạch lên tới 300-400 triệu USD/năm. Đồng thời thị trường

hạn ngạch thường hiệu quả hơn vì có giá ổn định và cao hơn. Ví dụ: giá gia

công một chiếc Jackét ( cat 21) ở thị trường EC là 4,2-4,6 USD thì ở thị

trường khác chỉ 2,5-2,8 USD.

Thứ ba: là phần nào khẳng định uy tín chất lượng của hàng may mặc

Việt Nam trên thị trường thế giới. Có hạn ngạch tức là khách hàng sẽ tìm đến

chứ không chỉ người sản xuất Việt Nam đi tìm khách như trước nữa.

Ngành may Việt nam cũng đẩy mạnh xuất khẩu theo hình thức gia công

hoặc phương thức thương mại thông thường với một số nước có nền công

nghiệp phát triển như Nhật Bản, Canada, các nước công nghiệp mới như Đài

36

Page 37: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc, Singapo và gần đây khi Mỹ bỏ cấm vận và bình

thường hoá quan hệ đối với Việt Nam, hàng may của ta có thêm thị trường

Mỹ. Tuy có những thuận lợi trong việc mở rộng thị trường nhưng thử thách

đối với hàng may của ta với thị trường thế giới còn rất lớn. Đó là khả năng

thích ứng về mẫu mốt, chất lượng, giá cả, thời hạn giao hàng theo thời vụ và

tập quán buôn bán còn rất hạn chế. Số lượng sản phẩm có chất lượng cao đáp

ứng được nhu cầu nguời tiêu dùng ở các nước phát triển chưa nhiều. Thị

trường truyền thống có dung lượng lớn như Liên Xô và các nước Đông Âu

chưa tìm được phương thức làm ăn thích hợp, nhất là phương thức thanh toán.

Cho đến nay, ngành may Việt Nam đã có quan hệ buôn bán với hơn 200

Công ty thuộc hơn 40 nước trên thế giới và khu vực. Tuy vậy, thị trường xuất

khẩu vẫn không ổn định, đặc biệt là đối với thị trường phi hạn ngạch.

5. Mục tiêu và định hướng phát triển.

Theo quy luật của sản xuất hàng hoá, thị trường là yếu tố quyết định của

sản xuất. Để đạt được mục tiêu chiến lược phát triển, hoà nhập được vào thị

trường may của khu vực và thế giới, trong những năm tới ngành may Việt

Nam coi trọng phương châm “hướng ra xuất khẩu-coi trọng thị trường nội

địa” để tổ chức sản xuất.

Sau khi mất thị trường truyền thống là Liên Xô và Đông Âu cũ, ngành may

đã cố gắng khai thác thị trường mới là Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, EU...

song còn nhiều hạn chế. Để duy trì và phát triển sản xuất-xuất nhập khẩu,

Tổng Công ty phải tổ chức tìm kiếm thị trường một cách chủ động, khắc phục

tính thụ động ngồi chờ, giữ vững, khai thác, mở rộng các thị trường hiện có,

nhanh chóng tìm kiếm, khai thác thị trường mới, đặc biệt là thị trường Mỹ và

thị trường truyền thống cũ. Trước mắt có thể làm gia công, nhưng phải chuẩn

bị các điều kiện để chuyển dần từng bộ phận, từng doanh nghiệp khi đủ khả

năng sang phương thức xuất FOB.

Trong hai thập kỷ tới, ngành may Việt Nam vẫn hướng ra xuất khẩu để thu

hút ngoại tệ, tự cân đối để tồn tại và phát triển, đồng thời coi trọng thị trường

nội địa để làm cơ sở cho sự phát triển.

37

Page 38: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

Trên thực tế hiện nay, có thể tạm chia thị trường may Việt Nam thành hai

khu vực.

5.1. Thị trường nội địa.

Trên lĩnh vực này, ngành may Việt nam cũng gặp phải không ít những khó

khăn khi phải thi đấu với những đối thủ trên sức mình. Vì Việt Nam đã trở

thành thành viên chính thức và thực hiện các điều khoản của hiệp định AFTA,

thị trường nội địa là “sân chơi” của các nước trong khu vực. Trong khi ngành

dệt Việt Nam đang ở mức thấp hơn so với các nước trong khu vực: về phần

cứng ta sau bạn từ 7-8 năm, về phần mềm thì sau 15-20 năm. Như vậy, để giữ

được thị trường trong nước, không để hàng các nước trong khu vực tràn vào

cạnh tranh, ngành dệt may phải có những bước đi và giải pháp thích hợp trong

thời gian tới.

5.2.Thị trường xuất khẩu.

Đây là thị trường có nhu cầu lớn nhưng lại có yêu cấu rất cao về chất

lượng và mẫu mã, đặc biệt là thị trường Mỹ, Nhật Bản và EU. Để vào được

thị trường này, ngành may phải đi từng bước từ dễ đến khó, từ gia công đến

xuất hàng FOB ( năm 2010 hàng vào EU là 70% FOB ) và thương mại. Với

tình hình thực tế ngành may của ta hiện nay, chỉ có thể đi vào các chủng loại

mặt hàng chất lượng thấp và trung bình, một số ít mặt hàng đạt đến khá. Các

loại mặt hàng cao cấp của thị trường này ta chưa thể làm được và rất khó cạnh

tranh. Đặc biệt vào năm 2005, thị trường Mỹ sẽ không còn hạn ngạch, với lợi

thế nhân công rẻ, ngành may Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội thâm nhập vào thị

trường này.

Thâm nhập và tìm kiếm thị trường là nhiệm vụ hàng đầu, là công việc khó

khăn phức tạp nên phải phát huy khả năng của mọi doanh nghiệp để mở rộng

và phát triển thị trường. Đồng thời ngành may Việt nam cũng phải từng bước

đầu tư hợp lý, tổ chức lại quản lý sản xuất để tạo ra các sản phẩm có sức cạnh

tranh và uy tín trên thị trường.

Trong những năm tới, ngành may Việt Nam phải đầu tư phát triển để đạt

được tốc độ tăng trưởng bình quân 1996-2000 là 15%/năm. Đến năm 2000

38

Page 39: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

xuất khẩu hàng may mặc đạt 1,2-1,3 triệu USD, tăng ba lần so với năm 1995.

Sản phẩm xuất khẩu bằng vải do Việt Nam sản xuất chiếm khoảng 40-50%.

Tạo việc làm cho khoảng một triệu lao động.

Đến năm 2010 xuất khẩu hàng may mặc đạt 3 tỷ USD, tăng gấp hai lần so

với năm 2000. Sản phẩm xuất khẩu bằng vải do Việt nam sản xuất chiếm 60-

70%. Tạo ra công ăn việc làm cho gần hai triệu lao động với mức thu nhập

bình quân trên 100 USD/1tháng/1người.

39

Page 40: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

II. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG MAY MẶC CỦA TỔNG

CÔNG TY DỆT- MAY THỜI KỲ 1995-1998.

Mặt hàng may mặc Việt nam trong nhiều năm qua chiếm một vị trí quan

trọng trong đóng góp cho xuất khẩu và nâng cao giá trị sản lượng của toàn bộ

ngành công nghiệp Việt nam. Kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc tăng vọt từ

năm 1993, là năm bắt đầu thực hiện Hiệp định may mặc giữa Việt nam với

EC (Europed Community). Hiệp định này đã đánh dấu sự tiến bộ vượt bậc cả

về số lượng, chất lượng và thị trường của sản phẩm may mặc "Made in

Vietnam" trên thị trường thế giới.

Nếu như năm 93 kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc đạt 350 triệu USD

thì năm 94 tăng lên 554 triệu USD, chiếm 85% kim ngạch hàng công nghiệp

nhẹ và tiểu thủ công nghiệp, chiếm khoảng 13-14% tổng kim ngạch xuất khẩu

của cả nước. Năm 95 vẫn giữ tỉ trọng này nhưng về mặt giá trị đã tăng lên 750

triệu USD. Với sự ra đời của Tổng Công ty Dệt- May Việt nam trên cơ sở

thống nhất Tổng Công ty Dệt Việt nam và Liên hiệp các xí nghiệp sản xuất-

xuất nhập khẩu hàng may mặc đã phát huy được sức mạnh tổng hợp, tạo được

thế và lực. Từ năm 95 tới nay, kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc không

ngừng tăng lên và đã đứng hàng thứ hai trong danh mục hàng xuất khẩu chủ

lực của Việt nam. Cụ thể qua bảng sau:

Bảng 3: Giá trị xuất khẩu hàng may Việt nam 1991-1998.

(Đơn vị: triệu USD) 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998

Giá trị XK toàn

quốc

2.087,1 2.580,7 2.985,0 4.054,3 5.200,0 7.255,8 8.850,0 8.910,0

Giá trị XK ngành

may Việt nam116,0 180,0 350,0 550,0 750,0 1.150,0 1.250,0 1.310,0

Tỷ lệ so với XK

toàn quốc (%)5,6 7 11,7 13,6 14,4 15,8 14,1 14,7

(Nguồn: Dự án qui hoạch tổng thể ngành công nghiệp Dệt- May đến năm 2010, tr. 17.)

Trong số 10 mặt hàng có giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của Việt

Nam phải kể đến hàng Dệt-May. Tuy đứng ở vị trí thứ hai sau dầu thô, nhưng

đây là mặt hàng có nhiều lợi thế so sánh và có khả năng phát triển cao. Năm

1997 tỷ lệ xuất khẩu hàng Dệt-May chiếm 14,1% so với toàn quốc đến năm

40

Page 41: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

1998 tỷ lệ này tăng lên 14,7% mặc dù bị ảnh hưởng không ít bởi cơn khủng

hoảng tài chính ở Đông Nam á. Đòi hỏi sự nỗ lực cố gắng của toàn Tổng

Công thuốc thú y, đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu hàng may mặc.

Điều này góp phần giải quyết việc làm, tích cực đổi mới công nghệ, chuyển

dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam.

1. Tình hình xuất khẩu hàng may mặc theo mặt hàng.

Trong những năm qua, Tổng Công ty Dệt-May Việt nam thực hiện kinh

doanh đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ, khách hàng có xu hướng

tăng lên. Tổng Công ty có khả năng tạo nguồn hàng với khối lượng lớn và

đang mở ra một hướng kinh doanh mới phù hợp với sự thay đổi của nền kinh

tế trong nước và thế giới.

Các hình thức xuất khẩu hàng may mặc của Tổng Công ty chủ yếu là xuất

khẩu trực tiếp, xuất khẩu trả nợ, liên doanh với các đơn vị để xuất, giao hàng

đổi thiết bị, mua bán đứt đoạn. Các nhóm mặt hàng chủ yếu bao gồm:

- Nhóm mặt hàng mặc thường ngày: sơ mi, quần âu, áo váy...

- Nhóm mặt hàng lót nam, nữ

- Nhóm mặt hàng thường dùng ở nhà: các loại bộ ngủ nam, nữ; vỏ chăn,

ga, gối.

- Nhóm quần thể thao: quần áo vải thun, quần áo bò (Jean)

- Nhóm thời trang hiện đại (quần áo mode)

- Nhóm trang phục đặc biệt: quân đội, bảo hộ lao động cho các loại ngành

nghề.

Các nhóm hàng trên với nhiều chất liệu vải và phụ liệu, với tay nghề tốt,

khéo léo nên sản phẩm xuất khẩu ra đạt yêu cầu về chất lượng của khách

hàng.

41

Page 42: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

Bảng 4: Cơ cấu hàng xuất khẩu qua các năm

Mặt hàng 1996 1997 1998

Tr. USD % TKN Tr.

USD

% TKN Tr. USD % TKN

1. Sơ mi 108,871 14,25 236,028 20,52 257,043 20,56

2.Jacket và áo khoác các loại 118,459 15,79 225,742 19,63 241,978 19,36

3. Quần các loại 58,630 7,82 110,483 9,61 157,142 12,57

4. Dệt kim các loại 57,799 7,71 92,421 8,03 107,664 8,6

Sau mỗi đợi xuất hàng, Tổng Công ty đều tổ chức hạch toán kiểm tra việc

thực hiện nhiệm vụ ở các công đoạn xem có đúng, đầy đủ, chính xác không

để kịp thời phát hiện, bổ sung thiếu sót. Do vậy, hoạt động xuất khẩu hàng

may mặc liên tục hoàn thiện và phát triển. Có thể thấy rõ hơn sự biến động

tăng giảm của từng sản phẩm qua các năm qua (Bảng 4).

Qua bảng trên cho thấy, tình hình xuất khẩu các mặt hàng may mặc nói

chung có triển vọng tốt, chẳng hạn đối với mặt hàng sơ mi năm 1996 giá trị

đạt hơn 100 triệu USD, chiếm 14,52% tổng kim ngạch thì năm 1997 đã tăng

lên hơn 200 triệu USD, chiếm 20,52% và năm 1997 là 20,56%. Trong cơ cấu

hàng may mặc xuất khẩu trên thì xu hướng hàng may mặc sẵn có xu hướng

tăng lên nhiều bởi Tổng Công ty ngoài việc thực hiện xuất khẩu còn thực hiện

làm hàng trả nợ cho các nước SNG và Đông Âu. Bằng sự tranh thủ mọi

nguồn vốn và sự hỗ trợ của các đối tác, Tổng Công ty không ngừng đầu tư đổi

mới trang thiết bị, dây truyền công nghệ, thay thế các thiết bị cũ, lạc hậu, lắp

đặt các thiết bị hiện đại. Chính vì vậy mà chất lượng sản phẩm được nâng

cao, sản phẩm đa dạng (sơ mi, jacket, đồ thể thao...) từng bước đáp ứng nhu

cầu thị trường. Đặc biệt đối với mặt hàng sơ mi nam cao cấp đã có mặt và

đứng vững trên thị trường EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, và Bắc Mỹ.

Đối với mặt hàng dệt kim, những năm trước kia có giá trị xuất khẩu rất

lớn, do khi đó chưa đòi hỏi kỹ thuật cao cấp và nhu cầu ở các nước bạn hàng

rất lớn. Còn hiện nay, hàng dệt kim đòi hỏi kỹ thuật tiên tiến, hiện đại, trên thị

42

Page 43: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

trường lại có nhiều đối thủ cạnh tranh gay gắt. Do đó mặt hàng này hiện nay

xuất khẩu chủ yếu là để trả nợ . Bên cạnh đó, mặt hàng này phần lớn là được

xuất sang các nước SNG, vì vậy khi các nước này tan rã, thì thị trường cho

mặt hàng này bị thu hẹp nhanh chóng. Nếu như năm 1993 xuất khẩu chiếm

39,1% thì từ năm 1995 đến nay chỉ đạt từ 7 đến 8%.

Trên đây là các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Tổng Công ty. Hiện nay

Tổng Công ty đang tiếp tục củng cố và tiến tới nâng cao tỉ trọng hàng dệt kim,

hoàn thiệnvà phát triển hàng may mặc, đảm bảo chất lượng cao, chủng loại đa

dạng phong phú, giá thành giảm dần.

Bên cạnh những thành công đạt được, vẫn còn một số hạn chế, tồn tại cần

giải quyết. Tuy kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc cao nhưng hình thức xuất

khẩu hàng gia công là chủ yếu, do đó hiệu quả chưa cao (75-80% là gia công

xuất khẩu). So với các nước nói chung, mặt hàng may mặc của ta chưa cạnh

tranh được (trong đó có Trung Quốc, Thái Lan). Một trong những mục tiêu

phấn đấu của Tổng Công ty là từng bước giảm gia công, tăng bán sản phẩm

hoàn chỉnh. Để thực hiện được mục tiêu này, Tổng Công ty hướng ưu tiên đầu

tư cho khâu kéo sợi, dệt vải, in, nhuộm để tạo ra nhiều loại vải có chất lượng

cao (hiện nay, vải đủ tiêu chuẩn chỉ có 10-15% nhu cầu chủng loại) và đầu tư

vào sản xuất phụ liệu, khâu thiết kế mẫu mã, nhãn mác và phải đẩy mạnh

công tác tìm kiếm thị trường, tìm kiếm khách hàng mua sản phẩm hoàn chỉnh

của Việt Nam. Năm 1996 toàn Tổng Công ty xuất khẩu sản phẩm theo điều

kiện FOB được khoảng 30%, năm 1997 đã tăng lên 40%. Đây là một cố gắng

lớn của Tổng Công ty.

2. Tình hình xuất khẩu hàng may mặc theo thị trường .

Thâm nhập tìm kiếm thị trường là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Tổng

Công ty Dệt-May Việt nam. Trong những năm qua, hoạt động kinh doanh

xuất khẩu hàng may mặc luôn được Tổng Công ty chú trọng nhằm mở rộng

thị trường trong nước và nước ngoài. Đến nay Tổng Công ty đã có quan hệ

buôn bán với trên 40 nước. Tổng Công ty đang củng cố vị thế và mở rộng thị

trường hơn nữa. Giá trị hàng may mặc không ngừng tăng lên qua các năm.

Bên cạnh đó, nhu cầu hàng may mặc không ngừng tăng lên ở các nước

43

Page 44: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

trên thế giới vì sau nhu cầu ăn là nhu cầu về mặc. Tổng khối lượng lưu

chuyển hàng hoá này chiếm tỉ trọng lớn trong cán cân thương mại quốc tế, chỉ

đứng sau khoáng sản tài nguyên và chế tạo máy, điện tử. Khi trình độ khoa

học kỹ thuật của con người ngày càng phát triển ở mức độ cao sẽ dẫn tới sự

phân hoá thế giới về sản xuất. Các nước phát triển sẽ chuyển sang các ngành

công nghiệp hiện đại, nhường chỗ cho các nước đang phát triển trong công

nghiệp sản xuất hàng may mặc. Nhu cầu may mặc cũng ngày càng đòi hỏi

nhiều hơn, mẫu mã, chất liệu phong phú hơn, đặc biệt xã hội càng văn minh

lịch sự bao nhiêu thì yêu cầu về mặc lại càng được chú ý cầu kỳ bấy nhiêu.

Nhận biết được các yếu tố đó đã giúp cho Tổng Công ty trong hoạt động xuất

khẩu đạt được những kết quả đáng khích lệ. Để hiểu rõ hơn hoạt động xuất

khẩu hàng may mặc của Tổng Công ty sang các thị trường trong thời gian

qua, ta hay xem xét qua bảng 5 dưới đây:

Bảng 5: Cơ cấu xuất khẩu hàng may mặc theo thị

trường chủ yếu 1995-1998Thị trường 1995 1996 1997

Tr. USD % TKN Tr. USD % TKN Tr. USD % TKN

TT có hạn ngạch

Trong đó:

- EU 310 41,3 420 36,52 650 52

- Canada 17,85 2,38 15,97 1,39 12,89 1,03

- Nauy 9,53 1,27 5,82 0,51 4,93 0,39

TT Phi hạn ngạch

Trong đó:

- Thuỵ Sĩ 27,6 3,68 8,64 0,75 8,51 0,68

- Hungary 57,5 7,70 102,59 8,93 105,58 8,44

- Ucraina 37,21 4,97 119,12 10,35 121,3 9,7

- Séc 39,87 5,32 189,22 16,45 69,07 5,53

- Nga 50,53 6,74 43,75 3,8 39,87 3,19

- Nhật 59,28 7,90 79,85 6,94 29,54 2,36

- Hàn quốc 36,71 4,89 9,87 0,9 8,75 0,7

- Đài loan 47,66 6,35 25,69 2,23 30,42 2,43

- Hồng Kông 29,21 3,89 97,54 8,48 112,37 9,04

- Mỹ 5,48 0,73 9,74 0,85 14,28 1,14

- Các nước khác 21,57 2,88 22,2 1,90 42,49 3,41

Tổng 750 100 1150 100 1250 100

44

Page 45: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

Qua bảng số liệu trên cho thấy, hàng may mặc xuất khẩu của Tổng Công

ty chiếm tỉ trọng lớn ở các thị trường Nga, Nhật, EU, Séc, Ucraina, Hungary.

Tuy nhiên hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc ở các thị trường

trên vẫn chưa thật ổn định.

Trong số các thị trường có hạn ngạch, thì EU là thị trường lớn nhất của

Tổng Công ty. Đây là một thị trường đông dân (350 triệu người) lại có sức

tiêu dùng vải cao (17 kg/ 1 người). Yêu cầu về hàng may mặc đặc biệt cao.

Nhu cầu tiêu dùng để bảo vệ thân thể chỉ chiếm 10- 15% giá trị sản phẩm, còn

80- 90% là theo mốt, nên hàm lượng chất xám trong sản phẩm may là chính.

Trong ba năm 1995, 1996, 1997, quota xuất khẩu hàng may mặc Việt nam

vào EU không ngừng tăng lên. Điều đó chứng tỏ chất lượng hàng may mặc đã

ngày một cao hơn. Nhưng so với các nước có quota vào EU thì số lượng của

ta còn rất nhỏ bé (mới chỉ chiếm 0,7% tổng kim ngạch nhập hàng may mặc

vào EU) và chỉ bằng 5% đối với Trung Quốc, 10- 20% so với các nước

ASEAN. Tuy nhiên, ta cũng còn gặp nhiều khó khăn như nhiều mặt hàng lớn

thì bị hạn chế về số lượng như Jacket, áo sơ mi mới chỉ đạt 50% công suất

của ngành. Số hạn ngạch còn hạn chế: Hiệp định Việt nam- EU 1993- 1995

qui định 151 cat. Giá trị xuất khẩu năm 1995 đạt 310 triệu USD, năm 1996 ký

lại còn 54 cat (nhóm hàng xuất khẩu) đã nâng kim ngạch xuất khẩu lên 410

triệu USD. Năm 1997 Hiệp định này ký lại rút xuống còn 29 cat, nâng tổng

kim ngạch xuất khẩu sang EU lên 650 triệu USD chiếm 52% tổng kim ngạch

xuất khẩu. Số nhóm hàng xuất khẩu (cat) mà EU dành cho hàng may mặc

Việt Nam càng giảm thì số chủng loại mặt hàng may Việt Nam càng có cơ

hội thâm nhập vào thị trường EU nhiều hơn.

Ngoài ra, EU còn dành một số ưu đãi về thuế quan (GSP) đối với mặt hàng

may mặc do Việt Nam sản xuất. Song do nguyên liệu, phụ liệu sản xuất trong

nước còn yếu kém, chưa có mẫu mã phù hợp với thị hiếu và chưa có bạn hàng

mua bán trực tiếp ở các nước trong khối EU... nên hầu hết phải thông qua gia

công cho các nước như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông... Gia công đơn

thuần làm cho hoạt động xuất khẩu hàng may mặc không hiệu quả, bị thua

thiệt nhiều mặt, không tận dụng được ưu đãi quota mà EU dành cho ta. Đối

với thị trường EU, kim ngạch xuất khẩu có tăng lên, xong không đáng kể. Các

45

Page 46: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

thị trường Canada, Nauy bị thu hẹp do hàng của Tổng Công ty không cạnh

tranh được với hàng của các nước khác. Chẳng hạn như mặt hàng sơ mi,

Trung Quốc phát triển hơn ta rất nhiều.

Đối với nhóm thị trường phi hạn ngạch, nhìn tổng thể thì kim ngạch xuất

khẩu tăng đều trên các thị trường Hungary, Ucraina, Hồng Kông, Mỹ nhưng

trên một số thị trường khác thì xuất khẩu lại giảm, chẳng hạn như: Nga, Đài

loan, Thuỵ sĩ, đặc biệt là thị trường Nhật giảm rất nhanh trong năm1997. Sở

dĩ vì có tình trạng trên là vì ở các thị trường Séc, Hungary phần lớn là hàng

trả nợ. Trên thị trường Ucraina, Tổng Công ty xuất khẩu đổi hàng thuỷ điện

Yaly, thuỷ điện Yaly nợ Ucraina, Tổng Công ty xuất khẩu hàng may mặc

sang Ucraina, Yaly trả tiền cho Tổng Công ty, do đó khối lượng tiêu thụ sang

những thị trường này là tương đối lớn.

Mặt khác, đây là các thị trường dễ tính, phù hợp với trình độ và quen thuộc

của Tổng Công ty nên dễ thực hiện, tuy nhược điểm đồng tiền trên thị trường

SNG và một số nước Đông Âu còn biến động lớn.

Trên thị trường Nga, mặc dù giá trị hàng xuất khẩu năm 1996, 1997 có

giảm đi nhưng không đáng kể vì trên thị trường này xuất khẩu chủ yếu là

hàng đổi hàng và để trả nợ. Ở Đài Loan, Nhật Bản thì con số này chỉ ở mức

khiêm tốn, chiếm khoảng 1,7%. Đây là thị trường to lớn và hấp dẫn mà Tổng

Công ty cần khai thác hiệu quả hơn nữa.

Ngoài các thị trường trên, Mỹ là thị trường mới mẻ đối với Tổng Công ty.

Qua ba năm từ 1995-1997 thị trường Mỹ đã liên tục được mở rộng và tăng lên

tuy nhiên chưa lớn lắm. Đây là một thị trường đầy triển vọng đối với Tổng

Công ty. Mỹ-một thị trường sản xuất và tiêu thụ hàng may mặc lớn nhất thế

giới, dân số đông (hơn 360 triệu người), mức tiêu thụ hàng may mặc gấp rưỡi

EU (27kg/ 1 người). Từ sau khi quan hệ Việt-My bình thường hoá, hai nước

đã đặt quan hệ Đại sứ, bãi bỏ cấm vận, tuy chưa được hưởng ưu đãi thuế quan

phổ cập (GSP) và tối huệ quốc MFN, hoạt động xuất khẩu hàng may mặc

giữa Tổng Công ty với Mỹ luôn tiến triển tốt đẹp.

Trong khuôn khổ đàm phán WTO từ 1/1/1995 thì trong vòng 10 năm nữa

46

Page 47: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

hàng rào hạn ngạch hàng dệt may bị bãi bỏ và thuế sẽ giảm trung bình 9%.

Các nước có xu hướng sản xuất hàng dệt may đang điều chỉnh lại chiến lược

phát triển ngành dệt may nước họ, chuẩn bị đọ sức quyết liệt tại thị trường Mỹ

không hạn ngạch vào năm 2005, đặc biệt là đối với những nước có lợi thế

nhân công rẻ sẽ ồ ạt xuất hàng may mặc vào Mỹ. Tổng Công ty Dệt May Việt

nam do xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ còn quá nhỏ bé (0,037% tổng kim

ngạch nhập năm 1995) nên cần có chiến lược tiếp thị, phát triển các mặt hàng

may mặc phù hợp với tiêu chuẩn chất lượng, và thị hiếu của thị trường Mỹ,

đầu tư đón trước thời cơ để có thể thâm nhập mạnh mẽ vào được thị trường

khổng lồ này.

Có thể nói rằng những thành công của Tổng Công ty trong thời gian qua

không chỉ thể hiện bằng những con số, mà còn phải kể đến thị trường mở

rộng, mặt hàng đa dạng, phong phú, tạo ra uy tín đối với các đơn vị kinh

doanh trong và ngoài nước, đây mới là tài sản vô hình quí giá không dễ gì đạt

được.

3. Hiệu quả kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc ở Tổng Công ty Dệt -

May Việt Nam.

Đánh giá hiệu quả kinh doanh của Tổng Công ty là một đòi hỏi bức thiết

đối với công tác quản lý cũng như đối với Tổng Công ty nhằm hướng Tổng

Công ty quan tâm khai thác tiềm năng để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh

doanh. Trên cơ sở đó, tăng cường tích luỹ để đầu tư tái kinh doanh cả chiều

rộng lẫn chiều sâu, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế của toàn bộ nền kinh

tế quốc dân.

Có rất nhiều chỉ tiêu để phân tích, đánh giá hiệu quả kinh doanh của Tổng

Công ty. Song đối với hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc thì chỉ

tiêu lợi nhuận và tỉ suất lợi nhuận, chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu

động là hai chỉ tiêu quan trọng nhất.

3.1. Cơ sở hình thành lợi nhuận của Tổng Công ty từ hoạt động xuất

khẩu.

Để có thể phân tích, đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh

47

Page 48: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

xuất khẩu một cách rõ ràng, chính xác cần thiết phải xem xét những khoản

mục nào tạo nên chi phí, lợi nhuận trước và sau thuế được hình thành như thế

nào. Cơ sở hình thành lợi nhuận của tổng Công ty có thể được tóm tắt như

sau:

48

Page 49: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

P = [( R - C ) - T ] + B

Trong đó:

R: Tổng doanh thu từ hợp đồng xuất khẩu: Giá trị hợp đồng

C: Tổng chi phí hợp lý, hợp lệ bao gồm:

- Giá vốn hàng hoá: giá mua và chi phí thu mua

- Tiêu hao nguyên vật liệu sản xuất hàng xuất khẩu

- Khấu hao tài sản cố định

- Tiền công, tiền lương

- Lệ phí hải quan, thuê tàu, bảo hiểm hàng hoá

- Chi phí quản lý, tiền lãi ngân hàng

- Chi phí liên quan trực tiếp đến lưu thông hàng hoá xuất khẩu ở

trong nước:

+ Bốc xếp, vận chuyển

+ Chi phí bảo quản, đóng gói bao bì

+ Chi phí giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng

- Các chi phí được coi là hợp lệ

T: Thuế các loại, bao gồm:

- Thuế doanh thu

- Thuế sử dụng vốn ngân sách cấp (gọi tắt là thuế vốn)

- Thuế lợi tức tính theo công thức sau:

Trước năm 96:

49

Page 50: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

Thuế lợi tức = (Lợi nhuận trước thuế - thuế doanh thu- thuế vốn + Lợi tức

khác) * thuế suất lợi tức

Năm 97 đến nay:

Thuế lợi tức = (Lợi nhuận trước thuế - thuế doanh thu- lợi tức khác) * thuế

suất lợi tức

B: Các khoản lợi tức khác:

Bao gồm:

- Các khoản lợi tức khác phải nộp thuế:

+ Lãi tiền gửi ngân hàng

+ Lãi từ hoạt động kinh doanh cho thuê động sản, bất

động sản

+ Lãi từ hoạt động kinh doanh phụ khác

+ Lãi từ các hoạt động tài chính khác

+ Chênh lệch thanh lý , chuyển nhượng tài sản cố định

- Các khoản lợi tức khác không phải nộp thuế

+ Lãi từ góp vốn liên doanh

+ Lợi nhuận góp hoặc mua cổ phiếu, cổ phần

P: Thực lãi của Tổng Công ty từ hoạt động xuất khẩu

Phần lãi này được chia làm 3 quĩ theo qui định của Nhà nước và thuộc

quyền sử dụng của Tổng Công ty trong phạm vi 3 quĩ đó là: quĩ phát triển sản

xuất, quĩ khen thưởng, quĩ phúc lợi.

Trong thực tế khi tiến hành hoạt động kinh doanh xuất khẩu, người ta phải

chú ý đến tương quan giữa tỉ giá hối đoái chính thức được công bố trên thị

trường và tỉ giá hàng xuất khẩu.

50

Page 51: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

Tỉ giá hàng xuất khẩu là số nội tệ phải bỏ ra để thu được một đơn vị ngoại

tệ ví dụ là (Mx)

Khi nhà sản xuất hoàn thành thủ tục giao hàng, sẽ thực hiện thanh toán

bằng ngoại tệ. Số lượng ngoại tệ thu về là giá trị của hợp đồng xuất khẩu gọi

là doanh thu hoạt động xuất khẩu (Rx). Như vậy, để thu được Mx đơn vị

ngoại tệ thì Tổng Công ty phải chi phí (Mx*Rx) đồng nội tệ, đó chính là các

khoản chi phí ở mục b.

Số lượng ngoại tệ Mx thu về được đổi thành đồng nội tệ theo tỉ giá hối

đoái trên thị trường là Mtt và (Mtt*Mx) đồng nội tệ. Vì vậy lợi nhuận hoạt

động xuất khẩu là:

LNx = Mtt*Rx - Mx*Rx = (Mtt - Mx)* Rx

Lợi nhuận xuất khẩu chỉ dương hay nhà xuất khẩu chỉ có lợi khi tỉ giá hối

đoái của thị trường Mtt lớn hơn tỉ giá hàng xuất khẩu Mx. Khi Mtt = Mx thì

nhà xuất khẩu hoà vốn.

3.2. Tổng lợi nhuận.

Tổng lợi nhuận thường được biết đến là lợi nhuận trước thuế hay lãi gộp từ

hoạt động sản xuất kinh doanh, được tính bằng doanh thu trừ đi chi phí.

Tổng lợi nhuận có thể được xem xét dựa vào bảng sau:

Bảng 6: Tình hình tài chính của Tổng Công ty năm 1995-1998.

(Đơn vị: Triệu VND) Năm

Chỉ tiêu

1995 1996 1997 1998

- Doanh thu

- Chi phí

- Lợi nhuận trước thuế

- Nộp thuế

- Lợi nhuận sau thuế

- Lợi nhuận khác

83.905

81.119

2.786

1.253

1.533

161583

155.926

5.657

2.340

3.317

465

198770

192327

6.443

245.302

237.807

Thực lãi 1.533 3.782 3.866 4.623

51

Page 52: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

Qua bảng trên cho thấy, tỷ trọng chi phí trên tổng doanh thu lần lượt qua

các năm là: 96,7%; 96,5%; 96,8%. Tỷ trọng trước thuế tương ứng với 3 năm

đó là: 3,32%; 3,5%; 3,24%.

Như vậy tỷ trọng của lợi nhuận trước thuế trong tổng doanh thu là tương

đối ổn định đạt mức trung bình là 3,35% trong thời kỳ 1995-1997. Doanh thu

qua các năm không ngừng tăng lên. Năm 1996 so với năm 1995 đã tăng thêm

được 77678 triệu đồng, năm 1998 tăng thêm so với năm 1997 là 31187 triệu

đồng.

Như đã đề cập ở trên, lợi nhuận trước thuế sau khi trừ đi các khoản nộp

ngân sách thu được khoản lợi nhuận sau thuế. Lợi nhuận sau thuế cộng thêm

các khoản lợi tức khác của Tổng Công ty thu được thực lãi, mà thực lãi sau đó

sẽ được trích lập thành ba quĩ theo qui định của Nhà nước. Vì vậy, sẽ là

không đầy đủ khi đánh giá hiệu quả kinh tế theo lợi nhuận nói chung mà chỉ

phân tích lợi nhuận trước thuế.

Tỷ trọng nộp ngân sách trong tổng lãi gộp qua các năm 1995,1996,

1997,1998 tương ứng là: 45%; 41,4%; 40%, 42% trung bình là 42,1%. Tỷ

trọng của lợi nhuận sau thuế trong tổng lợi nhuận tương ứng là: 51,1%;

58,6%; và 60%, 61% trung bình là 57,9%. Những con số trên đây cho thấy

mức độ nghiêm chỉnh chấp hành nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nước của

Tổng Công ty. Phần lợi nhuận sau thuế có tỷ trọng trung bình trong tổng lãi

gộp từ hoạt động kinh doanh là: 57,9%, trong đó tổng chi phí là 2,01%, trong

tổng doanh thu nói chung là 1,94%. Như vậy trong thời kỳ 1995-1998 vừa

qua, hoạt động kinh doanh của Tổng Công ty tương đối ổn định, luôn đảm

bảo nghĩa vụ đầy đủ đối với Nhà nước.

Tốc độ tăng bình quân của lợi nhuận trước thuế thời kỳ 1995-1998 là

58,47% so với tốc độ tăng trưởng trung bình của tổng doanh thu cùng kỳ là

57,8%. Tốc độ tăng bình quân của lợi nhuận sau thuế trong thời gian này là

66,46%, của nộp ngân sách là 48,44%.

Xét về số tuyệt đối thì tổng lãi gộp chưa lớn, hay phần nộp ngân sách và

lợi nhuận sau thuế còn nhỏ bé nhưng rõ ràng lợi nhuận trước và sau thuế tăng

52

Page 53: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

đều đặn và đạt từ 58- 66%, cùng với mức tăng trưởng doanh thu là 57,8%. Đó

là một dấu hiệu tích cực, phản ánh quá trình tích cực của Tổng Công ty trong

suốt thời kỳ 1995-1998 đã đạt được hiệu quả kinh tế cao, không những mang

lại lợi nhuận ngày càng cao cho Tổng Công ty mà còn tăng thu ngân sách cho

Nhà nước.

3.3. Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí, doanh thu, và vốn kinh doanh.

3.1.1. Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí.

Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí (Dc) được tính theo công thức:

Tổng lợi nhuận

Tổng chi phí

Trong đó tổng lợi nhuận được tính là tổng lợi nhuận trước thuế hay lãi

gộp, là phần còn lại của doanh thu sau khi đã bù đi các khoản chi phí hợp lý,

hợp lệ phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh.

Tuy nhiên, nếu tính doanh lợi theo chi phí dựa trên ba nhân tố là lãi gộp,

lợi nhuận trước thuế, thực lãi của Tổng Công ty thì không những biết được

rằng một đồng chi phí bỏ ra đem lại bao nhiêu đồng lãi gộp mà còn cho biết

trong phần lãi gộp đó bao nhiêu đồng trở về ngân sách Nhà nước, bao nhiêu là

phần lãi thực tế của Tổng Công ty. Phân tích như vậy sẽ có giá trị so sánh hơn

rất nhiều.

Bảng 7: Doanh lợi theo chi phí thời kỳ 1995-1998 Năm

Chỉ tiêu1995 1996 1997 1998

Tổng chi phí 81.119 155.926 192.327 237.807

Lợi nhuận trước thuế 2.786 5.657 6.443 7.495

Lợi nhuận sau thuế 1.533 3.317 3.866 4.623

Thực lãi 1.533 3.782 3.866 4.623

Dc (theo lợi nhuận trước thuế) 3.4 3,6 3.4 3,5

Dc (theo lợi nhuận sau thuế) 1.9 2,1 2,0 2,0

Dc (theo thực lãi) 1.9 2.4 2,0 2,0

53

Dc =

* 100%

Page 54: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

Về nội dung, các số liệu ở các cột tương ứng với các năm có ý nghĩa như

nhau vì thế chỉ cần chú giải một cột, ví dụ như năm 1996. Trong năm 1996:

Một đồng chi phí bỏ ra có thể thu về 0,036 (3,6%) đồng lãi gộp.

0,036 đồng lãi gộp đó có 0,024 đồng thực lãi của Tổng Công ty.

0,036 đồng đó có 0,015 đồng quay lại ngân sách Nhà nước

Như vậy từ một đồng chi phí bỏ ra năm 1996, Tổng Công ty thu về được

0,036 đồng lợi nhuận trước thuế, nộp 0,015 đồng cho ngân sách Nhà nước,

thu về là 0,021 đồng lợi nhuận sau thuế và 0,024 đồng thực lãi của Tổng

Công ty. Sở dĩ số thực lãi và lợi nhuận sau thuế không thống nhất với nhau vì

Tổng Công ty còn có các khoản lợi tức khác cộng thêm vào lợi nhuận sau

thuế mới có được thực lãi. Ởđây, các khoản lợi tức khác được tính vào thực

lãi của Tổng Công ty không phải là lợi tức từ hoạt động kinh doanh nhưng chỉ

tồn tại khi Tổng Công ty tiến hành các hoạt động kinh doanh. Đó không phải

là các khoản lợi nhuận thu về từ chênh lệch doanh thu và chi phí, nhưng lại có

nguồn gốc từ chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh. Do vậy, các khoản lợi

nhuận này được đưa vào tính tỷ suất lợi nhuận để có giá trị phân tích cao

hơn.

Qua bảng trên có thể thấy rằng các khoản chi phí của Tổng Công ty để tiến

hành hoạt động xuất khẩu nhìn chung là tiết kiệm. Tỉ lệ lợi nhuận trước và sau

thuế thu về từ mọi hoạt động chi phí là tương đối cao. Bản thân doanh lợi theo

chi phí này phản ánh mức độ tiết kiệm các khoản chi phí và cũng là một khiá

cạnh quan trọng đánh giá hiệu quả kinh doanh. Trên góc độ của chỉ tiêu này

nhận thấy hiệu quả kinh tế của hoạt động xuất khẩu trong thời kỳ 1995-1998

là tương đối cao. Kết quả tích cực đó tạo nên nền tảng vững chắc để Tổng

Công ty có thể mở rộng cả về chiều sâu chiều rộng trong kinh doanh xuất

khẩu hàng may mặc trong tương lai.

3.3.2. Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu.

Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu (Dr) được tính theo công thức:

Lợi nhuận

54

Page 55: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

Dr = * 100%

Doanh thu

Xét lợi nhuận của năm 1996:

Trong một đồng doanh thu có 0.035 đồng lợi nhuận. Trong 0.035 đồng đó

có 0.015 đồng quay lại ngân sách Nhà nước, 0.02 đồng là lãi sau thuế của

Tổng Công ty. Phần lãi sau thuế này cộng thêm với phần góp thêm của các lợi

tức. Còn lại 0.023 đồng lợi nhuận thực tế.

Bảng 8: Doanh lợi theo doanh thu thời kỳ 1995-1998.

Năm

Chỉ tiêu 1995 1996 1997 1998

Tổng doanh thu 83.905 161.583 198.790 245.302

Lợi nhuận trước thuế 2.786 5.657 6.443 7.495

Lợi nhuận sau thuế 1.533 3.317 3.866 4.623

Thực lãi 1.533 3.782 3.866 4.63

Dr (Tính theo lợi nhuận trước thuế) (%) 3,3 3,5 3,2 3,24

Dr (Tính theo lợi nhuận sau thuế) (%) 1.8 2,0 1,9 1,97

Dr (Theo thực lãi) 1,8 2,3 1,9 1,97

Như vậy, từ một đồng doanh thu Tổng Công ty có 0.035 đồng lợi nhuận

trước thuế, 0.02 đồng lợi nhuận sau thuếvà 0.023 đồng lợi nhuận thực tế.

Thực tế cho thấy, doanh lợi theo doanh thu cho biết khả năng sinh lời từ một

đồng doanh thu, tỷ suất lợi nhuận theo chi phí phản ánh mức độ tiết kiệm chi

phí, khả năng sinh lợi của một đồng chi phí. Tuy nhiên, nếu chỉ có doanh lợi

theo chi phí và doanh thu cao thì chưa đủ để kết luận về hiệu qủa kinh doanh,

mà cần thiết phải xem xét lợi nhuận trong mối quan hệ với các nguồn lực của

doanh nghiệp, đặc biệt là vốn kinh doanh.

55

Page 56: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

3.3. Doanh lợi tính theo vốn kinh doanh.

Vốn lưu động thường chiếm hơn 80% tổng vốn của một doanh nghiệp

thương mại. Việc sử dụng luân chuyển vốn lưu động có quan hệ nhân qủa,

chặt chẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận, doanh thu từ hoạt động kinh doanh.

Doanh lợi theo vốn lưu động (Dv) được tính theo công thức sau:

Lợi nhuận

Dv = * 100%

Obq

Obq: Là số dư bình quân của vốn lưu động trong thời gian tính lợi

nhuận.

Obq được tính như sau:

-Trong một tháng:

Odk + Ock

Obq =

2

Odk: Dư đầu kỳ vốn lưu động

Ock: Dư cuối kỳ vốn lưu động

- Trong một quí:

Obq: Là tổng bình quân số dư vốn lưu động của các tháng trong kỳ.

- Trong một năm:

Obq: Là tổng bình quân của 12 tháng hay bốn quí.

Xác định số dư vốn lưu động đầu kỳ và cuối kỳ căn cứ vào số dư đầu kỳ

và dư nộp cuối kỳ trên các tài khoản theo dõi tài sản lưu động và vốn lưu

thông thể hiện bằng tiền và hàng hoá trên sổ sách báo cáo kết quả của phòng

kế toán của Tổng Công ty.

Xét năm 1996 ( Bảng 9 ):

Doanh lợi theo vốn lưu động bình quân là 0.25 cho biết từ một đồng vốn

lưu động bỏ ra trong năm có thể thu về bình quân 0.25 đồng lợi nhuận trước

thuế. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nước, Tổng Công ty

có thể thu về bình quân là 0.25 đồng lợi nhuận sau thuế.

56

Page 57: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

Doanh lợi tính theo vốn lưu động bình quân là khá ổn định trong ba năm

1995-1997, với mức trung bình là 19.3 % nếu là lợi nhuận chưa trừ thuế và

11.3% với lợi nhuận sau thuế. Như vậy, chúng ta có thể thấy hiệu quả sinh lợi

từ vốn lưu động là rất cao. Đây là một chỉ tiêu cho thấy hiệu quả sử dụng vốn

lưu động của Tổng Công ty.

Bảng 9: Doanh lợi theo vốn lưu động năm 1995-1998.

(Đơn vị: Triệu VNĐ và %) Năm

Chỉ tiêu

1995 1996 1997 1998

Số dư bình quân vốn lưu động 26.310 25.267 25.755 28.602

Lợi nhuận trước thuế 2.786 5.657 6.443 7.495

Lợi nhuận sau thuế 1.533 3.317 3.866 4.623

Dv theo lợi nhuận trước thuế (%) 10,6 22,4 25,0 25,3

Dv theo lợi nhuận sau thuế (%) 5,8 13,1 15,0 15,2

3.4. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động.

Vốn lưu động là một nguồn lợi quan trọng nhất và đáng kể nhất bên cạnh

vốn nhân lực của các doanh nghiệp thương mại nói chung, của Tổng Công ty

xuất khẩu Dệt-May Việt Nam nói riêng. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động vì

thế là một dấu hiệu quyết định hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh.

Bảng 10: Chu chuyển vốn lưu động năm 1995-1998.

Năm 1995 1996 1997 1998

Tổng doanh thu (Tr.VNĐ) 83.905 161.583 198.770 245.302

Số dư bình quân vốn lưu động (Tr.VNĐ) 26.310 25.267 25.755 28.602

Tốc độ chu chuyển (vòng) 3,2 6,4 7,7 7,9

Thời gian chu chuyển (ngày) 112,5 56,3 46,8 49,0

Xét năm 1996:

Tổng mức luân chuyển vốn lưu động (doanh số) đạt 161.583 triệu đồng.

Số dư bình quân vốn lưu động trong năm là 25.267 triệu đồng, tốc đọ chu

57

Page 58: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

chuyển đạt 6,4 vòng, thời gian mỗi lần chu chuyển là 56,3 ngày.

Xét cả thời kỳ 1995-1998, tốc độ chu chuyển vốn lưu động bình quân là

5,8 vòng, thời gian chu chuyển trung bình là 62,1 ngày, có thể nhận thấy các

hợp đồng xuất khẩu hàng may mặc của Tổng Công ty thực hiện khá nhanh,

vốn lưu động thực hiện có hiệu quả, luân chuyển liên tục trong thời gian trung

bình chưa đầy ba tháng.

4. Vấn đề đối tác và mức độ cạnh tranh của Tổng Công ty Dệt-May Việt

Nam trên thị trường thế giới hiện nay.

Trong 15 nước đạt kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc lớn nhất thế giới

trong những năm gần đây chúng ta xem xét tới một số đối tác đang phát triển

ở gần Việt Nam như Trung Quốc, Thái lan, ấn Độ, Mailaixia,

Bawngladet...Tốc độ tăng Việt Nam như Trung Quốc, Thái Lan, ấn Độ,

Mailaixia, Bawngladet... Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng may mặc của các

nước này những năm qua rất cao. Indonexia nhiều năm tăng trên 40%,

Băngladet 40%, Trung Quốc 35%, Thái Lan 27%, Mailaixia 20%.

Thị trường hàng may mặc ở các nước phát triển đòi hỏi chất lượng sản

phẩm rất cao. Để chiếm lĩnh thị trường này, các nhà sản xuất phải tuân theo

các tiêu chuẩn chất lượng đó. Họ có những cơ quan kiểm nghiệm và phòng thí

nghiệm hiện đại để kiểm tra chất lượng trước khi xuất. ở những nước này,

thường áp dụng tiêu chuẩn ISO 9000 và nhãn hiệu CE đối với hàng may mặc

xuất khẩu (CE là nhãn hiệu của cộng đồng Châu Âu, bảo đảm phẩm chất hàng

hoá phù hợp với yêu cầu pháp lý của Châu Âu). Những điều này, Việt Nam

chưa có khả năng thực hiện một cách đồng loạt ở các đơn vị sản xuất do hạn

chế về khả năng tài chính, trình độ công nghệ ...Tuy nhiên trong quy trình

công nghệ của tổng Công ty, các nhà sản xuất đã áp dụng hai biện pháp quản

lý:

- Kiểm tra “on line” (kiểm tra trên dây chuyền) nhằm ngăn ngừa tận lỗi ở

sản phẩm may ngay từ khi chúng được coi là bán thành phẩm.

- Triệt để giữ vệ sinh công nghiệp ở khâu sản xuất.

58

Page 59: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

Với các nước như Thái Lan, Indonexia luôn tích cực tìm kiếm những thị

trường không hạn ngạch. Nhiều khi thị trường Mỹ, Châu Âu bị đình trệ hoặc

không cạnh tranh nổi với Trung Quốc ở thị trường này, Công ty may Thái

Lan, Indonexia đã tìm những nước không hạn ngạch để xuất khẩu như Nhật

Bản, Hà Lan, Đài Loan, Trung Đông, các nước Châu Phi và thật trớ trêu cả

Việt Nam. Chúng ta không ngừng tìm kiếm thị trường ngoài nước nhưng

chính tại thị trường nội địa hàng may mặc Việt Nam đã không cạnh tranh nổi

với hàng ngoại nhập lậu và trốn thuế mặc dù chất lượng hàng may mặc Việt

Nam không kém gì hàng ngoại nhập. Vừa qua do cơn lốc khủng hoảng tài

chính trong khu vựe hàng may mặc xuất khẩu của Tổng Công ty vào thị

trường Nhật, Đài Loan giảm đáng kể do đồng Việt Nam bị mất giá, không

cạnh tranh nổi với các đồng tiền khác trong khu vực.

Hiện nay, ấn độ và Indonexia đã lập kho hàng xuất khẩu của mình ngay tại

cảng Châu Âu ( như cảng Rotterdam) để bám sát lịch giao hàng. Đó là vấn đề

tối cần thiết để có thể cạnh tranh được với những nhà giao hàng khác.

Indonexia cũng thành lập trung tâm mậu dịch và phân phối của mình ở

Rotterdam, trung tâm có quan hệ chặt chẽ với các cảng biển, sân bay và giữ

vai trò “cửa mở” vào Châu Âu, đưa hàng may mặc xuất khẩu vào thị trường

này. trung tâm cũng đứng ra lo địa điểm cho các cuộc trưng bày triển lãm và

các mục đích thương mại khác. Indonexia còn lập thêm những trung tâm

tương tựu ở những địa điểm quan trọng khác ở Châu âu. Hiện nay Tổng Công

ty mới có các kho hàng tại một số nước là bạn hàng truyền thống như Đức,

Nga...hàng may mặc xuất khẩu của tổng Công ty chủ yếu là hàng gia công dệt

may Việt Nam đã tổ chức hội thảo về thị trường Mỹ và Nhật Bản đây là hai

thị trường chiến lược của Tổng Công ty trong thời gian tới, đồng thời Tổng

Công ty cũng cử nhiều đoàn cán bộ tham gia họi thảo triển lãm, tham quan,

khảo sát tại các nước Nhật bản, trung quốc, EU, Mỹ ... để tìm hiểu thị trường

và kiếm thêm khách hàng.

Các nước ở khu vực Châu á đã xúc tiến mậu dịch trong nội bộ khu vực.

Đó là một bộ phận của chiến lược đối trọng với sự xuất hiện của các khối mậu

dịch ở các khu vực khác. Kinh nghiệm rõ nhất về mặt này thuộc các nước

ASEAN. Họ thực hiện được một điều là: Phần lớn khối lượng hàng may của

59

Page 60: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

nội bộ ASEAN là của các nước ASEAN chuyển khẩu qua Singapore.

Các nước ASEAN đã thông qua “chế độ ưu đãi thuế quan có hiệu lực

chung” (CEPT). Từ tháng 1/1993 đã giảm dần thuế quan của 15 nhóm hàng

công nghệ và nông sản chế biến (trong đó có hàng may mặc) trong nội bộ các

nước ASEAN. Mục tiêu sẽ giảm thuế ưu đãi xuống còn từ 0-5%. Đây là một

động lực thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may của Tổng Công ty trong thời gian

tới. Nhận thức rõ những ưu điểm và hạn chế của Tổng Công ty đệt may Việt

Nam đang đặt ra cho mình những mục tiêu lớn, dự báo tốc độ tăng trưởng >

10% trong giai đoạn 2000-2010. Đó là tỷ lệ tăng trưởng cao so với nhiều

ngành công nghiệp khác đồng thời cũng đặt ra cho tổng Công ty nhiều thách

thức lớn.

III. ĐÁNH GIÁ CHUNG NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ CỦA

HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG MAY MẶC Ở TỔNG CÔNG TY

DỆT-MAY VIỆT NAM.

1. Về mặt khách quan

Những năm qua, hoạt động kinh doanh của Tổng Công ty đã có những

thuận lợi nhất định. Với thực tại nền kinh tế nước ta trong xu thế mở cửa, hội

nhạp với khu vực và quốc tế đã tạo đã phát triển cho Tổng Công ty. Với một

loạt các sự kiện như việc Mỹ bỏ cấm vận và bình thường hoá quan hệ đối với

Việt Nam, việc ký kết với liên minh Châu Âu, gia nhập ASEAN, AFTA... đã

góp phần tích cực trong hoạt động xuất khẩu hàng may mặc của Tổng Công ty

đối với các nước Châu á. Bên cạnh đó, việc Mỹ bỏ cấm vận đối với Việt Nam

và xu thế trong một vài năm tới Việt Nam sẽ được hưởng quy chế tối huệ

quốc. Hơn nữa, theo hiệp định hàng dệt (ATC) ký tại vòng đàm phán thương

mại đa biên tháng 4/1994 ở Maraket ghi nhận rằng ATC sẽ thay cho hiệp định

đa sợi (MFA) đến ngày 1-1-2005, tất cả hàng dệt may phải được hoà nhập trở

lại theo những nguyên tắc thương mại thông thường của WTO và như vậy

hàng rào hạn ngạch hàng may mặc vào Mỹ sẽ được loại bỏ và thuế trung bình

sẽ giảm 9%. Đây là một thời cơ để có thể đi vào thị trường đầy tiềm năng này.

Nhờ những cơ hội trên mà trong suốt thời kỳ 1995-1998 hàng may mặc xuất

khẩu không ngừng tăng lên, đặc biệt là hạn ngạch xuất khẩu vào EU luôn tăng

60

Page 61: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

tạo ra một thị trường vững chắc cho Tổng Công ty. Do biết vận dụng những

cơ hội về chính sách mở cửa của Chính Phủ vì vậy cơn bão khủng hoảng tài

chính tiền tệ trong khu vực vừa qua không làm ảnh hưởng lớn đến sản lượng

xuất khẩu hàng may mặc của Tổng Công ty so với năm 1997, 1998 sản lượng

xuất khẩu hàng may mặc vẫn tăng khoảng 8% nhưng kim ngạch xuất khẩu

vẫn không đạt được mức kế hoạch do nguyên nhân chính là do tác động của

khủng hoảng tài chính khu vực làm sức mua của các bạn hàng lớn như Nhật,

Đài Loan, Hàn Quốc... giảm mạnh.

Ngoài ra, nguồn hàng may mặc chủ yếu phải thu mua, gia công ở các cơ

sở sản xuất dẫn tới giá thành cao, không chủ động, hạh chế hiệu quả sản xuất

kinh doanh, việc thu gom khối lượng hàng xuất khẩu thường gặp nhiều khó

khăn.

Ngành may chủ yếu là may gia công cho nước ngoài nên kim ngạch xuất

khẩu lơn nhưng thực thu ngoại tệ thấp, chỉ chiếm khoảng 20% tổng kim

ngạch. Thị trường xuất khẩu không ổn định, bị động, bị ép giá... Có tới 85%

sản phẩm may là làm gia công, chỉ còn 10-15% sử dụng vải trong nước. Thị

trường nội địa còn để cho sản phẩm ngoại chiếm phần lớn.

Đặc biệt, đối với thị trường phi hạn ngạch, hoạt động xuất khẩu hàng may

mặc vẫn chưa ổn định chủ yếu là do:

+ Hàng hoá của ta sản xuất chưa phù hợp với nhu cầu thị hiếu của khách

hàng.

+ Phương thức hoạt động chủ yếu là gia công xuất khẩu.

+ Việc tổ chức mạng lưới thông tin, tiếp thị ở nước ngoài chưa được triển

khai thống nhất.

+ Một số thị trường chưa được hưởng các quy chế ưu đãi.

+ Còn thiếu hiểu biết về thủ tục, tập quán và luật lệ của các nước và khu

vực trên toàn thế giới.

Do xu hướng tự do hoá thương mại, nên hàng may mặc bên ngoài tràn vào

61

Page 62: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

nước ta từ nhiều nguồn: Hàng nhập lậu, trồn thuế, hàng SIDA... giá rất rẻ, tràn

ngập thị trường trong nước làm cho sản xuất hàng may mặc trong nước bị thu

hẹp. Hơn nữa, ngành may còn gặp nhiều khó khăn ở cả đầu vào và đầu ra. ở

đầu vào, nguyên kiệu trong nước ( ngành Dệt) chưa đáp ứng được do chất

lượng vải thấp nên phải nhập khẩu, vì vậy rất bị động thường không đồng bộ

và bị hạn chế nhiều mặt về thời gian (nếu xuất sản phẩm quá 90 ngày thì phải

chịu thuế nhập khẩu). Giá gia công những năm gần đây không tăng, thậm chí

còn giảm. Chẳng hạn như giá gia công một áo sơ mi năm 1992 là 10 nghìn

đồng thì giảm xuống còn 5 nghìn đồng năm 1994; áo Jaket từ 80 nghìn đồng

xuống còn 30 nghìn đồng, thậm chí gia công lại chỉ còn 20 nghìn ...Năng suất

ngành may còn thấp (một công lao động ở ta chỉ làm được 10 áo sơ mi thấp

hơn 27 áo ở nước ngoài). ở đầu ra, đối với EU có đến một nửa thị trường tiêu

thụ bị khống chế bằng hạn ngahch. Hạn ngạch 1998-2000 với sơ loại sản

phẩm lên tới 54 nhóm so với 20 nhóm của các nước ASEAN khác. Thị trường

không hạn ngạch gần đây giảm như Nhật, thị trường Mỹ chưa sử dụng quy

chế tối huệ quốc nên vẫn chịu thuế suất cao. Đối với thị trường trong nước

cũng đang bị hàng nhập lậu trốn thuế cạnh tranh gay gắt.

Về mặt quản lý vĩ mô, một số chính sách hiện hành vẫn chưa thực sự tạo

điều kiện cho hoạt động xuất khẩu hàng may mặc, như hiện tượng thuế trùng

thuế, không cạnh tranh được với giá thành, giá bán trên thị trường. Chính phủ

chưa có ưu đãi về vốn vay hoặc miễn giảm thuế cho đầu tư phát triển ngành

Dệt-May nên các dự án đầu tư mới, vốn lớn không dám triển khai vì không

tính toán trả được lãi vay và vốn.

Vấn đề tỷ lệ xuất khẩu quy định tại giấy phép cũng cần có sự nhất trí chỉ

đạo trong các cơ quản lý Nhà nước sao cho công bằng và hợp lý.

Bên cạnh những khó khăn tồn tại, Tổng Công ty Dệt - May Việt Nam cũng

phải đương đầu với không ít những thách thức mới.

Cùng với tiến trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, thực hiện viẹc cắt

giảm thuế quan CEPT của khối mậu dịch ASEAN (AFTA), đàm phán để gia

nhập tổ chức thương mại quốc tế (WTO) đặt ra những thời cơ và thách thức

lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam, trong đó những cố gắng nỗ lực trong

62

Page 63: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

việc điều hành hoạt động xuất nhập khẩu nói chung, xuất khẩu may nói riêng.

Hiện nay, hiệp định mới được ký kết với EU cho giai đoạn 1998-2000 có

tăng lên nhưng thực tế ngành may Việt Nam vẫn dư thừa từ 20-25% năng lực.

Trong khi tình hình kinh tế Nhật Bản và Hàn Quốc đang có những diễn biến

phức tạp với những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính, do

vậy sức mua trong nước sẽ trì trệ, thậm chí giảm. Theo nguồn tin thương mại

Nhật Bản, nhập khẩu quần áo năm 1997 đã giảm 13% về sản lượng và 5% về

giá trị so với năm 1996. Năm 1998, nhập khẩu quần áo tiếp tục giảm xuống

còn 20% về số lượng. Trong số các thị trường xuất khẩu lớn nhất phi hạn

ngạch của Tổng Công ty thì Nhật bản là thị trường lớn nhất. Hiện tượng thị

trường xuất khẩu của Tổng Công ty bị trì trệ, cơ cấu cung cầu không cân đối

này sẽ ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu hàng may mặc của Tổng Công ty,

đòi hỏi Tổng Công ty phải có biện pháp kịp thời để ổn định và thức đẩy sự

phát triển hoạt động xuất khẩu hàng may mặc của mình.

Mặt khác, do cơn bão tài chính tiền tệ ở khu vực Đông Nam á đã làm một

số nước phải phá gái hoặc thả nổi đồng tiền nước họ, do vậy cạnh tranh xuất

khẩu hàng may mặc vào EU, Mỹ sẽ rất ác liệt. Khi đầu tư, mở rộng sản xuất

Tổng Công ty cần thấy rõ để tính toán đầy đủ các yếu tố rủi ro nhằm đạt hiệu

quả cao nhất.

Hơn nữa, nước ta đã là thành viên đầy đủ của ASEAN và thực hiện các

điều khoản của hiệp định AFTA, tiến trình giảm thuế nhập khẩu là không thể

đảo ngược. Xu thế hội nhập thế giới ngày càng cao nên việc lựa chọn và định

hướng đầu tư đúng, có hiệu quả đang đặt ra rất bức thiết. Đón nhạn thời cơ

đồng thời dám chấp nhận thử thách, Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam cần

phải có những bước đi và giải pháp phù hợp trong hoạt động xuất khẩu hàng

may mặc. Cạnh tranh gay gắt song không có nghĩa là không dám cạnh tranh,

đây là một bài toán khó đối với Tổng Công ty. Đặc biệt Tổng Công ty đang

phải đương đầu với những đối thủ trên sức mình trong lĩnh vực hàng may mặc

cả về thị trường trong và ngoài nước. Chẳng hạn như Trung Quốc, một nước

láng giềng của ta có hoạt động xuất khẩu hàng may mặc rất phát triển. Hàng

may mặc Trung Quốc tràn ngập trên thị trường Việt Nam với những ưu thế

hơn hẳn cả về chất lượng và giá cả. Năm 1997, hàng may mặc xuất khẩu

63

Page 64: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

chiếm hơn 1/4 tổng xuất khẩu của Trung Quốc. Trung Quốc đã mở rộng xuất

khẩu sang các thị trường Liên Xô cũ và các nước Châu Phi-đây vốn là những

thị trường dễ tính đối với hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam. Liệu Tổng

Công ty sẽ đối phó ra sao để cạnh tranh với một đối thủ tầm cỡ như vạy để có

thể duy trì và phát triển thị trường xuất khẩu của mình.

Với những thách thức đó, Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam cần phải cân

nhắc và chuẩn bị thị trường xuất khẩu thật chu đáo mới có thể có cơ hội thắng

lợi trong cạnh tranh quốc tế.

64

Page 65: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

2. Về mặt chủ quan

Tuy mới được thành lập, nhưng Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam đã

không ngừng vươn lên, khẳng định chỗ đứng của mình ở cả thị trường trong

nước và ngoài nước. Với một đội ngũ cán bộ tinh thông nghiệp vụ, am hiểu

thị trường đồng bộ và phối hợp chặt chẽ giữa khâu ở công đoạn từ giao dịch

đàm phán với khách hàng đến ký kết các điều khoản trong hợp đồng, bảo

đảm được chất lượng và tiến bộ giao hàng gắn với thời gian nhập khẩu

nguyên phụ liệu. Tổng Công ty lại có ưu thế về nguồn vốn, cơ sở vật chất kỹ

thuật đầy đủ, tiên tiến, qua đó tạo được thế ổn định trong kinh doanh. Tổng

Công ty rất có uy tín, được Nhà nước và Bộ thương mại tin cậy nên Tổng

Công ty luôn được ưu đãi trong việc ký kết hợp đồng xuất khẩu hàng may

mặc. Mặt khác, do Tổng Công ty được Bộ gia cho làm hàng trả nợ và ký kết

được hợp đồng gia công nên kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc luôn ổn

định và ở mức cao. Hiện nay, Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam là Tổng Công

ty có giá trị xuất khẩu trong các Tổng Công ty trực thuộc Bộ công nghiệp

(56%) và cũng là một trong những Tổng Công ty có xuất siêu lớn nhất của

ngành công nghiệp.

Tổng Công ty cũng nhận biết thế mạnh của từng đơn vị trực thuộc, các

phòng ban, phân công nhiệm vụ cụ thể, nguồn hàng may mặc chất lượng cao,

đảm bảo hợp lý về sản lượng và giá cả. Với những đóng góp của ngành may

trong thời gian qua đã chứng minh cho khả năng phát triển mạnh mẽ của

ngành.

Đến nay, Tổng Công ty đã khẳng định được vị thế của mình bằng việc

phát triển với tốc độ nhanh, giải quyết công ăn việc làm cho hàng trăm ngàn

lao động, tạo nguồn ngoại tệ cho đất nước, tham gia vào quá trình phân công

và hợp tác quốc tế, nhanh chóng hội nhập vào quốc tế và khu vực, từng bước

thiết lập nền công nghiệp chuyên ngành trên phạm vi toàn quốc. Những thành

tựu đạt được đó góp phần không nhỏ vào công việc công nghiệp hoá, hiện đại

hoá đất nước.

65

Page 66: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, Tổng Công ty cũng còn có những

hạn chế như:

- Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các doanh nghiệp dệt với dệt, may

với may trong việc khai thác năng lực thiết bị và trong tiêu thụ sản phẩm (còn

có tình trạng cạnh tranh nội bộ , thiếu hỗ trợ nhau, chạy theo lợi ích riêng).

- Thị trường xuất khẩu còn dựa nhiều vào quato và hạn ngạch Nhà nước,

sức cạnh tranh hàng may mặc còn yếu nên thị trường nội địa không đủ sức

cạnh tranh với hàng nhập ngoại, hàng của các Công ty 100% vốn nước

ngoài.

Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư chưa cao, còn nhiều đơn vị làm ăn thua lỗ,

một số đơn vị chưa mạnh dạn đầu tư. Việc quản lý sản xuất, quản lý thiết bị.

Quản lý lldj, vệ sinh môi trường...còn nhiều việc phải củng cố lại. Chưa có sự

liên kết giữa các đơn vị thuộc Tổng Công ty với các ngành khác, với địa

phương dẫn đến tình trạng nhiều sản phẩm trong nước sản xuất ra đảm bảo

chất lượng nhưng vẫn còn nhập, quá trình cổ phần hoá triển khai còn chậm

chưa đạt được tiến độ như mong muốn...

Nhìn lại những năm qua, mặc dù hoạt động sản xuất kinh doanh trong

điều kiện vô cùng khó khăn do ảnh hưởng còn thiên tai, hạn hán, bão lụt...đặc

biệt gần đây do ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ

khu vực, Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam vẫn đảm bảo được nhịp độ tăng

trưởng khá, ổn định sản xuất, không ngừng đầu tư phát triển...tuy vậy vẫn còn

tồn tại một số hạn chế không thể tránh khỏi nhưng đay cũng là một thành tựu

đáng ghi nhận của toàn Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam.

66

Page 67: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

CHƯƠNG III

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐẨY MẠNH

XUẤT KHẨU HÀNG MAY MẶC Ở TỔNG CÔNG TY DỆT -

MAY VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI.

I. TRIỂN VỌNG XUẤT KHẨU HÀNG MAY MẶC CỦA TỔNG CÔNG

TY TRONG THỜI GIAN TỚI.

1. Mục tiêu và định hướng phát triển của Tổng Công ty:

1.1. Một số quan điểm cơ bản phát triển ngành công nghiệp dệt

may Việt Nam.

a/ Công nghiệp Dệt-May phải được ưu tiên phát triển và được coi là một

trong những ngành trọng điểm trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá

ở nước ta những năm tiếp theo:

Trong bốn năm qua kim ngạch xuất khẩu hàng dệt-may đều tăng và đã

vươn tới đứng thứ hai (sau dầu khí) trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của

đất nước. Dự báo tốc độ tăng trưởng sẽ vào khoảng 10% trong giai đoạn

1996-2000 và trên 10% giai đoạn 2000-2010. Đó là tỷ lệ tăng trưởng cao so

với nhiều ngành công nghiệp khác. Như vậy, trong những năm tiếp theo cảu

quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, ngành dệt may phải được ưu tiên

phát triển.

b/ Phát triển công nghiệp Dệt-May theo hướng hiện đại và đa dạng về sản

phẩm.

Công nghiệp hiện đại ngày nay đã trở thành yếu tố quyết định cho sự phồn

vinh của một quốc gia, hay sức mạnh cạnh tranh kinh tế cảu một sản phẩm.

Chúng ta chỉ có thể thu hẹp khoảng cách so với các nước phát triển và tham

gia vào quá trình phân công lao động quốc tế thông qua việc tăng cường năng

lực công nghệ quốc gia, tiếp cận và làm chủ công nghệ tiến tiến và công nghệ

cao.

67

Page 68: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

Từ nhận thức đó, công nghiệp Dệt-May phảu được ưu tiên phát triển theo

hướng hiện đại và đa dạng về sản phẩm.

Trong thời gian tới, cùng với sự phát triển kinh tế của cả nước nhu cầu

hàng tiêu dùng sẽ tăng lên nhưng không đơn giản tăng về số lượng các mặt

hàng cao cấp cũng tăng lên. Theo quy luật tiêu dùng thì khi thu hập tăng lên,

tỷ lệ chi cho ăn uống sẽ giảm tương đối, còn tỷ lệ tiêu dùng cho các như cầu

khác cũng sẽ tăng lên trong đó có nhu cầu về may mặc. Như vậy, cũng với

việc tăng dan số và tăng thu nhập, trong những năm tới thị trường trong nước

sẽ là tiền đề phát triển cho công nghiệp sản xuất tiêu dùng nói chung và công

nghiệp Dệt-May nói riêng.

Đối với thị trường nước ngoài, để tiếp nhạn thành công có sự dịch chuyển

kinh tế từ các nước phát triển hơn và nhanh chóng thay thế họ xâm nhập vào

các thị trường quốc tế mới, ngành Dệt-May càng cần phải được trang bị lại

theo hướng hiện đại. Có như vậy mới có thể đáp ứng được đòi hỏi ngày càng

cao, càng đa dạng của thị trường trong và ngoài nước

Tất cả các yếu tố đó đòi hỏi bức xúc ngành phải có kế hoạch hiện đại hoá

từng bước, kết hợp giữa thay thế và hiện đại hoá, đồng thời nhanh chóng tiếp

thu công nghệ mới để giảm bớt khoảng cách tụt hậu.

c/ Phát triển công nghiệp Dệt-May theo hướng kết hợp hướng về xuất khẩu

với thay thế nhập khẩu.

Hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu có hiệu quả, đó là

kinh nghiệm cuả nhiều nước công nghiệp mới (NICs) và ở nước ta cũng đã

được xác nhận. Đó là một chiến lược cơ bản của quá trình công nghiệp hoá,

hiện đại hoá trong những điều kiện của thế giới ngày nay. Chúng ta phải tận

dụng các lợi thế so sánh về lao động và tài nguyên để đẩy mạnh nhịp độ phát

triển của các ngành và sản phẩm công nghiệp xuất khẩu, xem đây là mục tiêu

hàng đầu. Xuất khẩu càng nhiều, kinh tế phát triển càng nhanh, có hiệu quả và

bền vững, đồng thời càng có thêm khả năng thay thế hiệu quả, không mâu

thuẫn với hướng về xuất khẩu.

Ngành Dệt-May Việt Nam là một trong những ngành có khả năng làm

68

Page 69: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

đuợc điều đó. Thực tế những năm qua cho thấy, chiến lược hướng về xuất

khẩu đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt

may không ngừng tăng lên. Nhờ nguồn ngoại tệ thu được, ngành có điều kiện

phát triển tái đầu tư để hiện đại hoá, đẩy mạnh sản xuất.

Song song với xu hướng đẩy mạnh xuất khẩu, cần kết hợp sản xuất các

mặt hàng thay thế nhập khẩu. Thị trường trong nước với số dân đông và sức

mua ngày càng lớn là đối tượng rất quan trọng mà công nghiệp sản xuất hàng

tiêu dùng nói chung và công nghiệp Dệt-May nói riêng phải đáp ứng cho

được các nhu cầu cơ bản, từ những sản phẩm dệt may bình thường, phù hợp

với đa số người dân lao động đến các sản phẩm cao cấp hơn phục vụ những

nhóm người có thu nhập cao. Để làm được điều này, vấn đề quyết định là

phải nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm dệt may trên thị trường trong

nước, thị trường khu vực và thế giới, trên cơ sở nâng cao năng suất, chất

lượng và hiệu qủa.

Trước mắt cần có sự phối hợp giữa các nhà sản xuất, những người làm

công tác nghiên cứu, lựa chọn ra những mặt hàng thích hợp đang được nhập

khẩu nhiều mà năng lực sản xuất và trình độ kỹ thuật, công nghệ của các

doanh nghiệp trong nước có khả năng đáp ứng. Sau đó, các doanh nghiệp

trong nước phối hợp với nhau tập trung vào sản xuất các mặt hàng này.

Hiện tại, các sản phẩm dệt may của ta bị cạnh tranh gay gắt bởi các sản

phẩm nhập khẩu chủ yếu ở giá cả. Mặc dù chất lượng có kém hơn song do

thắng áp đảo về giá nên họ chiếm lĩnh được thị trường rộng lớn ở khu vực

nông thôn.

Đó là điểm yếu quan trọng buộc các nhà sản xuất bằng nhiều cách để tiết

kiệm chi phí, giảm giá thành sản phẩm thì mới có thể cạnh tranh được.

d/ Phát triển công nghiệp Dệt-May phải gắn liền với sự phát triển của

ngành nông nghiệp và các ngành kinh tế khác, đồng thời góp phần đẩy mạnh

quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước

ta.

Trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội từ nay đến năm 2000 và 2010

69

Page 70: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

Đảng ta chỉ rõ, cần phải đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa

nền kinh tế mà trước hết là công nghiệp hóa nông thôn.

Như vậy, đối với tất cả các ngành công nghiệp, đặc biệt là ngành công

nghiệp Dệt-May là ngành sử dụng nhiều nguồn nguyên liệu từ nông nghiệp

như bông, tơ tằm, trong chiến lược phát triển của mình cần xác định được

hướng phát triển là gắn với sự phát triển của ngành nông nghiệp.

Trong suốt quá trình phát triển của mình, ngành công nghiệp Dệt-May Việt

Nam luôn ở trong tình trạng bị động về nguyên liệu. Hầu hết tất cả các loại

nguyên liệu đều phải nhập khẩu. Kể cả bông xơ là loại nguyên liệu mà ta có

thể cung cấp một phần. Tơ tằm tuy không phải nhập khẩu, nhưng nguồn tơ

sản xuất bị hạn chế cả về chất lượng lẫn số lượng nên giá trị xuất khẩu thấp.

Do vậy, muốn từng bước tiến tới sự phát triển ổn định, bền vững, ngành

Dệt-May phải tạo được cho mình một một cơ sở nguyên liệu thích hợp và ổn

định.

Phát triển công nghiệp Dệt-May còn gắn liền với sự phát triển của một loạt

các ngành công nghiệp khác như hoá chất, hoá dầu để tạo ra các dạng nguyên

liệu tổng hợp, nhân tạo, các loại hoá chất, thuốc nhuộm... Công nghiệp cơ khí

chế tạo để sản xuất ra các loại máy móc từ đơn giản đến phức tạp cho ngành.

Ngoài ra còn kéo theo sự phát triển của các ngành sản xuất phụ liệu, bao bì.

Để làm được những vấn đề trên,điều đặc biệt có ý nghĩa quan trọng là phải

xây dựng được hệ thống các qui hoạch phát triển ngành và liên ngành, tạo ra

sự liên kết ngang chặt chẽ giữa ngành công nghiệp Dệt-May với các ngành

công nghiệp khác và nông nghiệp. Các qui hoạch này cần được phối hợp, bảo

đảm tính cân đối, ăn khớp giữa chúng với nhau. Đặc biệt đối với nông nghiệp,

thì phải có qui hoạch từ khâu sản xuất nguyên liệu, sơ chế đến tiêu thụ sản

phẩm.

Làm được như vậy, ta sẽ đáp ứng được yêu cầu phát triển của bản thân

ngành công nghiệp Dệt-May, đồng thời còn góp phần thúc đẩy quá trình công

nghiệp hoá, hiện đại hoá nhiều ngành khác.

70

Page 71: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

1.2. Mục tiêu và định hướng phát triển của Tổng Công ty Dệt-May

Việt Nam.

Ngành công nghiệp dệt may là ngành truyền thống lâu đời của nhân dân ta,

từ trồng bông, nuôi tằm đến ươm tơ dệt vải đã có những làng nghề từ xưa đến

nay. Nhiều mặt hàng dệt may đã có uy tín trên thị trường trong và ngoài nước.

Kinh nghiệm của nhiều nước, thời kỳ đầu phát triển ngành dệt may làm

tiền đề phát triển các ngành kinh tế khác phù hợp với khả năng vốn đầu tư

vừa phải, vòng quay vốn nhanh, giải quyết nhiều lao động, góp phần tăng tích

luỹ. Với nền kinh tế Việt Nam, thời gian trước mắt và vài ba thập kỷ tới đẩy

nhanh phát triển ngành dệt may là đúng hướng và cần thiết.

Nhận thức rõ được vai trò của mình Tổng Công ty dệt-May Việt Nam đang

đặt ra cho mình những mục tiêu phấn đấu lớn như: đảm bảo nhu cầu của hơn

100 triệu dân vào năm 2010 với mức tiêu thụ 3,6 kg vải/ người và nhu cầu an

ninh quốc phòng; phấn đấu đạt mức tăng trưởng bình quân 13% năm, sau năm

2005 có mức tăng trưởng trên mức tiên tiến trong khu vực, tương đương với

Hongkong, Thái Lan hiện nay...

Để thực hiện được những mục tiêu trên Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam

đang từng bước định hướng phát triển trong hoạt động sản xuất kinh doanh

của mình mà đặc biệt là hàng may mặc. Các xí nghiệp may được phân bố

rộng rãi trên các địa phương tại các thị trấn, thị xã, thành phố để phục vụ nhân

dân địa phương, đáp ứng yêu cầu phong tục tập quán địa phương. Các công

trình may xuất khẩu thì trọng tâm vào 3 vùng phát triển ngành Dệt, ưu tiên

thuận tiện giao thông đến các cảng. Đầu tư những năm tới tập trung vào

những mặt hàng cao cấp như: mặt hàng sợi bông 100% cho thị trường Mỹ,

EU...và nội địa; hàng len và giả len cho thị trường EU, Mỹ, Đông âu...

Đầu tư chiều sâu là đầu tư bổ sung để cân đối lại dây chuyền cho đồng bộ,

bổ sung thiết bị lẻ hoặc loại trừ các máy cũ trong dây chuyền đã quá lạc hậu,

cải tạo nâng cấp một số trang bị, đổi mới công nghệ nhằm tăng chất lượng,

mở rộng mặt hàng, khắc phục ô nhiễm môi trường đồng thời tăng sản lượng

giảm chi phí sản xuất.

71

Page 72: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

Thời kỳ 200-2005 là thời kỳ năng cao chất lượng và giá trị sản phẩm,

phong phú mặt hàng, tăng sản lượng, đặc biệt tăng sản lượng vải may cho

xuất khẩu, giảm gia công, tăng hàng may bán đứt (FOB). Mặt khác, Tổng

Công ty cũng lựa chọn, từng bước mở rộng thêm các mặt hàng mà ta có khả

năng vươn lên đỉnh cao và chiếm ưu thế trên thị trường như: vải tơ tằm, tơ

phế, tissulen, vải PE, PE Microfilament, dệt kim tơ tằm, dệt kim cotton OE,

chỉ khâu cotton, PE/Co, bít tất...

Thời kỳ 2005-2010 là giai đoạn đầu tư chiều sâu tổng thể, tập trung đầu tư

phần mềm, trọng tâm là tổ chức theo I S O 9000 nâng cao hiệu quả sản xuất

kinh doanh, mở rộng mặt hàng mới, đa dạng hoá mặt hàng. Chuẩn bị tốt

trước khi hội nhập hoàn toàn vào AFTA và WTO ,tạo cơ hội cho hàng may

mặc của tổng công thuốc thú y có cơ hội đứng vững và phát triển không bị

nước ngoài lấn át.

2. Những thời cơ và thách thức đang đặt ra.

Năm 1998 là năm có nhiều khó khăn, nhưng dự báo năm 1999 vẫn chưa có

dấu hiệu tốt hơn. Cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực đang tiếp tục lan

rộng đến các khu vực khác như Nhật Bản, đặc biệt cuộc khủng hoảng đã làm

cho tính cạnh tranh vốn có trong cơ chế thị trường càng thêm quyết liệt, sức

mua giảm sút, giá gia công và giá bán sản phẩm giảm. Thị trường hàng free

quota trong năm 1999 tiếp tục thu hẹp, trong khi đó khả năng các thị trường

Nga và Mỹ vẫn chưa được khaiong. Thị trường trong nước do thời tiết mưa

bão lanm cho người dân các vùng miền Trung và miền Nam bị thiệt hại nhiều

nên sức mua cũng sẽ giảm sút. Các biện pháp chống hàng nhập lậu, hàng trốn

thuế, hàng giả chưa có dấu hiệu sẽ đạt được kết quả khả quan...

Bên cạnh những thách thức trên Tổng Công ty cũng đang đứng trước nhiều

thời cơ lớn như: Việt Nam đã được trỏ thành thành viên chính thức của các

bnước ASEAN, AFTA... Việt Nam có quyền ký hiệp định song phương đối

với các nước khác trong khu vực, đặc biệt các nước ASSEAN đang có xu

hướng giảm thuế xuất khẩu hàng Dệt-May đối với các nước ASEAN xuống

còn từ 0-5%. Hơn nữa, theo hiệp định hàng dệt (ATC) ký tại vòng đàm phán

thương mại đa biên tháng 4-1994 ở Maraket ghi nhận rằng ATC sẽ thay cho

72

Page 73: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

hiệp định đa sợi (MFA) đến ngày 1-1-2005 tất cả hàng dệt may phải được hoà

nhập trở lại theo nguyên tắc thương mại thông thường của WTO và như vậy

hàng rào hạn ngạch hàng may vào Mỹ sẽ được loại bỏ và thuế trung bình sẽ

giảm 9%. Đây là một thời cơ lơn mà Tổng Công ty Dệt-May cần phải chuẩn

bị đầu tư đón trước thời cơ để có thể đi vào thị trường đầy tiềm năng này.

II. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU VỀ PHÍA TỔNG CÔNG TY DỆT-

MAY VIỆT NAM.

Qua phân tích thực trạng xuất khẩu hàng may mặc ở Tổng Công ty Dệt-

May Việt Nam, đồng thời có tham khảo bài học kinh nghiệm của một số

nước, có thể thấy rằng đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc ở Tông Công ty là

một vấn đề rất quan trọng góp phần thực hiện thành công quá trình công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, và phát triển kinh tế. Phát triển xuất khẩu ở

đây có nghĩa là làm sao để thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng tận

dụng được nhiều nhất các lợi thế so sánh của đất nước, tăng số lượng và chất

lượng từng mặt hàng xuất khẩu nhằm thu ngoại tệ và nâng cao hiệu quả xuất

khẩu.

Xét trên góc độ thương mại, thúc đẩy xuất khẩu là thúc đẩy bán hàng nên

nguyên lý chung là mở rộng thị trường xuất khẩu và thực hiện tốt việc tạo

nguồn hàng, giảm chi phí. Trên cơ sở thực trạng kinh doanh xuất khẩu hàng

may mặc ở Tổng Công ty và cũng theo hướng trên, tôi xin đưa ra một số biện

pháp sau:

1. Đa dạng hoá mặt hàng và thị trường

1.1. Mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hoá.

Trong nền kinh tế hàng hoá, thị trường có ý nghĩa cực kì quan trọng. Đó là

nhân tố quyết định sự phát triển và tồn tại của doanh nghiệp. Mở rộng thị

trường xuất khẩu, khách hàng của hàng xuất khẩu còn làm tăng tính cạnh

tranh của khách hàng, tăng khả năng lựa chọn của doanh nghiệp, từ đó tăng

được hiệu quả của hoạt động xuất khẩu. Bởi vì, mở rộng thị trường, khách

hàng, tức là tăng cầu, mà cầu tăng sẽ kéo theo cung tăng lên và giá cũng tăng

lên.

73

Page 74: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

Theo qui luật của nền sản xuất hàng hoá, không còn tồn tại khái niệm tính

toán áp đặt một nhu cầu để bố trí sản xuất, mà cần nắm bắt được diễn biến

của thị trường đểt phát triển sản xuất theo qui luật khách quan của nó. Phương

châm của Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam là: Hướng ra xuất khẩu và coi

trọng thị trường nội địa-nên phải hoà mình vào thị trường may mặc thế giới và

khu vực để đặt ra mục tiêu chiến lược phát triển và khi hiệp định AFTA có

hiệu lực thì hàng may mặc vẫn đủ sức cạnh tranh ngay tại thị trường trong

nước và có sức vươn lên hơn nữa.

Do đó, phát triển thị trường may mặc thực sự là một yêu cầu cấp thiết hiện

nay cả về mặt lý luận và thực tiễn. Để giải quyết vấn đề này Tổng Công ty

cần thực hiện một số giải pháp sau:

Một là: Uy tín sản phẩm.

Việc tạo được uy tín cho một loại sản phẩm tiêu thụ trên thị trường quốc tế

là cực kỳ khó khăn. Nó bao gồm từ mẫu mã, chủng loại, kiểu cách đến chất

lượng sản phẩm.

Đối với Tổng Công ty Dệt-May, hiện tại việc thực hiện xuất khẩu sản

phẩm được thực hiện dưới hai hình thức: gia công xuất khẩu và mua nguyên

liệu bán sản phẩm. Việc xuất khẩu theo hình thức gia công đã góp phần quan

trọng vào giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, song hiệu quả thấp.

Tuy vậy, ở giai đoạn đầu của sự phát triển, hầu hết các nước đều phải trải qua

hình thức này. Đây cũng là cơ hội để Tổng Công ty tập dượt, làm quen với

cách thức làm ăn trên thị trường quốc tế, từ việc tiếp nhận nguyên phụ liệu gia

công sản xuất đến tiến độ giao hàng ... để tiến đến hình thức xuất khẩu sản

phẩm cao hơn: mua nguyên liệu, bán sản phẩm.

Để đạt được việc xuất khẩu sản phẩm theo hình thức này, Tổng Công ty

cần phải huy động một lực lượng tổng lực từ điều tra nhu cầu thị trường nước

ngoài để tạo ra các mẫu mốt ăn khách, hợp thị hiếu, đến tổ chức sản xuất

đúng với tiến độ tiêu dùng của thị trường mà sản phẩm cần tới. Làm được

điều này, ngoài việc giải quyết lao động như hình thức trên, nó còn gòp phần

thúc đẩy bản thân ngành Dệt (cung cấp các loại vải cho may mặc) và nhiều

74

Page 75: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

ngành công nghiệp khác phát triển. Đồng thời hiệu quả về thu ngoại tệ cũng

tăng lên nhiều.

Hai là: Quan hệ với các nhà phân phối lớn, có uy tín để lợi dụng uy tín của

họ nâng uy tín hàng may mặc Việt Nam, đồng thời đưa hàng xuất khẩu Việt

Nam vào các kênh tiêu thụ hợp lý (trên cơ sở kinh nghiệm từ kiến thức của

nhà phân phối ) qua đó xâm nhập và chiếm lĩnh được thị trường.

Ba là: Đặt những đại diện, các cửa hàng chào bán các sản phẩm may mặc

của Tổng Công ty tại các thị trường lớn ở nước ngoài. Lập kho hàng ở các

cảng lớn để giao nhận hàng kịp thời.

Bốn là: Liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp nước ngoài hoặc Việt

kiều để làm cơ sở đẩy mạnh hàng xuất khẩu may mặc ra thị trường thế giới.

Một điều đáng chú ý ở đây là tiềm năng của Việt kiều và người Việt Nam

định cư ở nước ngoài: có nhiều người là các ông chủ lớn với các doanh

nghiệp sở tại, như ở Nga và một số nước Trung Đông. Đây là một thị trường

không nhỏ cho hàng may mặc của Tổng Công ty.

Năm là: Đẩy mạnh hoạt động mốt, đào tạo đội ngũ tiếp thị, tăng cường các

hoạt động quảng cáo, khuyến mãi, tuyên truyền nhằm bán trước sản phẩm.

Các hoạt động dịch vụ trước, trong và sau khi bán hàng tạo điều kiện thuận

lợi cho người mua nhằm thắng được đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường.

Sớm hoà nhập vào thị trường quốc tế và khu vực bằng đầu tư phát triển và tổ

chức lại hoạt động xuất khẩu hàng may mặc theo cơ chế thị trường, theo hệ

thống quản lý chất lượng quốc tế ISO 9000, bằng tiếp thị, hội thảo, hội trợ,

triển lãm, gia nhập các hiệp hội Dệt-May quốc tế và khu vực, giao lưu với

thời trang thế giới.

Để hỗ trợ đảm bảo cho hoạt động trên đem lại kết quả mong muốn thì

trước tiên doanh nghiệp phải tự bảo đảm được chất lượng, qui cách chủng loại

của sản phẩm, phù hợp với "thượng đế ngoại".

Một thị trường vừa hé mở nhưng rất có triển vọng đối với Tổng Công ty

đó là thị trường Mỹ và đằng sau đó là khối mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA:

Mỹ-Canada-Mehico). Trong ba năm gần đây, kim ngạch xuất khẩu hàng may

75

Page 76: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

mặc của Tổng Công ty sang Mỹ không ngừng tăng lên. Tuy hiện tại giá trị

xuất khẩu có nhỏ hơn EU, song đây là một thị trường rất hấp dẫn nếu biết

khai thác sẽ đem lại hiệu quả cao. Bên cạnh đó, Tổng Công ty cần chú trọng

hơn nữa tới một số thị truờng truyền thống như Nhật Bản, SNG và một số

nước Đông Âu...

Tăng cường tìm kiếm các thị trường không hạn ngạch và có chính sách sản

phẩm đối với từng thị trường. Việc đề ra chính sách sản phẩm đúng đắn đối

với từng thị trường có ý nghĩa hết sức to lớn đối với việc tiêu thụ sản phẩm,

đến chi phí, giá thành và lợi nhuận của Tổng Công ty.

Chính sách sản phẩm đúng đắn sẽ làm tăng khả năng xâm nhập, chiếm

lĩnh thị trường và tăng lợi nhuận của Tổng Công ty.

1.2. Mở rộng năng lực sản xuất hàng xuất khẩu và giảm chi phí.

Dễ thấy rằng việc mở rộng thị trường xuất khẩu sẽ không có ý nghĩa nếu

như không tăng năng lực sản xuất trong nước. Vì theo một nguyên lý trong

kinh doanh thương mại là nếu như khi khách hàng tới mà không có hàng cho

khách thì ta sẽ mất khách vĩnh viễn. Đây là hai mặt của một vấn đề: nếu như

không có đủ hàng hoá để đáp ứng nhu cầu khách hàng thì sẽ không cần và

không thể mở rộng được thị trường xuất khẩu, cho nên mở rộng thị trường

xuất khẩu phải gắn với việc tăng năng lực sản xuất trong nước, còn để xuất

khẩu có hiệu quả thì phải giảm được chi phí của hàng xuất khẩu.

Hơn nữa, sản xuất và xuất khẩu ở nước ta còn mang tính chất manh mún

cho nên phải chấp nhận giá thị trường quốc tế. Trong điều kiện đó, để tăng

kim ngạch xuất khẩu yêu cầu trước tiên là phải tăng được lượng hàng xuất

khẩu, tức là phải tăng năng lực sản xuất, có như vậy Tổng Công ty mới có thể

vươn lên chiếm lĩnh, chi phối một thị trường nào đó.

Tóm lại, tăng năng lực, giảm chi phí sản xuất và xuất khẩu là điều không

thể thiếu được khi muốn mở rộng thị trường, tăng kim ngạch xuất khẩu. Để

làm được điều này, Tổng Công ty cần áp dụng các biện pháp sau:

*. Chuyển từ hình thức gia công xuất khẩu sang hình thức mua nguyên

76

Page 77: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

liệu bán thành phẩm.

Hình thức xuất khẩu này có hiệu quả hơn từ 4-5 lần. Chẳng hạn, tính theo

đơn vị qui chuẩn áo sơ mi thì với 840 triệu sản phẩm xuất khẩu theo hình thức

gia công sẽ thu khoảng 600 triệu USD, còn theo giá bán 3.4 USD/1SP thì kim

ngạch xuất khẩu sẽ là 3 tỷ USD, tức là tăng 5 lần. Chú ý rằng, để chuyển đổi

hình thức này đòi hỏi người quản lý phải am hiểu, tránh tình trạng mua

nguyên liệu lúc đắt bán thành phẩm lúc rẻ.

2. Giải pháp đầu tư hiện đại hoá công nghệ - mẫu mã hàng may.

Thực trạng rõ nét đối với hoạt động xuất khẩu hàng may mặc ở Tổng Công

ty là chủ yếu xuất khẩu dưới hình thức gia công (chiếm 80%). Do vậy, hiệu

quả đem lại không cao. Nguyên nhân chủ yếu là do ngành Dệt ở nước ta chưa

phát triển, công nghệ lạc hậu và không đồng bộ, thiết bị kĩ thuật chậm so với

Trung Quốc, Thái Lan khoảng 5-7 năm, hàng năm sản xuất mới đạt 50-60%

năng lực. Do vậy, chất lượng và số lượng vải trong nuớc kém, không đạt tiêu

chuẩn quốc tế.

Như trên đã phân tích, để nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất khẩu hàng

may mặc, Tổng Công ty cần giảm dần hình thức gia công xuất khẩu và đẩy

mạnh hoạt động xuất khẩu theo phương thức FOB.

Do vậy, giải pháp cần thiết ở đây là phải đầu tư phát triển ngành dệt để

phát triển ngành may, bao gồm cả đâù tư chiều sâu và đầu tư các công trình

mới, nâng cao trình độ công nghệ phát triển sản xuất đồng bộ.

Đầu tư chiều sâu bao gồm cả đầu tư mở rộng là một yêu cầu cấp thiết để

có nhiều mặt hàng thị trường trong và ngoài nước có nhu cầu, mặt hàng đạt

chất lượng cao, giá thành hạ, có vải cho ngành may xuất khẩu theo phương

thức FOB, chiếm lĩnh lại thị trường nội địa và hoà nhập vào thị trường may

ASEAN khi hiệp định AFTA có hiệu lực.

Tổng Công ty cần tăng vốn cho các hoạt động nghiên cứu khoa học và

chuyển giao công nghệ hiện đại, đặc biệt ưu tiên các công nghệ tiên tiến cho

ngành dệt nhằm tăng nhanh các loại vải đủ tiêu chuẩn cho ngành may xuất

77

Page 78: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

khẩu. Đầu tư chiều sâu nhằm khắc phục các mất cân đối, đồng bộ hoá các dây

chuyền thiết bị, bổ sung mới, cải tạo nâng cấp thiết bị cũ, đầu tư công nghệ

mới, đào tạo nâng cao kỹ thuật quản lý tiếp thị, tổ chức lại sản xuất... để tăng

một số mặt hàng chủ lực, có uy tín về nhãn hiệu hàng hoá, có giá cạnh tranh ở

cả thị trường trong và ngoài nước.

Các dự án đầu tư chiều sâu phải có bước đi phù hợp với tình hình kinh tế,

kỹ thuật, với chiến lược phát triển của Tổng Công ty. Dù là bổ sung một máy,

một dây chuyền công nghệ... đều phải đảm bảo đồng bộ với công nghệ phụ

trợ, đào tạo, quản lý ... nhằm phát huy hiệu quả kinh tế sớm nhất. Song tìm

giải pháp để tạo nguồn vốn cho đầu tư phát triển là một vấn đề quan trọng và

cấp thiết, có tính quyết định tới tốc độ phát triển. Ngân sách Nhà nước thì hạn

chế, nhiều công trình hạ tầng y tế và giáo dục Nhà nước phải ưu tiên. Bước

đầu công nghiệp hoá của các nước nghèo Châu Á vẫn phải dựa vào vốn đầu

tư nước ngoài để phát triển. Do vậy, với phương châm thực tế trong hoàn

cảnh Việt Nam hiện nay, Tổng Công ty cần nhanh chóng đưa Công ty tài

chính đi vào hoạt động. Nhiệm vụ của Công ty tài chính là huy động vốn

(phát hành trái phiếu vay từ các nguồn tín dụng trong và ngoài nước ...) để

cho vay (các dự án đầu tư) và thực hiện một số dịch vụ tài chính khác.

Bên cạnh đó, Tổng Công ty cần đầu tư phát triển sản xuất phụ liệu, nguyên

liệu mà trong nuớc có điều kiện. Đây là chất xúc tác để chuyển đổi hình thức

gia công xuất khẩu sang hình thức mua nguyên liệu bán thành phẩm. Vì theo

hình thức mua nguyên liệu bán thành phẩm, Tổng Công ty có thể tận dụng

được những nguyên liệu, phụ liệu sản xuất trong nước, giá cả rẻ hơn làm tăng

thêm lợi nhuận. Đồng thời thu hút thêm lao động, tạo thu nhập góp phần giải

quyết thất nghiệp. Mặt khác, hình thức xuất khẩu này còn vừa tạo đầu ra cho

ngành dệt vừa tạo đầu vào cho ngành may.

Đặc biệt trong lĩnh vực mốt, Tổng Công ty còn có nhiều bỡ ngỡ, chưa có

đủ hiểu biết về yêu cầu thị hiếu của từng thị trường EU, Mỹ, Nhật... nên sớm

đầu tư thích đáng về cơ sở tạo mốt và nâng cao nghiệp vụ tạo mốt, sử dụng

các thiết bị chuyên dùng computer, điện tử trong thiết kế cắt may, có kế hoạch

hợp tác với viện Mốt, hoặc thuê chuyên gia thiết kế mốt người nước ngoài để

rút ngắn quá trình thâm nhập và đẩy nhanh sản phẩm của ta tới các thị trường

78

Page 79: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

rộng lớn đó.

* Nâng cao chất lượng mặt hàng.

Với mục tiêu sản xuất các mặt hàng có chất lượng, mẫu mã phong phú

đẹp, hợp thời trang, hạ giá thành, tăng dần vải dệt cho ngành may xuất khẩu

theo FOB đạt 70% vào năm 2010. Tổng Công ty cần xây dựng được qui chế

quản lý chất lượng mặt hàng, xây dựng các hoạt động bảo đảm chất lượng và

hoạt động quản lý, hoạch định chất lượng.

Ngoài ra, Tổng Công ty cũng cần xây dựng chiến lược nâng cao chất

lượng không ngừng và tăng cường trách nhiệm xét duyệt chính sách về quản

lý chính sách chất lượng. Triển khai xây dựng hệ thống chất lượng ISO 9000

và TMQ. Điều này đòi hỏi công sức trí tuệ, thời gian đầu tư đổi mới mạnh

mẽ, và quyết tâm của lãnh đạo Tổng Công ty mới có thể đạt được.

3. Nâng cao trình độ nghiệp vụ xuất khẩu.sử dụng có hiệu quả nguồn lực.

Thị trường may thế giới phức tạp, nhu cầu về hàng may mặc biến động

theo mùa. Hơn nữa, tập quán thương mại, ngôn ngữ giao dịch với các nước ở

các thị trường khác nhau có sự khác nhau. Do vậy, đòi hỏi người làm công tác

xuất nhập khẩu phải hết sức linh hoạt tinh thông nghiệp vụ ngoại thương, giỏi

ngoại ngữ và phải hiểu biết chuyên môn về ngành may.

Tổng Công ty cần có chiến lược đào tạo lại cả cán bộ quản lý và nhân viên

một cách thường xuyên, có hệ thống về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ,

ngoại ngữ... phải được nâng lên nhanh chóng và tương xứng. Qui mô đào tạo

và loại hình đào tạo cần được mở rộng để đáp ứng các nhu cầu đa dạng của

hoạt đông xuất nhập khẩu. Mặt khác, hàng năm Tổng Công ty nên tổ chức các

đợt học nâng cao bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ xuất nhập khẩu cho nhân

viên. Đây là một mắt xích quan trọng trong công tác đào tạo. Nếu không được

chú ý thích đáng sẽ làm hao mòn vô hình đội ngũ đã được đào tạo. Cần tổ

chức theo các hình thức: theo chuyên đề, chương trình nâng cao, tu nghiệp ở

nước ngoài... theo một chương trình kế hoạch thường niên.

Bên cạnh đó, Tổng Công ty cũng cần có những khuyến khích về mặt lợi

79

Page 80: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

ích thoả đáng cho người theo học các chương trình trên, để họ yên tâm, dốc

lòng, dốc sức cho công việc. Qua đó, giúp cho họ hiểu rõ, nắm chắc, sâu sắc

các nghiệp vụ xuất nhập khẩu khơi dậy tính tích cực sáng tạo của mỗi cán bộ

công nhân viên. Đây thực sự là cách đầu tư lâu dài tạo ra động lực mạnh thúc

đẩy mạnh mẽ hoạt động xuất khẩu của Tổng Công ty.

4. Giải pháp về hợp tác quốc tế.

Hoà nhập với khu vực và quốc tế là một nhu cầu khách quan, là lợi ích

sống còn của Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam, buộc Tổng Công ty phải tự

thân phát triển, nâng cao vươn cao lên tương xứng, đồng thời sự hội nhập còn

tạo sự hiểu biết lẫn nhau và tạo cơ hội thu hút vốn đầu tư cao hơn.

Với đường lối mở cửa và hoà nhập vào thị trường thế giới nói chung và

các nước khu vực nói riêng, cùng với sự chuyển dịch công nghệ đang sôi

động, Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam cần nhanh chóng đẩy mạnh công tác

đầu tư, tự tổ chức lại sản xuất cho phù hợp những yêu cầu của cơ chế thị

trường, phù hợp với tiêu chuẩn chất lượng quốc tế ISO 9000 va nhãn hiệu

hàng hoá CE. Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam, hiện đã là hội viên chính

thức của hiệp hội Dệt-May Đông Nam Á (AFTEX) cần nhanh chóng gia nhập

vào hiệp hội Dệt-May thế giới, trực tiếp tham gia vào quá trình phân công

hợp tác chung về lĩnh vực lao động, mậu dịch và các chính sách bảo hộ quốc

tế và khu vực, tham gia các hoạt động quốc tế về mẫu mốt thời trang, về hội

thảo, triển lãm, tiếp thị... nhằm không ngừng mở rộng uy tín của mình trên thị

trường quốc tế.

Mặt khác, xu hướng thế giới đang chuyển biến mạnh mẽ với ba làn sóng tự

do hoá, tư nhân hoá và phi tập trung hoá. Tổng Công ty cũng cần nắm bắt

được vận hội thời cơ để có thể có sự chuyển mình theo trào lưu chung.

III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CHÍNH PHỦ .

1. Phát triển quan hệ chính trị làm tiền đề phát triển kinh tế.

Quan hệ chính trị và quan hệ kinh tế là hai mặt gắn bó hữu cơ với nhau.

Chúng vừa là tiền đề vừa là điều kiện phát triển của nhau. Quan hệ chính trị

mở đường cho quan hệ kinh tế phát triển, ngược lại quan hệ kinh tế làm cho

80

Page 81: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

quan hệ chính trị trở nên gắn bó chặt chẽ hơn.

Tác động của quan hệ chính trị lên quan hệ kinh tế thể hiện trên các mặt:

- Quan hệ chính trị tốt tạo đà cho việc hợp tác, tương trợ lẫn

nhau về đầu tư, viện trợ, chuyển giao công nghệ.

- Quan hệ chính trị là tiền đề cho Nhà nước kí kết các hiệp định

về thương mại, về thông tin, về đầu tư, về cấp phát hạn ngạch (quota).

- Quan hệ chính trị là cơ sở pháp lý đảm bảo cho các doanh

nghiệp hai bên tiến hành làm ăn với nhau. Tạo điều kiện thuận lợi trong

việc thanh toán, giải quyết thông tin tranh chấp.

- Quan hệ chính trị làm tăng lợi thế cạnh tranh của các doanh

nghiệp trong nước.

Như vậy, về mặt mở rộng thị trường, quan hệ chính trị tốt sẽ tạo được thị

trường ổn định, thị trường mới cho phát triển sản xuất và xuất khẩu. Điển

hình là việc Mỹ xoá bỏ cấm vận đối với Việt Nam tháng 2/1994 thì ngay sau

đó, các quan hệ kinh tế đối ngoại Việt nam sôi động hẳn lên. Nhiều hãng,

Công ty... tìm kiếm cơ hội kinh doanh ở Việt Nam, trong đó có Công ty Mỹ

sang Việt Nam, kí một hợp đồng đáng ghi nhớ với Confechnex trị giá 350

triệu USD ( kinh tế đối ngoại - Võ Thanh Thu - tr 306).

Quan hệ thương mại như chúng ta đều biết, chỉ là một bộ phận của kinh tế

đối ngoại. Song nó là một trong các bộ phận thu ngoại tệ về cho đất nước. Đối

với các nước mới ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, vốn là yêu

cầu đầu tiên và tất yếu. Do vậy, thông qua hoạt động ngoại thương, nhiều

nước đã tham gia được vào sự phân công lao đông quốc tế trên phạm vi toàn

cầu và trong khu vực. Và chính sự tham gia đó đã bảo đảm cho sự phát triển

cân đối của nền kinh tế quốc dân và thu được ngoại tệ về cho đất nước.

Sự phát triển ngoại thương của ngành Dệt-May cũng không thoát khỏi ảnh

hưởng của quan hệ chính trị .

Từ sự phân tích trên, các chính sách cần có là:

+ Nhà nước tích cực tham gia vào các diễn đàn quốc tế và khu

81

Page 82: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

vực để Việt Nam nhanh chóng trở thành thành viên WTO.

+ Quan hệ tốt với các thị trường lớn như EU, Bắc Mỹ, tạo được

khuôn khổ pháp lý tốt với các thị trường này để sản xuất hàng may mặc

được hưởng các ưu đãi đặc biệt như hạn ngạch, tối huệ quốc... và có

điều kiện xuất khẩu với số lượng lớn vào các thị trường này.

+ Thực hiện nghiêm túc các công ước quốc tế về bảo hộ quyền sở

hữu trí tuệ về công nghiệp để các sản phẩm có chất lượng cao của Việt

Nam giữ được uy tín trên thị trường.

+ Có qui chế phù hợp (bao gồm cả trách nhiệm và quyền lợi) về

hoạt động của các nhân viên thương vụ của các đại sứ quán Việt Nam ở

các nước, trong viẹc cung cấp các thông tin về lĩnh vực may mặc và giúp

Tổng Công ty mở rộng thị trường ở các khu vực này. Điều này sẽ tiết

kiệm cho Tổng Công ty những chi phí về thu thập thông tin, những chi

phí không cần thiết khác do chưa hiểu kĩ thị trường, qui định, giảm rủi

ro cho Tổng Công ty ...Suy cho cùng, đây là một hình thức trợ giúp xuất

khẩu, khuyến khích bảo đảm cho hoạt động xuất khẩu, mặt khác các cơ

quan thương vụ này cũng đóng vai trò là điểm tựa cho hàng xuất khẩu

Việt Nam xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường.

2. Chính sách đầu tư phát triển.

Nhà nước cần đẩy mạnh hơn nữa các hình thức đầu tư trực tiếp của nước

ngoài vào ngành Dệt-May. Đối với ngành Dệt là ngành đòi hỏi vốn đầu tư

lớn, đặc biệt là các công trình nhuộm, hoàn tất. Vì vậy cần chú trọng khuyến

khích gọi vốn đầu tư nước ngoài cho những công trình này. Có những ưu đãi

đặc biệt cho những công trình nước ngoài đầu tư 100%.

Ngược lại đối với ngành May và ngành sản xuất các loại phụ liệu, vốn đầu

tư không lớn, cần chú trọng hình thức liên doanh, hạn chế xí nghiệp 100%

vốn nước ngoài.

Từ khi có luật đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, tính đến tháng 12/1996 đã

có 58 dự án Dệt-May được cấp giấy phép hoạt động, với số vốn gần một tỷ

USD. Để có được 1,5 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài vào ngành Dệt-May vào

năm 2000, trong vòng 10 năm tới Nhà nước cần bổ sung điều chỉnh luật đầu

82

Page 83: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

tư nước ngoài cho phù hợp với tình hình mới, cải cách điều chỉnh nhằm đơn

giản hoá các thủ tục xin giấy phép đầu tư, có các điều kiện ưu đãi đối với các

công trình đầu tư vào ngành dệt.

3. Chính sách ưu đãi về xuất khẩu.

Nhà nước cần có các chính sách tạo điều kiện cho Tổng Công ty đủ sức

cạnh tranh trong bối cảnh của sự toàn cầu hoá:

- Cho tiếp tục áp dụng thuế suất hàng dệt may bằng 0% để thúc

đẩy hoạt động xuất khẩu hàng may mặc.

- Với mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu trên cơ sở khai thác, phát huy

hiệu quả, nội lực của đất nước, Bộ tài chính cần xem xét lại mức thuế

nhập khẩu của các mặt hàng trong nước đã bắt đầu sản xuất được, trong

đó có sợi, vải để đảm bảo sản xuất ttrong nước tránh tình trạng giá

thành sản xuất của sản phẩm lại lớn hơn giá nhập khẩu, làm giảm sức

cạnh tranh của hàng hoá ta trên thị trường nước ngoài. Nhà nước cần

miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu sản xuất các chủng loại sản phẩm

(mặt hàng dệt, phụ liệu may...) thay thế nhập khẩu để làm hàng phục vụ

xuất khẩu, tạo điều kiện cho Tổng Công ty có thể bán ngang hoặc thấp

hơn giá nhập sản phẩm cùng chủng loại và tạo cho hàng may mặc xuất

khẩu được theo phương thức FOB.

- Bên cạnh đó, Nhà nước có thể áp dụng một số biện pháp khác

như cấp tín dụng xuất khẩu, trợ cấp xuất khẩu.... nhằm giúp Tổng Công

ty giảm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh, tăng thu nhập, lợi nhuận đẩy

mạnh được hoạt động xuất khẩu. Thực tế mấy năm qua, Nhà nước vẫn

chưa thực sự chú trọng tới hoạt động hàng may mặc. Một thực trạng

trong ngành may xuất khẩu đó là: dù biết rằng gia công may không hiệu

quả bằng hình thức mua nguyên liệu bán thành phẩm, Tổng Công ty phải

vay vốn mua nguyên liệu đầu vào, rồi sau một chu kì sản xuất (3-4

tháng) mới bán sản phẩm thu tiền lãi trả ngân hàng. Do không có ưu

đãi về lãi suất nên sau khi trừ đi chi phí sản xuất và lãi ngân hàng, hiệu

quả thu được không cao hơn hình thức gia công là bao nhiêu, lại chịu

nhiều rủi ro. Trong khi đó, hình thức gia công tuy hiệu quả thấp nhưng

83

Page 84: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

chắc chắn. Như vậy Nhà nước và xã hội bị thiệt vì đơn cử một ví dụ là:

theo hình thức gia công thì giá gia công một áo sơ mi khoảng 0,7-0,8

USD, gấp gần 5 lần. Do vậy, đòi hỏi Nhà nước phải nhanh chóng áp

dụng một cách hợp lý các biện pháp trên để khuyến khích hoạt động xuất

khẩu hàng may mặc đem lại hiệu quả cao.

4. Chính sách về vốn.

Nhà nước cần bảo đảm cấp vốn đầu tư ban đầu và vốn lưu động cho các

doanh nghiệp của ngành dệt may một cách hợp lý. Có cơ chế vay và bảo lãnh

vốn vay một cách hợp lý.

Cho ngành dệt được sử dụng hoặc vay vốn ODA, vốn tín dụng của

Chính phủ với lãi suất ưu đãi (khoảng 5%), thời gian vay dài (trên 10 năm đối

với ngành dệt và 7 năm đối với ngành may).

Miễn các loại thuế doanh thu, lợi tức cho các công trình đầu tư ngành dệt

may trong thời gian chưa trả nợ xong.

Ngoài ra, Nhà nước cần có các biện pháp hỗ trợ cùng với Tổng Công ty

đưa Công ty Tài chính dệt may sớm đi vào hoạt động để huy động vốn từ các

nguồn vay trong nước, ngoài nước, trái phiếu, cổ phiếu... nhằm cho vay đầu

tư phát triển.

5. Chính sách tỷ giá hối đoái.

Chính sách tỷ giá hối đoái hiện nay được sử dụng như một công cụ lợi hại

trong cuộc chiến tranh thương mại gay gắt giữa các nước công nghiệp phát

triển và là một trong những công cụ khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập

khẩu, bảo hộ mậu dịch của các nước đang phát triển.

Đối với Việt Nam trong bối cảnh nền kinh tế thế giới không ngừng phát

triển và thị trường tiền tệ thế giới đầy biến động thì việc lựa chọn một chính

sách tỷ giá hối đoái hợp lý đảm bảo sự ổn định trong nền kinh tế đối nội và

tăng trưởng trong kinh tế đối ngoại là hết sức cần thiết.

Đối với ngành Dệt-May, việc điều hành tỷ giá ngoại tệ có ý nghĩa đặc biệt

quan trọng. Nhà nước cần áp dụng tỷ giá hối đoái hợp lý để đảm bảo xuất

84

Page 85: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

khẩu có lãi và khuyến khích xuất khẩu. Tất nhiên tỷ giá đó không được thoát

ly quá nhiều so với tương quan cung cầu về ngoại tệ. Đồng thời Nhà nước

phải luôn chú trọng đầy đủ các yếu tố kích thích xuất khẩu khi ấn định tỷ giá.

Đây là những quyết định chủ quan nhưng rất cần thiết vì không đẩy mạnh

được xuất khẩu để tạo nguồn ngoại tệ tự có, chúng ta sẽ không đủ ngoại tệ để

cân đối cán cân thanh toán quốc tế.

6. Tổ chức và quản lý các khâu nghiệp vụ xuất khẩu.

Tổ chức và quản lý hợp lý các khâu thuộc nghiệp vụ xuất khẩu như cấp

giấy phép, phân bổ quota, thủ tục hải quan... cũng có tác dụng thúc đẩy hoạt

động xuất khẩu nói chung và xuất khẩu hàng may mặc nói rỉêng. Thực tế việc

phân bổ hạn ngạch trong xuất khẩu hàng may mặc không hợp lý, thủ tục hải

quan còn nhiều phức tạp... làm hạn chế khả năng xuất khẩu mặt hàng này.

Để giải quyết vấn đề này, Nhà nước cần sớm ban hành luật hải quan cho

phù hợp với quá trình phát triển của nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Các

ngành hữu quan nghiên cứu để ban hành biểu phân loại mã số hàng xuất khẩu

(biểu mã số HS) phù hợp với tiến trình đổi mới nền kinh tế đất nước trong xu

thế hợp tác và hội nhập vào cộng đồng quốc tế. Nên có sự thống nhất từ cơ

quan quản lý trong việc ghi mã số HS trước tên hàng trong các hồ sơ chứng từ

có liên quan để tạo ra một sự đồng nhất trong việc xác định loại hàng hoá làm

cơ sở cho việc khai báo, tính và nộp thuế, việc quản lý gia công cho nước

ngoài...

Về quản lý xuất khẩu tiểu ngạch: Đánh thuế, phí xuất khẩu tiểu ngạch sao

cho giá xuất khẩu tiểu ngạch tương đương với giá xuất khẩu chính ngạch vừa

quản lý chặt chẽ được xuất khẩu tiểu ngạch, vừa tăng thu cho ngân sách Nhà

nước.

Thực hiện các vấn đề trên sẽ giúp cho Tổng Công ty chủ động trong giao

dịch, kinh doanh xuất khẩu, tạo thế cạnh tranh công bằng và đẩy mạnh được

hoạt động kinh doanh xuất khẩu, đưa kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc lên

vị trí hàng đầu, tăng thu ngoại tệ cho đất nước. Giữ vững và phát huy truyền

thống của Tổng Công ty trong những năm qua.

85

Page 86: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

86

Page 87: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

KẾT LUẬN

Chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá hướng mạnh vào xuất khẩu là

một chiến lược đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, tạo đà cho nền kinh tế

phát triển và đuổi kịp thời đại. Trong đó xuất khẩu hàng mũi nhọn là một

bước đi tiên phong, khai thác triệt để lợi thế của đất nước. Đồng thời việc

hướng ra thị trường nước ngoài, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu trên cơ sở

khai thác lợi thế so sánh, vừa xuất phát từ yêu cầu phát triển nội tại của nước

ta, vừa có thể nhận được sự “hưởng ứng và ủng hộ” của các nước phát triển

trong khuôn khổ không ảnh hưởng tới sự phát triển của các ngành kinh tế ở

các nước này.

Căn cứ vào tiềm năng về điều kiện tự nhiên, xã hội, dân số, truyền thống

dân tộc Việt Nam, trong văn kiện đại hội VIII của Đảng ta đã xác định hướng

chú trọng phát triển một số ngành, trong đó có công nghiệp sản xuất hàng dệt

may. Với những đặc điểm kinh tế-kỹ thuật riêng có của ngành, công nghiệp

dệt may được đánh giá là ngành có nhiều ưu điểm để sản xuất và xuất khẩu,

rất phù hợp với điều kiện sẵn có của nước ta hiện nay.

Tuy nhiên, trong bối cảnh chung tình hình thế giới hiện nay, bên cạnh

những thuận lợi nhất định việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc cũng gặp

phải nhiều khó khăn thách thức cả ở trong và ngoài nước. Chẳng hạn như

trình độ sản xuất thấp kém nên hàng hoá khó đáp ứng được yêu cầu của thị

trường quốc tế, khả năng và trình độ tiếp thị quốc tế kém cỏi, thiếu kỹ năng và

kinh nghiệm trong thực hiện hoạt động thương mại quốc tế, sự cạnh tranh

giữa các nước đang phát triển về cùng một mặt hàng trên cùng một thị

trường...

Do đó, để có thể đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc ở Tổng Công ty Dệt-

May Việt Nam không chỉ đòi hỏi sự nỗ lực cố gắng của Tổng Công ty trong

việc tìm hướng đi, biện pháp phù hợp mà còn cần phải có sự tác động tích cực

của các cơ quan quản lý Nhà nước. Thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng may

mặc ngày càng phát triển, tăng nhanh kim ngạch và ngoại tệ cho đất nước,

87

Page 88: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

củng cố uy tín và vị thế của Tổng Công ty không chỉ ở thị trường trong nước

mà trên toàn thế giới.

Với trình độ và thời gian nhất định, bài viết chắc chắn không tránh khỏi

những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến để đề tài được

hoàn thiện hơn nữa./.

Hà Nội, 30/5/1998.

88

Page 89: Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (16).doc

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Thương mại quốc tế

(PGS. PTS Nguyễn Duy Bột)

2. Giáo trình nghiệp vụ quản trị kinh doanh thương mại quốc tế

(PGS. PTS Trần Chí Thành)

3. Cẩm nang thương mại dịch vụ

(PTS Đặng Đình Đào - Hoàng Minh Đường)

4. Kinh tế đối ngoại Việt Nam-Nội dung-Giải pháp-Hiệu quả.

(NXB Thống kê-1993 )

5. Mưu lược cạnh tranh thương mại

(NXB TP Hồ Chí Minh)

6. Hỏi đáp về kỹ thuật thực hành kinh doanh xuất nhập khẩu.

(PTS. Võ Thanh Thư - NXB TP Hồ Chí Minh)

7. Tìm hiểu những quy định về hoạt động xuất nhập khẩu

(NXB TP Hồ Chí Minh)

8. Tự do hóa thương mại, những xu hướng và chính sách

(NXB Thống kê 1995)

9. Hướng phát triển thị trường xuất nhập khẩu 1996-2000

(NXB Thống kê. 1995)

10. Cạnh tranh bằng giảm phí tổn thương mại

(NXB Thống kê. 1995)

11.Basic Marketing - J. Mc Carthy

12. Thương mại dịch vụ trong sư nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá

(NXB Thống kê. 1997)

13. Hiệu quả kinh doanh trong nền kinh tế thị trường

(NXB Thống kê. 1995)

14. Niên giám thống kê 1995,1997

15. Một số tạp chí thương mại; Thời báo kinh tế; Tạp chí Dệt may Việt Nam

89