44
http://luanvan.forumvi.com email: [email protected] LỜI MỞ ĐẦU Hoa kỳ là một thị trường lớn, đa dạng và phức tạp, sau 10 năm bình thường hoá quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, thị trường này đã phát triển rất nhanh. Chuyến thăm lịch sử của Thủ tướng Phan Văn Khải không chỉ điểm lại sự phát triển quan hệ hợp tác trong 10 năm bình thường hoá quan hệ giữa hai nước mà mục đích chính là tìm kiếm các giải pháp, xác định phương hướng để đưa quan hệ 2 nước bước lên một tầm cao mới. Điều này được cụ thể hoá thông qua hàng loạt các cuộc tiếp xúc cấp cao của Thủ tướng Phan Văn Khải với Tổng thống Bush, Thượng viện, Hạ viện Hoa Kỳ, giới doanh nghiệp, giới truyền thông và các tầng lớp xã hội. Các cuộc gặp cấp cao là để thế giới, nước Mỹ và người Mỹ hiểu đúng đắn hơn, về đất nước Việt Nam, con người Việt Nam. Thành công của chuyến thăm còn là sự xác nhận mối quan hệ giữa hai nước là đối tác tin cậy - hợp tác về nhiều mặt - ổn định lâu dài trên nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau. Đây là tiền đề để hai nước thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ về nhiều mặt trong đó có quan hệ thương mại. Quan hệ kinh tế thương mại hai nước sau 10 năm bình thường hoá đã phát triển rất nhanh về nhiều lĩnh vực thể hiện sự nghiệp đổi mới kinh tế của ta và hội nhập sâu sắc vào thương mại thế giới, góp phần thúc đẩy quá trình đàm phán gia nhập W.T.O của Việt Nam. Để tạo điều kiện phát triển hơn nữa một số mặt hàng xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ, em xin đi sâu nghiên cứu đề tài: "Thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ khi Việt Nam chưa gia nhập W.T.O và còn áp dụng hạn ngạch (quota)". Nội dung của đề tài được chia làm 3 chương: Chương 1: Thị trường Hoa Kỳ và cơ hội xuất khẩu của Việt Nam Chương 2: Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ Chương 3: Một số ý kiến đề xuất để đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ. Dệt may là mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch lớn vào thị trường Hoa Kỳ, là mặt hàng có nhiều tiềm năng nhưng đang bị cạnh tranh gay gắt. Em hy SV : Vũ ThThanh Tâm

Luan van tot nghiep quan tri kinh doanh quoc te (63).doc

Embed Size (px)

Citation preview

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

LỜI MỞ ĐẦU

Hoa kỳ là một thị trường lớn, đa dạng và phức tạp, sau 10 năm bình

thường hoá quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, thị trường này đã phát triển rất nhanh.

Chuyến thăm lịch sử của Thủ tướng Phan Văn Khải không chỉ điểm lại

sự phát triển quan hệ hợp tác trong 10 năm bình thường hoá quan hệ giữa hai

nước mà mục đích chính là tìm kiếm các giải pháp, xác định phương hướng

để đưa quan hệ 2 nước bước lên một tầm cao mới. Điều này được cụ thể hoá

thông qua hàng loạt các cuộc tiếp xúc cấp cao của Thủ tướng Phan Văn Khải

với Tổng thống Bush, Thượng viện, Hạ viện Hoa Kỳ, giới doanh nghiệp, giới

truyền thông và các tầng lớp xã hội. Các cuộc gặp cấp cao là để thế giới, nước

Mỹ và người Mỹ hiểu đúng đắn hơn, về đất nước Việt Nam, con người Việt

Nam.

Thành công của chuyến thăm còn là sự xác nhận mối quan hệ giữa hai

nước là đối tác tin cậy - hợp tác về nhiều mặt - ổn định lâu dài trên nguyên tắc

tôn trọng lẫn nhau. Đây là tiền đề để hai nước thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ về

nhiều mặt trong đó có quan hệ thương mại. Quan hệ kinh tế thương mại hai

nước sau 10 năm bình thường hoá đã phát triển rất nhanh về nhiều lĩnh vực

thể hiện sự nghiệp đổi mới kinh tế của ta và hội nhập sâu sắc vào thương mại

thế giới, góp phần thúc đẩy quá trình đàm phán gia nhập W.T.O của Việt

Nam. Để tạo điều kiện phát triển hơn nữa một số mặt hàng xuất khẩu sang thị

trường Hoa Kỳ, em xin đi sâu nghiên cứu đề tài: "Thúc đẩy xuất khẩu hàng

dệt may vào thị trường Hoa Kỳ khi Việt Nam chưa gia nhập W.T.O và còn

áp dụng hạn ngạch (quota)".

Nội dung của đề tài được chia làm 3 chương:

Chương 1: Thị trường Hoa Kỳ và cơ hội xuất khẩu của Việt Nam

Chương 2: Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường

Hoa Kỳ

Chương 3: Một số ý kiến đề xuất để đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may

vào thị trường Hoa Kỳ.

Dệt may là mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch lớn vào thị trường Hoa

Kỳ, là mặt hàng có nhiều tiềm năng nhưng đang bị cạnh tranh gay gắt. Em hy

SV : Vũ Thị Thanh Tâm

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

vọng rằng đề tài sẽ góp phần quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu

vào thị trường Hoa Kỳ.

SV : Vũ Thị Thanh Tâm

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

CHƯƠNG 1

THỊ TRƯỜNG HOA KỲ VÀ CƠ HỘI XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM

1. Đánh giá thị trường Hoa Kỳ và phân tích tiềm năng rộng lớn của thị

trường Hoa Kỳ đối với sản phẩm chế tạo từ các nước đang phát triển nói

chung và sản phẩm dệt may Việt Nam nói riêng

Hoa Kỳ là một cường quốc hàng đầu thế giới cả về kinh tế, khoa học

công nghệ, có tài nguyên rất phong phú. Hiện nay với dân số khoảng trên 293

triệu người, trong đó 75% sống ở thành thị, tổng sản phẩm quốc nội trên

10.000 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người hàng năm là 36.000 USD hàng

năm Hoa Kỳ nhập khẩu trên 1.300 tỷ USD, chiếm khoảng 1/5 tổng kim

ngạch nhập khẩu trên toàn thế giới. Việc thâm nhập thị trường Hoa Kỳ - một

thị trường rộng lớn nhất thế giới với mức thu nhập cao và nhu cầu tiêu dùng

đa dạng về nhiều chủng loại hàng hoá với khối lượng lớn - thị trường tiêu thụ

hàng hoá của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng như bất cứ quốc gia nào trên thế

giới. Đúng như lời nhận xét về thị trường Hoa Kỳ, Đại Sứ - Trưởng phái đoàn

Việt Nam tại Liên Hợp Quốc đã nói: "…đây là thị trường không đáy….". Khi

nghiên cứu về thị trường này có thể khái quát những đặc điểm nổi bật như

sau:

Thứ nhất, tính mở cửa khá cao của thị trường:

Điều này được thể hiện ở chỗ quy chế xuất - nhập khẩu vào thị trường

Hoa Kỳ phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của tổ chức Thương mại thế

giới (W.T.O). Hoa Kỳ là nước nhập khẩu lớn các mặt hàng có hàm lượng lao

động cao như dệt may, giầy dép, đồ dùng gia đình…. , trong đó có những mặt

hàng tiêu dùng thông thường hầu như Hoa Kỳ không còn sản xuất nữa. Hoa

Kỳ phải nhập các mặt hàng này từ các nước Châu Á, đặc biệt là Trung Quốc,

Nhật Bản, Hàn Quốc. Các sản phẩm chế tạo, có hàm lượng vốn và công nghệ

cao được nhập từ Châu Âu và Nhật Bản. Ngoài ra Hoa Kỳ cũng nhập khẩu

SV : Vũ Thị Thanh Tâm

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

hàng hoá từ rất nhiều nước ở các Châu lục khác. Điều này cũng tạo điều kiện

cho các doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn có thể tìm thấy chỗ đứng tại thị

trường Hoa Kỳ.

Thứ hai, tính quy chuẩn và thống nhất cao độ của sản phẩm đưa vào

thị trường Hoa Kỳ.

Hàng hoá xuất khẩu vào Hoa Kỳ đòi hỏi thực hiện nghiêm túc và chặt

chẽ, nhất là đảm bảo các yêu cầu chất lượng một cách nghiêm ngặt và đồng

bộ. Các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ luôn có ấn tượng và đòi hỏi có uy tín phải

được đặt lên hàng đầu từ khi bắt đầu có mối quan hệ hợp tác. Hàng hoá nhập

khẩu vào Hoa Kỳ thường phải có khối lượng lớn, đúng quy chuẩn, đảm bảo

đúng thời hạn, và không phương hại lợi ích kinh tế của các Công ty Hoa Kỳ.

Từ đó cho thấy chỉ nên lựa chọn và tập trung đầu tư vào một số mặt hàng và

ngành hàng xuất khẩu chủ lực, không dàn trải. (Ngay cả mặt hàng thủ công

mỹ nghệ cũng cần đảm bảo tính thống nhất và có khối lượng đủ lớn).

Thứ ba, tính pháp lý cao của các quan hệ thị trường.

Môi trường pháp lý của Hoa Kỳ là hết sức phức tạp, nhiều khi có sự

khác biệt giữa luật của Liên Bang, Bang và còn cả những quy định riêng biệt

của chính quyền địa phương. Hệ thống pháp luật liên quan đến bảo vệ quyền

lợi người tiêu dùng ở Hoa Kỳ được thực thi khá tốt vì thế hàng hoá bán ra ở

đây phải được bảo hành tốt và an toàn trong thời gian cam kết để tạo uy tín và

niềm tin. Do đó việc hiểu biết các vấn đề pháp lý liên quan là điều kiện mấu

chốt khi xâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ và việc sử dụng các Công ty tư vấn

nói chung trong đó có Công ty tư vấn Hoa Kỳ là điều cần chú trọng.

Thứ tư, tính thống nhất, ổn định cao của hệ thống phân phối.

Hệ thống phân phối hàng hoá ở Hoa Kỳ phát triển ở trình độ cao, có tổ

chức hoàn chỉnh, nếu không dựa vào các hệ thống phân phối hiện có thì

không thể đưa hàng hoá vào thị trường này (không có buôn bán tiểu ngạch

hoặc buôn bán đường biên như có thể thấy trong một số trường hợp khác).

Người dân Mỹ có thói quen mua sắm tại các siêu thị hay cửa hàng lớn. Hệ

SV : Vũ Thị Thanh Tâm

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

thống phân phối này vừa là cơ hội, vừa là thách thức lớn cho các doanh

nghiệp Việt Nam khi thâm nhập thị trường Hoa Kỳ. Nếu chưa tham gia vào

các kênh phân phối lớn thì không những không phát triển được thị trường mà

còn cản trở đến thị phần tiêu thụ và gặp những vướng mắc vào hệ thống luật

pháp của Mỹ. Muốn đi đúng kênh các doanh nghiệp Việt Nam cần phải lựa

chọn được nhà phân phối có uy tín và đảm bảo được số lượng và quy cách

hàng hoá đúng với thị hiếu và yêu cầu của khách hàng Mỹ.

Thứ năm, thị trường có sức cạnh tranh rất cao.

Hoa Kỳ là nước nhập khẩu lớn nhất thế giới, trên thị trường Hoa Kỳ có

đầy đủ các nhà cung cấp lớn nhỏ ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, vì thế

mức độ cạnh tranh là vô cùng gay gắt. Trong cuộc cạnh tranh này, giá cả và

chất lượng là hai yếu tố cơ bản, nhưng không thể không tính đến những yếu tố

khác như bao bì, mẫu mã, xuất xứ, nhãn hiệu sản phẩm…. Đối với doanh

nghiệp Việt Nam thì đây là những vấn đề còn mới mẻ. Theo các luật sư Mỹ,

vụ kiện cá ba sa đối Việt Nam nặng về khía cạnh chính trị và là điều khó

tránh khỏi. Đây là bài học đắt giá cho các doanh nghiệp Việt Nam và sẽ còn

có nhiều vụ kiện khác có thể xảy ra nữa trong quá trình buôn bán với thị

trường Hoa Kỳ.

Thứ sáu, các hiệp hội kinh doanh có vai trò không nhỏ.

Ở Hoa Kỳ có rất nhiều hiệp hội của các nhà kinh doanh, các hiệp hội

này có vai trò lớn trong việc hướng dẫn và phối hợp hoạt động của các doanh

nghiệp với lợi ích cộng đồng doanh nghiệp tại Hoa Kỳ, trong đó có doanh

nghiệp vừa và nhỏ. Điều đó cho thấy rằng việc thiết lập quan hệ với các hiệp

hội kinh doanh ở Hoa Kỳ là con đường hữu hiệu để tiếp cận và xâm nhập thị

trường Hoa Kỳ, thúc đẩy hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp hoạt động tại

Việt Nam .

Thứ bảy, lực lượng người Việt Nam ở nước ngoài tại Hoa Kỳ có vai

trò quan trọng trong việc xúc tiến thương mại và đầu tư tại Hoa Kỳ.

SV : Vũ Thị Thanh Tâm

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

Lực lượng người Việt tại Hoa Kỳ rất đông lên đến 1,3 triệu người có

khả năng hòa nhập với dân cư sở tại, nhưng tính cộng đồng chưa cao. Vai trò

cầu nối của người Việt là hết sức quan trọng nhưng trong thực tế còn cần

được rèn luyện và thử thách. Phong cách làm việc và phương thức hợp tác

giữa họ với doanh nghiệp trong nước còn nhiều điều phải được rút kinh

nghiệm. Tiềm năng lực lượng sinh viên Việt Nam đang du học tại Hoa Kỳ

chưa được quan tâm đúng mức, tính cộng đồng Việt Nam rất yếu nên khả

năng thực hiện công tác xúc tiến và đầu tư bị hạn chế. Bởi vậy một mặt phải

thận trọng tránh vội vàng khi tiếp xúc với các doanh nghiệp Hoa Kỳ. Giai

đoạn đầu cần có sự môi giới của Việt kiều. Mặt khác phải tìm và lựa chọn

được khách hàng tin cậy, thu hút nhiều doanh nghiệp có uy tín vào kinh

doanh và đầu tư ở Việt Nam.

Thứ tám, chi phí dịch vụ trong cơ cấu giá thành sản phẩm chiếm tỷ

trọng cao.

Hàng hoá đưa vào bán lẻ tại Hoa Kỳ khá cao bởi chi phí dịch vụ lớn

làm hạn chế cơ hội thâm nhập của các doanh nghiệp Việt Nam khi vào thị

trường Hoa Kỳ.

Thứ chín, hệ thống tư vấn tại Hoa Kỳ giữ vai trò quan trọng đặc biệt

là tư vấn pháp luật.

Đây là đòi hỏi khách quan bởi đặc điểm của thị trường này, chi phí tư

vấn tại Hoa Kỳ rất cao. Các doanh nghiệp Việt Nam phải biết sử dụng tư vấn

của các Công ty tư vấn pháp luật Hoa Kỳ, mặt khác đòi hỏi các doanh nghiệp

Việt Nam cần phải nhanh chóng xây dựng được những Công ty tư vấn của Việt

Nam có trình độ chuyên môn ngang tầm quốc tế như các công ty Hoa Kỳ.

Việt Nam đang thực hiện một chiến lược công nghiệp hóa hướng về

xuất khẩu, thị trường Hoa Kỳ có tầm quan trọng đặc biệt, là điểm đến của các

sản phẩm chế tạo xuất khẩu. Với việc dành cho Việt Nam quyền xuất khẩu

sang Hoa Kỳ trên cơ sở MFN, Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã

mở ra những cơ hội to lớn để phát triển hàng xuất khẩu của Việt Nam. Để có

SV : Vũ Thị Thanh Tâm

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

thể tận dụng được cơ hội, biến khả năng thành hiện thực, tức là có thể thực sự

thâm nhập được vào thị trường rộng lớn, phức tạp và xa xôi như Hoa Kỳ, Việt

Nam cần hoạch định một chính sách tổng thể với các giải pháp đồng bộ cả về

phía Nhà nước và doanh nghiệp. Thực tế cho thấy Hoa Kỳ không chỉ là thị

trường xuất khẩu lớn nhất mà còn thông thoáng nhất thế giới đối với sản

phẩm chế tạo từ các nước đang phát triển. Nhập khẩu hàng hoá của Hoa Kỳ từ

Châu Á là 422 tỷ USD (năm 2000), nhiều hơn 50% so với nhập khẩu EU từ

Châu Á. Năm 2000, hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ đã tăng

128% so với năm 2001, trong khi đó mức xuất khẩu cùng kỳ nói chung của

Việt Nam ra thị trường thế giới chỉ tăng 10%. Mức xuất khẩu các sản phẩm

chế tạo trước đây đã bị hạn chế bởi thuế suất cao của Hoa Kỳ trước Hiệp định

Thương mại, đã tăng đặc biệt nhanh với tốc độ 50% năm. Trong các sản phẩm

chế tạo, sản phẩm xuất khẩu tăng mạnh nhất là hàng may mặc, tăng tới 900

triệu USD trong năm 2002 (gấp 18 lần so với kim ngạch xuất khẩu trong năm

2001). Năm 2002 cũng ghi nhận sự tăng lên nhanh chóng của nhiều mặt hàng

xuất khẩu khác như đồ điện (270%), đồ gỗ (50%), hàng hoá du lịch (5422%)

và các mặt hàng công nghiệp hỗn hợp khác 847% không có gì đáng ngạc

nhiên khi Hoa Kỳ là một thị trường xuất khẩu chủ yếu của các nước đang phát

triển đặc biệt là hàng công nghiệp chế tạo vì Hoa Kỳ chỉ đứng thứ hai sau EU

về quy mô (được xác định bằng GNP tổng thu nhập quốc gia). Tuy nhiên đối

với hàng xuất khẩu Châu Á, Hoa Kỳ còn lớn hơn EU. Theo bảng 1 dưới đây,

nhập khẩu hàng hoá của Hoa Kỳ từ Châu Á năm 2000 là 422 tỷ USD, nhiều

hơn 50% so với nhập khẩu EU từ Châu Á

Bảng 1: Xuất khẩu của Châu Á vào Hoa Kỳ và EU năm 2000

Đơn vị tính: tỷ USD

Mặt hàngXuất khẩu

vào Hoa Kỳ

Xuất khẩu vào

EU

Tỷ lệ

Hoa Kỳ/EUNông sản 13,9 14,8 0,9Khoáng sản 6,6 7,2 0,9Nhiên liệu 3,4 3,2 1,1Hàng công nghiệp chế tạo 396 249,4 1,6Sản phẩm ô tô 54,7 19,8 2,8

SV : Vũ Thị Thanh Tâm

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

Thiết bị văn phòng và viễn thông 131,9 88,9 1,5Thiết bị vận tải và máy móc khác 63,1 47,6 1,3May mặc 35,8 20,8 1,7Hàng tiêu dùng khác 59,7 33,5 1,8Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá 422,7 277,6 1,5

Nguồn: Số liệu thống kê của Bộ Thương mại - 2001

Phần lớn hàng nhập khẩu của Hoa Kỳ từ Châu Á đều là hàng công

nghiệp chế tạo, tổng kim ngạch lên tới gần 400 tỷ USD trong năm 2000,

nhiều hơn 60% về giá trị so với kim ngạch nhập khẩu tương ứng của EU từ

Châu Á. Về các mặt hàng sử dụng nhiều lao động (ví dụ như hàng may mặc

và hàng công nghiệp chế tạo tiêu dùng các loại), nhập khẩu của Hoa Kỳ từ

Châu Á cao hơn nhập khẩu của EU từ Châu Á từ 70 đến 80%.

May mặc là một trong những mặt hàng chủ yếu mà các nước đang phát

triển xuất khẩu với khối lượng lớn, và đối với hầu hết các nước, Hoa Kỳ là thị

trường chủ yếu trước tiên. Với sức tiêu thụ khổng lồ, Hoa Kỳ luôn là thị

trường hấp dẫn và quan trọng của ngành may mặc các nước đang phát triển

trong đó có Việt Nam.

Bảng 2: Nhập khẩu hàng dệt may của Hoa Kỳ theo xuất xứ, năm 2000 (triệu USD).

Quốc gia TổngTrung Quốc 10.536Hồng Kông 4.816Hàn Quốc 3.518Đài Loan 3.065Ấn Độ 3.056Thái Lan 2.541Inđônêsia 2.440Philippine 2.316Banglađét 2.230Pakixtan 1.865Xrilanca 1.708Macao 1.168Malaysia 895Singapore 365Việt Nam 50

SV : Vũ Thị Thanh Tâm

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

Các nước kém phát triển nhất châu Á 40.518Các nước khác 40.920Thế giới 81.438

Nguồn: W.T.O-2001

Có thể nói rằng kinh tế Mỹ là nền kinh tế hàng đầu thế giới, đó là điều

không thể phủ nhận. Nó lớn gấp 2,5 lần so với nền kinh tế của Nhật Bản, 6

lần so với Đức và 8 lần so với Trung Quốc - Với thị trường tiêu thụ hàng hóa

rất đa dạng và phong phú - Hoa Kỳ đã trở thành "miền đất hứa" cho bất kỳ

doanh nghiệp nào cũng như bất kỳ quốc gia nào trên thế giới muốn xuất khẩu

hàng hoá vào Hoa Kỳ. Hiện nay, Việt Nam chúng ta cũng đã trở thành bạn

hàng thương mại lớn thứ 44 của Hoa Kỳ và là nước xuất khẩu lớn thứ 38 vào

thị trường này, trong đó hàng dệt may xuất khẩu tăng rất nhanh. Dệt may là

mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ năm 2004

đạt 2,7 tỉ USD chiếm hơn 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào

thị trường này và tăng 5,56% so với cùng kỳ năm trước. Mỹ là thị trường tiêu

thụ lớn cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam được thể hiện qua bảng 4 dưới

đây:

Bảng 4: Xuất khẩu của Việt Nam.

Nước Năm 2003 Năm 2004 Tỷ trọngMỹ 4,5 5.5 22.4%EU 3.4 3.4 13.8%ASEAN 3 3.2 13.0%Nhật 2.9 3 12.2%Trung Quốc 1.7 1.9 7.7%Úc 1.4 1.6 6.5%Các nước khác 4 6 24.4%Tổng số 20.9 24.6 100.0%

Nguồn: Báo cáo Tổng kết Bộ Thương mại - 2004

2. Những cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp dệt may Việt

Nam khi thâm nhập thị trường Hoa Kỳ.

a. Những cơ hội.

SV : Vũ Thị Thanh Tâm

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

Nhìn chung, kết quả xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ là

rất khả quan và đã tác động tích cực đến phương thức sản xuất kinh doanh của

các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp dệt may, đã mở ra

cho họ một tầm nhìn mới, một hướng đi mới, không những phát huy các thị

trường truyền thống như Nhật Bản và EU mà còn hướng tới thị trường mới

đầy tiềm năng như Hoa Kỳ bởi các yếu tố sau:

Thứ nhất, Hoa Kỳ là một quốc gia đa sắc tộc, đa nền văn hóa, sự phân

hóa giàu nghèo khá rõ…. điều này tạo nên nhu cầu hết sức phong phú, nhất là

nhu cầu hàng tiêu dùng (dệt may, giày dép…) rất đa dạng và do đó hàng hoá

của Việt Nam vẫn có nhiều cơ hội chiếm lĩnh thị trường khổng lồ này, đặc

biệt là hàng dệt may một mặt hàng nhập khẩu với khối lượng lớn của Hoa Kỳ.

Các đơn đặt hàng từ Hoa Kỳ có qui mô lớn hơn nhiều so với các thị trường

khác, kể cả Châu Âu và Nhật Bản, một phần vì Hoa Kỳ có lượng dân số đông

trên 293 triệu người, một phần là do đặc điểm và tính cách của người Mỹ là

"càng lớn càng tốt" khác hẳn với cung cách kinh doanh của người Châu Á

thường ban đầu mới quan hệ buôn bán họ chỉ đặt đơn hàng với khối lượng

nhỏ sau đó nếu tốt thì mới đặt với số lượng lớn. Nói như thế không có nghĩa

là người Mỹ dễ dàng trong chuyện mua bán mà họ rất chặt chẽ và khắt khe

trong việc soạn thảo và ký kết hợp đồng. Vì thế khi làm ăn với các doanh

nghiệp Mỹ, cần phải xem xét các hợp đồng một cách cẩn thận. Ở Mỹ, một

hợp đồng được ký kết bởi các bên liên quan sẽ có sức mạnh toàn năng, trong

khi đó một thỏa thuận miệng thì hầu như không có giá trị

Thứ hai, hiệp định thương mại song phương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ

(Bilateral Trade Agreement - BTA) được ký kết tháng 7/2000 đã góp phần

tích cực thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ tăng nhanh.

Chỉ qua hơn 1 năm thực hiện BTA, thị trường Hoa Kỳ đã trở thành thị trường

xuất khẩu số một của Việt Nam . Hoa Kỳ đang nhập trên 22% hàng xuất khẩu

của Việt Nam . Hoa Kỳ vừa là thị trường xuất khẩu số 1 vừa là thị trường xuất

siêu lớn nhất của Việt Nam.Các ngành kinh tế Việt Nam đang tạo được đà

SV : Vũ Thị Thanh Tâm

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

phát triển mới như may mặc, giày dép, thủy sản, đồ gỗ, hàng điện tử, thủ công

mỹ nghệ… BTA vừa ràng buộc, vừa làm cơ sở để Việt Nam bổ sung, điều

chỉnh và hoàn thiện toàn bộ hệ thống luật pháp của mình, làm cho hệ thống

luật pháp Việt Nam đồng bộ, thống nhất, ổn định và tương thích với hệ thống

luật pháp quốc tế hiện đại tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi buôn bán

hàng hoá giữa hai nước nói riêng và quốc tế nói chung dễ dàng hơn. Hơn thế

nữa BTA sẽ tạo cho Việt Nam những bước đi trong hội nhập quốc tế vững

vàng, tự tin và hiệu quả hơn và khai thác tốt hơn khả năng của nền kinh tế

nhiều thành phần, nền kinh tế thị trường, giúp Việt Nam sớm gia nhập W.T.O

. Việc áp dụng qui chế MFN (Most Favoured Nation) trong hiệp định thương

mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường

Hoa Kỳ tăng lên nhanh chóng. Thuế nhập khẩu hàng hoá Việt Nam giảm bình

quân từ 40 - 70% xuống còn 3-7%, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đã

tăng ngoạn mục: từ 50 triệu USD năm 2001 lên 2,5 tỷ USD năm 2003 và

2004. Ưu đãi lớn nhất của qui chế MFN là giảm và miễn thuế các sản phẩm từ

những nước chưa được hưởng qui chế MFN vào Hoa Kỳ chịu thuế xuất -

nhập khẩu gần 6 đến 12 lần sản phẩm xuất khẩu của các nước được hưởng qui

chế này. Nhờ được hưởng quy chế MFN nên nhiều nước và lãnh thổ đang

phát triển ở Châu Á đã thành công trên còn đường phát triển kinh tế với tiến

độ rất nhanh, điển hình là Singapore, Thái Lan, Hàn Quốc, Đài Loan,…..

Việc dành được quy chế MFN trong hiệp định BTA đã mở ra triển vọng cho

Việt Nam được hưởng quy chế GSP (Generalized System of Preferences) của

Hoa Kỳ .Các nước được hưởng quy chế GSP của Hoa Kỳ sẽ được phép xuất

khẩu một số sản phẩm vào thị trường Hoa Kỳ với ưu đãi thuế quan bằng O.

Hiện có hơn 100 nước được hưởng quy chế GSP của Hoa Kỳ trong đó có

Thái Lan, Malaysia, Philipine, Ấn Độ,… Và nếu Việt Nam được hưởng GSP

thì hàng dệt may Việt Nam sẽ có cơ hội để cạnh tranh với hàng dệt may của

Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan…trên thị trường Hoa Kỳ.

SV : Vũ Thị Thanh Tâm

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

Thứ ba, Hoa Kỳ hiện tại là một thị trường lớn cho ngành công nghiệp

dệt may Việt Nam, đây là triển vọng khá sáng sủa bởi vì nhu cầu nhập khẩu

hàng dệt may của Hoa Kỳ rất lớn. Tổng giá trị nhập khẩu hàng dệt may của

Hoa Kỳ vào năm 2002 là 72.18 tỉ USD, vào năm 2003 là 77.43 tỉ USD… Hoa

Kỳ là nước nhập khẩu hàng hoá với khối lượng và quy mô lớn, quan điểm

trong chính sách kinh tế của họ là nhập siêu hàng hoá và xuất siêu dịch vụ.

Do vậy, Việt Nam chúng ta cần phải tích cực hơn nữa trong việc hoạch định

các chiến lược để thâm nhập và mở rộng thị trường này đặc biệt là các doanh

nghiệp dệt may - dự định biến Hoa Kỳ thành thị trường xuất khẩu chính trong

tương lai.

b. Những thách thức đối với các doanh nghiệp dệt may khi thâm

nhập thị trường Hoa Kỳ.

* Các đối thủ cạnh tranh của Việt Nam rất lớn như: Trung Quốc, Hồng

Kông, Đài Loan, Ấn Độ… đây là những quốc gia dẫn đầu về xuất khẩu hàng

dệt may vào thị trường Hoa Kỳ cũng như EU… kể từ ngày 1/1/2005, các

nước Trung Quốc, Ấn Độ… được bãi bỏ hạn ngạch khi xuất khẩu hàng dệt

may vào Hoa Kỳ. Ngoài ra các nước này còn được hưởng ưu đãi thuế quan

phổ cập GSP (Generalized System of Preferences) của Hoa Kỳ nên sức cạnh

tranh hàng dệt may của họ rất lớn, mà điển hình là Trung Quốc có số lượng

hàng dệt may xuất khẩu vào Hoa Kỳ cũng như Eu với một kỷ lục chưa bao

giờ có kể từ khi Trung Quốc được gia nhập vào W.T.O cách đây 3 năm. Hàng

dệt may giá rẻ do Trung Quốc sản xuất đã và đang thống trị thị trường quốc

tế. Mức tăng trưởng mặt hàng này của Trung Quốc quá nhanh sau 1/1/2005.

Các loại áo sơ mi cotton và quần tăng 1.250% trong quý I/2005, đặc biệt là

quần cotton tăng 1.500%, đồ lót tăng 300%. Khối lượng hàng dệt may giá rẻ

do Trung Quốc sản xuất đã và đang ồ ạt thâm nhập thị trường Mỹ và EU làm

cho hàng nghìn các doanh nghiệp, cũng như công nhân các nước này phải

đóng cửa và nghỉ việc. Theo hiệp hội quốc tế các nghiệp đoàn tự do (ICFTU),

ngành dệt may thế giới đang đứng trước nguy cơ mất 40 triệu việc làm sau

SV : Vũ Thị Thanh Tâm

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

khi chế độ hạn ngạch dệt may dỡ bỏ báo cáo của ICFTU cho rằng, việc xoá

bỏ hạn ngạch dệt may dẫn đến nhiều nước chuyên xuất khẩu hàng dệt may

theo hạn ngạch như: Bangladesh, Campuchia, Philipine,Việt Nam, Nam Phi,

Dominica, Goatemala và Morixơ… phải đối đầu với cuộc cạnh tranh hàng dệt

may của Trung Quốc và Ấn Độ giá rẻ.

* Hạn ngạch (quota) có thể nói là vấn đề bức xúc nhất cho các doanh

nghiệp dệt may Việt Nam hiện nay. Xuất khẩu dệt may của Việt Nam đã bị

hạn ngạch khống chế ở mức 1,8 tỉ USD (tương đương với 400 triệu đơn vị sản

phẩm). Sức cạnh tranh thấp do bị áp đặt hạn ngạch đã làm giảm từ 5-7% thậm

chí 10% khả năng xuất khẩu so với các nước đã dỡ bỏ hạn ngạch. Tình trạng

bị áp đặt hạn ngạch cũng làm cho xuất khẩu mặt hàng dệt may giảm xuống rõ

rệt: từ 1.824 triệu USD trong 10 tháng đầu năm 2003 giảm xuống còn 1.563

triệu USD trong 10 tháng đầu năm 2004, giảm 15%. Như vậy, các nước

Trung Quốc, Ấn Độ, vừa không bị áp đặt hạn ngạch, lại vừa được hưởng

lượng ưu đãi thuế quan phổ cập trong khi Việt Nam đối với thị trường Hoa

Kỳ vẫn bị áp đặt hạn ngạch và việc điều hành hạn ngạch cũng còn nhiều bất

cập sẽ trở thành thách thức, khó khăn lớn cho hàng dệt may Việt Nam thâm

nhập vào thị trường Hoa Kỳ.

*Hàng hoá của Việt Nam vẫn bị phân biệt đối xử về thuế và các biện

pháp phi thuế quan như bị áp dụng các điều khoản tự vệ, chống bán phá giá

mà Hoa Kỳ sẽ sử dụng, đặc biệt là đối với hàng dệt may của Việt Nam và

Trung Quốc. Đây sẽ là một rào cản lớn cho hàng dệt may Việt Nam thâm

nhập vào thị trường Hoa Kỳ.

* Hàng dệt may Việt Nam cũng chưa phong phú về chủng loại, số

lượng nhỏ chất lượng thấp, giá thành cao, nên sức cạnh tranh và tiêu thụ

không mạnh. Tỷ lệ gia công qua nước thứ ba cao, nên lợi nhuận thấp và

không phù hợp với tập quán kinh doanh của Hoa Kỳ. Đây là khó khăn lớn

nhất mà các doanh nghiệp Việt Nam đang gặp phải, họ đã phải sử dụng mô

hình CMT để thâm nhập thị trường Hoa Kỳ, trong mô hình này, các Công ty

SV : Vũ Thị Thanh Tâm

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

Việt Nam nhận đơn đặt hàng từ các nước trung gian khác như Trung Quốc,

Đài Loan, Hàn Quốc đây là những nước sẽ thực hiện mọi công việc tiếp thị và

tài chính cung cấp thiết kế và nguyên liệu cho Công ty Việt Nam để may

thành thành phẩm và chuyển đi sang thị trường Hoa Kỳ. Bởi vậy, các doanh

nghiệp Việt Nam cần phải thay đổi chiến lược sản xuất kinh doanh của mình

và phải thu hút đầu tư trực tiếp của các Công ty Hoa Kỳ và nước ngoài để xây

dựng các cơ sở sản xuất hiện đại, quy mô lớn, giá thành hạ, chất lượng cao

thì mới thu được lợi nhuận cao và có khả năng cạnh tranh được với các quốc

gia khác khi xuất khẩu hàng vào Hoa Kỳ.

* Hiệp định đa sợi cũng là một rào cản cho các doanh nghiệp dệt may

Việt Nam khi thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ. Vì hiệp định đa sợi khuyến

khích các nước xuất khẩu sản phẩm dệt may có nguyên phụ liệu được sản

xuất tại nước xuất khẩu, trong đó nguyên - phụ liệu đang là vấn đề nan giải

cho ngành dệt may Việt Nam, hiện tại ngành may Việt Nam đang phải nhập

khẩu từ 70 - 80% nguyên - phụ liệu từ nước ngoài. Mặc dù trong những năm

qua, chính phủ rất quan tâm đến phát triển diện tích trồng bông, nhưng do khí

hậu và thổ nhưỡng nước ta chưa phù hợp, nên diện tích và sản lượng bông

trong những năm qua, tuy có tăng nhưng không đáng kể. Đặc biệt, vụ bông

vừa qua, diện tích trồng bị thu hẹp, làm sản lượng giảm 20% so với những vụ

trước. Nguyên nhân là do người nông dân chuyển sang trồng cây khác, hạn

hán kéo dài đã làm nhiều vùng trồng bông mất trắng hàng nghìn hecta, không

cho thu hoạch. Còn phụ liệu trong nước cũng đã có một số nhà máy sản xuất

nhưng không đáng kể chỉ đáp ứng được khoảng 20 - 25% nhu cầu của ngành.

* Khó khăn nữa là trong việc chiếm lĩnh và giữ mặt hàng dệt may vào

thị trường Hoa Kỳ nếu Việt Nam chưa là thành viên của W.T.O cuối năm

2005 thì các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ sẽ rút đơn đặt hàng của họ cho các thành

viên khác của W.T.O

SV : Vũ Thị Thanh Tâm

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

* Năng lực quản lý, kỹ thuật sản xuất và đảm bảo xuất khẩu ổn định,

việc thực hiện liên doanh, hợp tác, liên kết trong sản xuất để giữ vững thị

phần hàng may mặc còn khó khăn.

3. Vai trò của công tác xúc tiến thương mại để thâm nhập thị trường Hoa Kỳ

Để thâm nhập thị trường rộng lớn này, công tác xúc tiến thương mại là

rất quan trọng và phải được quan tâm ở cấp Nhà nước và từng doanh nghiệp.

* Về phía Nhà nước cần xây dựng các chương trình xúc tiến xuất khẩu.

Nếu cả Nhà nước và doanh nghiệp có sự hợp tác chặt chẽ hơn nữa trong

công tác xúc tiến thương mại thì em nghĩ rằng để đưa sản phẩm dệt may cuả

đất nước mình vào Hoa Kỳ là không khó. Nhà nước đã giao cho Bộ thương

mại xây dựng cụ thể chương trình XK hàng dệt may vào Hoa Kỳ, đầu tư vốn

cho công tác nghiên cứu mẫu mốt của hàng may để XK vào Hoa Kỳ. Tạo điều

kiện để các doanh nghiệp khảo sát thị trường, tham gia hội chợ triển lãm, tổ

chức tiếp xúc với các nhà phân phối hàng dệt may Hoa Kỳ. Với những nỗ lực

của Nhà nước, của doanh nghiệp công tác xúc tiến thương mại sẽ góp phần

nâng cao kim ngạch XK hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ.

SV : Vũ Thị Thanh Tâm

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY

VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG HOA KỲ

1. Thực trạng của hàng dệt may xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ khi

Việt Nam chưa gia nhập W.T.O và còn áp dụng quota.

Sau khi Mỹ bỏ cấm vận Việt Nam năm 1994, hai nước tiến hành bình

thường hóa quan hệ chính trị và ngoại giao nhưng về thương mại thì phải sau

khi Hiệp định thương mại Việt - Mỹ (BTA) có hiệu lực (ngày 10/12/2001)

mới có thể nói là bình thường hóa. Chỉ sau khi Việt Nam được hưởng quy chế

tối huệ quốc của Hoa Kỳ thì hàng hoá nói chung và hàng dệt may nói riêng

của Việt Nam mới có khả năng tiếp cận thị trường này ở quy mô lớn. Sau khi

có tối huệ quốc ,từ 2002 đến 2003 xuất khẩu dệt may của Việt Nam đã tăng

nhanh chóng.

Hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam được hưởng quy chế tối huệ quốc

khi đưa vào thị trường Mỹ tính cạnh tranh về giá của sản phẩm Việt Nam

được gia tăng đáng kể vì thuế nhập khẩu sẽ giảm bình quân từ 40 - 70 xuống

còn 3-7%

Theo hiệp hội dệt may Việt Nam, tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn

ngành 5 tháng đầu năm 2003 đạt 1,3 tỷ USD, tăng 69,5% so với cùng kỳ

2002. trong đó riêng kim ngạch xuất khẩu sang Hoa Kỳ đạt gần 730 triệu

USD, dẫn đầu các thị trường. Tuy tốc độ may của Việt Nam chưa ổn định và

bền vững. Sang năm 2004 mặt hàng dệt may bị hạn ngạch khống chế nên mức

độ tăng trưởng của mặt hàng này đã bị giảm đáng kể, qua bảng 5 ta càng thấy

điều đó.

SV : Vũ Thị Thanh Tâm

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

Bảng 5: Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ.

Mặt hàng

Năm2002 2003 2004 KH 2005

Dệt may 975 2500 2700 2800Thủy sản 674 750 564 800Giày dép 224 325 473 580Dầu khí 179 209 250 250Đồ gỗ 86 200 408 800Rau quả 74 105 182 200Cà phê 73 98 144 150Máy thiết bị 27 97 112 150Mỹ nghệ 12 21 27 50Đồ nhựa 5 11 28 50Hàng khác 100 200 380 400Tổng số 2429 4500 5200 6200

Nguồn: Bộ Thương mại 6-2005

Cũng như theo Bộ thương mại, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may

có quản lý hạn ngạch vào thị trường Hoa Kỳ trong 6 tháng đầu năm 2005 mới

đạt 700 triệu USD, chỉ bằng 80% mức thực hiện của cùng kỳ năm ngoái.

Trong 700 triệu USD này, 2 mã hàng "nóng" có mức thực hiện lớn nhất

là Cat. 338/339 (đạt trên 300 triệu USD) và Cat. 347/348 (đạt trên 189 triệu

USD - Xem bảng 6) .

SV : Vũ Thị Thanh Tâm

http://luanvan.forumvi.com email: [email protected]

Bảng 6: Tình hình xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Hoa Kỳ năm 2005.

(ĐV tiền: USD)

STT CatĐơn vị

tính

Tổng nguồn HN

2005

Lương HN đã

sử dụng, 2004

Số lượng đã cấp visa

Tỷ lệ HN đã sử dụng

HN 2005 chưa cấp visa

Kim ngạch xk (USD)

Đơn giá TB

(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) (10)I. Câp visa theo thông báo hạn ngạch:1 333 Tá 45,750 4,789 10.49% 40,952 859.557.39 179.15.USD/Tá2 334/335 Tá 741,567 190,607 25.70% 550,960 22.996.333.67 120.65 USD/Tá3 338/339 Tá 15.103.336 176,751 7,670,876 51.96% 7,255,739 308.407.328.76 40.2 USD/Tá4 340/640 Tá 2.282.946 36,829 477,608 44.44% 1,268,504 56,274,325.79 57.56 USD/Tá5 342/642 Tá 620.905 271,147 43.68% 349,708 14,229.633.26 57.47 USD/Tá6 347/348 Tá 7.666.005 2,941,517 38.37% 4,724,488 189.421.413.79 64.4 USD/Tá7 359/-

s/659-sTá 603.432 241,858 41.41% 353,574 10.669.077.53 42.7 USD/Tá

8 434 Tá 18.708 954 5.10% 17,754 140,876.01 147.67 USD/Tá9 435 Tá 46.158 1,200 2.60% 44,958 331.075.44 275.9 USD/Tá10 440 Tá 2.887 2411 83.51% 476 405.554.10 168.4 USD/Tá11 448 Tá 36.955 394 1.07% 36,561 84.404.00 214.24 USD/Tá12 638/639 Tá 1.375.101 509,257 37.03% 865,844 31.44.853.16 61.224 USD/Tá13 647/648 Tá 2,230.991 798,952 35.81% 1,432,039 51.152.076.08 64.02 USD/Tá

Nguồn: Báo cáo thống kê Bộ Thương mại 6-2005

SV : Vũ Thị Thanh Tâm

LuËn v¨n tèt nghiÖp

Sự sút giảm này xuất phát từ nguyên nhân các nước thành viên tổ chức

thương mại thế giới (WTO) bãi bỏ quota cho nhau từ 1/1/2005, trong khi đó

Việt Nam vẫn chưa được hưởng chính sách này, Việt Nam vẫn chưa là thành

viên của WTO mà năng lực cạnh tranh của Việt Nam lại thấp và việc quản lý

và sử dụng quota của Việt Nam lại còn bất cập và kém hiệu quả.

Trước thực trạng khó khăn này, Bộ trưởng Bộ thương mại Trương Đình

Tuyển mới đây một lần nữa gửi thư cho các doanh nghiệp dệt may, đề xuất

hai ý kiến, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng quota:

Một là, cấp visa tự động cho các doanh nghiệp có năng lực sản xuất, có

hợp đồng xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu cho các nhà phân phối lớn đối với

các Cat. thực hiện còn thấp trong 5 tháng đầu năm.

Hai là, thu hồi quota của các doanh nghiệp mới thực hiện được dưới

35%, chuyển cho các doanh nghiệp khác có khả năng xuất khẩu, và chỉ cấp lại

khi những doanh nghiệp này có nhu cầu xuất khẩu thực sự. Thư của Bộ

trưởng Trương Đình Tuyển ngay lập tức đã gây nên một phản ứng khá mạnh

mẽ trong các doanh nghiệp dệt may. Điều khiến các doanh nghiệp cảm thấy lo

lắng là trong bối cảnh cạnh tranh thị trường khốc liệt, mà quota lại hạn hẹp và

khó khăn đến vậy, thì những phương án mà Bộ trưởng đề xuất liệu có đem lại

thuận lợi cho doanh nghiệp hay không? Sau sự kiện Liên Bộ Thương mại -

Công nghiệp cho phép các doanh nghiệp chuyển nhượng quota hàng dệt may

xuất khẩu sang Hoa Kỳ, đã xảy ra tình trạng một số doanh nghiệp có quota

nhưng chưa có nhu cầu xuất khẩu, thậm chí không xuất khẩu được, đã giữ để

bán lại cho các doanh nghiệp khác với giá cao, khiến cho thị trường mua bán

quota trở nên náo nhiệt và diễn biến theo chiều hướng xấu, không có lợi cho

hoạt động xuất khẩu của cộng đồng các doanh nghiệp dệt may. Chẳng hạn,

các Cat. "nóng" như quần nam, nữ chất liệu bông (Cat. 347/348 - bảng 6) lúc

bình thường chỉ ở mức 2,5 - 3,5 USD/Tá, nhưng vào thời gian này có doanh

nghiệp đòi chuyển nhượng với giá 8 - 10 USD/tá, hay như áo sơ mi dệt kim

nam, nữ chất liệu bông (Cat.338/339 - bảng 6) đang từ 4USD/tá nay tăng lên

SV : Vò ThÞ Thanh T©m

LuËn v¨n tèt nghiÖp

10 USD/tá…. Việc một số doanh nghiệp cố tình giữ quota nhằm mục đích

chuyển nhượng với giá cao đã khiến cho các doanh nghiệp có nhu cầu xuất

khẩu, đặc biệt là những doanh nghiệp đã ký được hợp đồng mà lại không còn

quota, phải đi mua lại quota với giá cao so với thực tế. Và hậu quả của việc

này là chi phí sản xuất của các doanh nghiệp bị tăng lên nhiều lần trong khi

giá xuất khẩu đã được thỏa thuận trước trong hợp đồng, nếu doanh nghiệp đòi

tăng giá thì sẽ phải đối mặt với nguy cơ khách hàng bỏ đơn hàng, còn nếu giữ

nguyên giá cũ thì doanh nghiệp sẽ không còn lãi. Thực trạng hiện nay, nơi cần

quota để xuất khẩu thì không có mà nơi không xuất khẩu thì lại có quota,

chẳng hạn như Công ty TNHH May & Thương mại Á Châu là doanh nghiệp

chuyên sản xuất các đơn hàng FOB (mua nguyên liệu bán thành phẩm) có

mối quan hệ làm ăn khá tốt với các khách hàng Calmex, Everyarn, các nhà

phân phối lớn của Hoa Kỳ như: The Children Place, K.Mart, Tagert, JC

Penny - kim ngạch xuất khẩu chiếm tỷ lệ hơn 70% doanh thu tại thị trường

Mỹ, nay cũng đang lâm vào tình trạng có khả năng xuất khẩu nhưng không có

hạn ngạch, mặc dù chính phủ đã cho phép chuyển nhượng hạn ngạch nhưng

thực sự cũng đang rất lúng túng vì giá chuyển nhượng quá cao và rất khó tìm

nguồn. Công ty Global Source Net. Ltd là một trong những nhà xuất khẩu

hàng đầu ở Việt Nam về mặt hàng Cat. 435, chiếm 90% sản phẩm đi Hoa Kỳ

10% sản phẩm đi EU cũng lâm vào tình trạng thiếu hạn ngạch, không có hạn

ngạch chuyển nhượng của Cat này.

Đáng lẽ ra, các doanh nghiệp có thể tự thương thảo để chuyển nhượng

quota cho nhau, nhưng do ý thức cộng đồng trong các doanh nghiệp còn kém

nên dẫn đến tình trạng trên. Trong 5 tháng đầu năm 2005, lượng quota mà

toàn ngành dệt may thực hiện được chỉ đạt ở mức thấp, khoảng trên 30%.

Chính vì thế các chuyên gia dệt may cho rằng, việc thu hồi lượng quota của

các doanh nghiệp mới chỉ thực hiện được dưới 35% theo đề xuất của Bộ

trưởng Trương Đình Tuyển, trong điều kiện quota vào Hoa Kỳ có hạn để tăng

cường hiệu quả sử dụng quota, tránh tối đa tình trạng ế, đọng quota, là một

SV : Vò ThÞ Thanh T©m

LuËn v¨n tèt nghiÖp

giải pháp hữu hiệu. Các chuyên gia cũng cho rằng cần thiết phải xử lý kịp thời

số quota chưa dùng đến của các doanh nghiệp này để giao lại cho các doanh

nghiệp có khả năng xuất khẩu.

Bộ trưởng Bộ Thương mại Trương Đình Tuyển cũng đề nghị các doanh

nghiệp dệt may nên thành lập mô hình liên kết chuỗi, có như thế mới phát huy

được hiệu quả sản xuất và xuất khẩu của toàn ngành dệt may, và ông xin ý

kiến các doanh nghiệp về một số thay đổi trong điều hành hạn ngạch trong dệt

may xuất khẩu đi Hoa Kỳ trong đó có việc cấp phép XK tự động đối với một

số chủng loại hàng (Cat). Tuy nhiên, nửa tháng sau, chỉ có 47 thư phản hồi,

30 ý kiến ủng hộ và 10 ý kiến phản đối. Các ý kiến phản đối cho rằng, cấp

visa tự động sẽ dẫn đến khả năng doanh nghiệp xuất khẩu qúa số lượng và có

thể bị phá vỡ hợp đồng với khách hàng. Để khắc phục tình trạng này, Bộ

Thương mại đã có điều chỉnh nhất định và trước mắt xử lý cho 2 chủng loại

hàng dệt may (Cat). Trong thời kỳ cao điểm giao hàng. Những xử lý này được

thể hiện trong thông báo số 0716 TM - DM hướng dẫn thực hiện hạn ngạch 2

Cat. 347/348 và 647/648 xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ năm 2005 của Bộ

Thương mại, nhiều doanh nghiệp đã phản ứng gay gắt.

Một doanh nghiệp dệt may ở TP.HCM đề xuất: "Những doanh nghiệp

nhỏ, ít xuất hàng đi Hoa Kỳ thì rất hăng hái ngược lại những doanh nghiệp

lớn thường xuyên xuất hàng sang Hoa Kỳ lại không đồng tình. Việc chỉ có 47

đơn vị trên tổng số hơn 1.000 doanh nghiệp trả lời là quá ít, chưa phản ánh

được điều gì, nếu Bộ Thương mại căn cứ vào đó mà làm thì không thể chính

xác".

Nhiều doanh nghiệp tỏ ra e ngại với việc cấp visa tự động. Giám đốc

một xí nghiệp may phân tích, theo thông báo trên, Liên Bộ Thương mại và

Công nghiệp thực hiện cấp visa tự động đối với 2 Cat. 347/348 và 647/648

chỉ từ ngày 1/7/2005 đến 31/8/2005. Như vậy, trong thời gian 2 tháng, doanh

nghiệp phải đàm phán với khách hàng, sau đó tiến hành sản xuất, rồi giao

hàng thì không thể trở tay kịp.

SV : Vò ThÞ Thanh T©m

LuËn v¨n tèt nghiÖp

Trước tình hình trên, hầu hết các doanh nghiệp kiến nghị chưa nên cấp

visa tự động. Ngoài ra việc thu hồi hạn ngạch của các doanh nghiệp mà 5

tháng qua mới thực hiện được dưới 35% hạn ngạch, cũng gây nhiều tranh cãi.

Bởi trong Thông tư liên tịch quy định việc cấp và sử dụng hạn ngạch trong đó

xác định rõ thời hạn thu hồi là tháng 9/2005. Thời gian qua, cộng đồng doanh

nghiệp đã áp dụng quy định trên để đàm phán, ký kết hợp đồng với khách

hàng. Nay Bộ Thương mại ra quyết định như vậy, nhiều doanh nghiệp rất lo

lắng.

Theo Hội dệt may Thêu đan TP.HCM việc phân bổ hạn ngạch tuy đã

công khai, nhưng hậu quả của các phân bổ cũ từ các năm trước vẫn còn ảnh

hưởng, doanh nghiệp chịu thiệt vẫn tiếp tục chịu thiệt. Tỷ lệ cung ứng quần ở

2 Cat. 347/348 và 647/648 của Việt Nam cho thị trường Hoa Kỳ là khá lớn.

Nếu không cấp phép xuất khẩu tự động sẽ xảy ra tình trạng khê đọng hạn

ngạch, ảnh hưởng tới tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may. Đúng như ý

kiến của thứ trưởng Lê Danh Vĩnh về sự cần thiết phải cho phép các doanh

nghiệp chuyển nhượng hạn ngạch hàng dệt may xuất khẩu sang Hoa Kỳ (trên

báo Thương mại thứ 6-5-2005) rằng:

Sự cần thiết phải cho phép các doanh nghiệp chuyển nhượng hạn ngạch

hàng dệt may xuất phát từ đặc điểm của hàng dệt may được thể hiện ở một số

vấn đề sau đây:

- Mặt hàng luôn thay đổi mẫu mã, thời trang, chủng loại, số lượng,

nguyên phụ liệu, tính thời vụ.

Thị trường dệt may bị khống chế bởi người mua chứ không phải người

sản xuất, xuất khẩu nên người mua có quyền yêu cầu phải đáp ứng nhiều điều

kiện khác nhau.

Việc phân hạn ngạch theo thành tích xuất khẩu năm trước là tiêu chí

phân phối cơ bản mà nhiều nước áp dụng (ở Việt Nam chúng ta có 84% tổng

hạn ngạch được phân phối theo thành tích). Trong khi đó, doanh nghiệp được

phân hạn ngạch theo thành tích năm trước, nhưng năm sau có thể do thay đổi

SV : Vò ThÞ Thanh T©m

LuËn v¨n tèt nghiÖp

mẫu mã, đơn hàng nên không ký được hợp đồng, không xuất khẩu được, nếu

không cho chuyển nhượng, số hạn ngạch đó sẽ bị khê đọng.

Ta xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ năm 2005 trong bối

cảnh vẫn chịu hạn ngạch, trong khi các nước thành viên W.T.O đã được xuất

khẩu tự do. Do đó việc cho phép chuyển nhượng hạn ngạch sẽ tạo sự linh hoạt

cho các thương nhân để đáp ứng được yêu cầu của đơn hàng.

Nói chung, tính đến ngày 20/6/2005, xuất khẩu hàng dệt may vào các

thị trường mới chỉ đạt 1,7 tỉ USD, bằng 80% so với cùng kỳ năm ngoái và chỉ

bằng 30,9% so với kế hoạch. Với tốc độ xuất khẩu chậm như vậy thì mục tiêu

xuất khẩu cả năm đạt 5 - 5,2 tỷ USD cho dệt may Việt Nam là rất khó khăn,

đặc biệt là xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ. Cụ thể, chỉ có 3 nhóm cat. nóng

xuất khẩu vào Hoa Kỳ so với 6 tháng cùng kỳ năm ngoái là có tăng nhưng

không đáng kể. Đó là cat 340/640 tăng 4%, và 638/639 tăng 62%, 334/335

tăng 6%. Còn lại hầu hết các cat quan trọng khác chiếm tỷ trọng xuất lớn thì

lại giảm. Thí dụ như cat 338/339 chiếm 44% giá trị xuất khẩu vào thị trường,

Hoa Kỳ giảm 17% cat 347/348 chiếm 25% giá trị xuất khẩu vào Hoa Kỳ giảm

25% so với cùng kỳ. Cat 647/648 chiếm 7% giá trị xuất vào Hoa Kỳ giảm

20%. Như vậy chỉ tính 3 nhóm cat. "nóng" chiếm trên 70% giá trị kim ngạch

xuất khẩu vào Hoa Kỳ kể trên bị giảm kim ngạch ta thấy mức sút giảm của

hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ khá rõ rệt.

Những khó khăn về hạn ngạch từ đầu năm 2005 mặt bằng giá cao đang

là trở ngại khiến xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam khó tăng nhanh kim

ngạch. Theo Bộ Thương mại, hiện hầu hết các chủng loại hàng dệt may của

Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ đều có giá cao hơn 5 - 7% thậm

chí 10% so với các doanh nghiệp dệt may của Trung Quốc, Ấn Độ,

Bangladesh và Indonesia. Cụ thể, đối với Cat. 338/339, đơn giá trung bình

thực hiện tại Việt Nam là 5,79 - 8,2 USD/m2 trong khi ở Bangladesh chỉ 4,66

- 4,88 USD/m2, Trung Quốc khoảng 4,68-5,84 USD/m2và Indonesia 6,46-7,84

USD/m2. Trước thực tế này các chuyên gia thương mại khuyến cáo các doanh

SV : Vò ThÞ Thanh T©m

LuËn v¨n tèt nghiÖp

nghiệp nên cân nhắc để giảm giá 5 - 10% nhằm thu hút khách hàng hoặc phải

đầu tư làm hàng chất lượng cao.

2. Phân tích những ưu, nhược điểm những mặt tồn tại của hàng dệt may

Việt Nam khi thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ.

* Những ưu điểm của hàng dệt may Việt Nam khi thâm nhập vào thị

trường Hoa Kỳ.

Hàng dệt may XK vào thị trường Hoa Kỳ có những ưu điểm nổi bật như sau:

- Về hình thức hàng dệt may có ý nghĩa rất quan trọng đối với người

Mỹ. Là quốc gia đa sắc tộc, người Mỹ dễ bị kích thích bởi thị giác, thích cách

trình bày sinh động, nhiều hình ảnh…. đặc biệt họ rất chú ý đến cách ăn mặc,

cách trang phục… Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam nhạy bén nắm bắt

được tâm lý này của người Mỹ nên đã nhận thức được sự cần thiết phải xây

dựng kế hoạch đầu tư, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm,

kiểu dáng, mẫu mã và sử dụng nguồn nhân lực…v v ,để đáp ứng nhu cầu của

người Mỹ. Lấy Công ty May 10 là một điển hình, với 10-15 triệu sản phẩm

mỗi năm, hơn 6000 công nhân và 13 xí nghiệp thành viên, May 10 hiện là

một trong những doanh nghiệp lớn nhất của ngành may mặc Việt Nam. May

10 đã xuất khẩu 80% trong tổng số doanh thu hơn 450 tỷ đồng của mình và

hơn 1/2 kim ngạch đạt được là từ việc xuất hàng sang Hoa Kỳ. Từ những loại

hàng chủ lực ban đầu là quần, sơ mi, Jacket…. với hình thức xuất hàng dạng

bán thành phẩm, số lượng ít và giá trị không cao đến nay May 10 đã chuyển

sang hàng veston cao cấp cung cấp cho thị trường Hoa Kỳ đảm bảo độ tin cậy

cao đáp ứng các vấn đề về năng lực, chất lượng nguyên phụ kiện và trách

nhiệm xã hội… Công ty May Việt Tiến là doanh nghiệp có quy mô hoạt động

sản xuất, kinh doanh lớn trong Tổng Công ty dệt may Việt Nam. Với đội ngũ

cán bộ công nhân viên có trình độ chuyên môn cao, năng động sáng tạo; một

cơ sở vật chất và hệ thống máy móc thiết bị kỹ thuật hiện đại; một hệ thống

quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế (ISO 9001 - 2000, SA 8000, Wrap), Việt Tiến

SV : Vò ThÞ Thanh T©m

LuËn v¨n tèt nghiÖp

luôn đáp ứng cho các thị trường mà đặc biệt là thị trường Hoa Kỳ, những sản

phẩm, dịch vụ có chất lượng cao, thỏa mãn nhu cầu của mọi khách hàng. Việt

Tiến xem thị trường Hoa Kỳ là mục tiêu quan trọng trong chiến lược tiếp cận

thị trường, vì đây là một thị trường lớn nhiều tiềm năng hứa hẹn cho hoạt

động xuất khẩu. Ngay từ đầu năm 2001, trong khi hiệp định Thương mại Việt

- Mỹ chưa được thực thi, thì Việt Tiến đã ký được hợp đồng đầu tiên với tập

đoàn Supreme International. Inc - một tập đoàn lớn của Hoa Kỳ với 200.000

sản phẩm sơ mi, với giá trị gần 1.000.000 USD. Việt Tiến cũng ý thức được

rằng Mỹ là một thị trường khó tính, nhiều rủi ro tiềm ẩn, nên ngay từ đầu năm

2000 Công ty đã có sự chuẩn bị về khả năng tài chính, mở rộng và nâng cấp

nhà xưởng, hệ thống kho tàng, đổi mới quy trình công nghệ, đầu tư máy móc

thiết bị chuyên dùng hiện đại, đầu tư nâng cấp công tác thiết kế, công tác may

mẫu, nâng cao tay nghề công nhân, đào tạo đội ngũ chuyên gia đàm phán giỏi

ngoại ngữ, vi tính và thông hiểu luật pháp thương mại Mỹ. Bên cạnh đó,

Công ty đã chủ động tiếp cận và khai thác thị trường nguyên phụ liệu đa dạng

thuộc thế mạnh của các nước trong khu vực, từng bước nâng tỷ trọng nội địa

hóa sản phẩm xuất khẩu nhằm đáp ứng yêu cầu về chất lượng sản phẩm và

tiến độ giao hàng ngày càng nhanh của thị trường Hoa Kỳ. Để chuẩn bị cho

chiến lược đưa sản phẩm may mặc mang nhãn hiệu Việt Tiến vào thị trường

Hoa Kỳ, Công ty đã được cấp giấy chứng nhận ngày 27/5/2003. Trong quá

trình kiên trì tiếp cận và khai thác thị trường Hoa Kỳ, Việt Tiến đã vững vàng

vượt qua hàng trăm cuộc đánh giá của những khách hàng lớn và cả những

khách hàng khó tính nhất, sản phẩm do Việt Tiến sản xuất ngày càng đáp ứng

được thị hiếu và nhu cầu của người tiêu dùng Hoa Kỳ. Những mặt hàng thế

mạnh của Việt Tiến đã có mặt tại thị trường Hoa Kỳ như: Sơ mi, quần kaki,

quần jeans, jacket, bộ thể thao, veston , hàng thun, váy… Trong năm

(2001-2004) Việt Tiến đã ký kết hợp đồng cung cấp hàng hóa với hơn 10 nhà

nhập khẩu lớn của Hoa Kỳ (Supreme, International Inc, Sears, American

Eagle, Haggas Alfred Dunner, JC Perny, Columbia Sportsears Nike, The

SV : Vò ThÞ Thanh T©m

LuËn v¨n tèt nghiÖp

Limited…. và chỉ trong vòng 4 năm (2001-2004), thị trường Hoa Kỳ đã

chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt Tiến

bên cạnh những thị trường khác (doanh số bình quân hàng năm là 60.000.000

USD). Với những ưu thế này, chắc chắn hoạt động xuất khẩu hàng may mặc

của Việt Tiến trong những năm tới đối với thị trường Hoa Kỳ sẽ phát triển

bền vững.

- Hàng dệt may Việt Nam đã có kinh nghiệm XK sang các thị trường

khó tính là EU và Nhật Bản, Canada… các doanh nghiệp đã có kinh nghiệm

trong tổ chức, điều hành trong XK nên khi mở được thị trường Hoa Kỳ các

doanh nghiệp không tỏ ra bỡ ngỡ mà nhạy bén với khách hàng Hoa Kỳ.

- Lâu nay tuy chưa trực tiếp XK hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ

song các doanh nghiệp của ta đã may gia công cho Hàn Quốc, Đài Loan,

Hồng Kông để họ XK vào Hoa Kỳ. Do đó khi ta bình thường hoá quan hệ với

Hoa Kỳ, ta có quota hàng dệt may Việt Nam XK vào thị trường đa dạng này

không mấy khó khăn.

- Việt Nam có lực lượng Việt kiều tại Hoa Kỳ với số lượng lên đến 1,3

triệu người. Tuy còn có những mặt hạn chế song đã huy động được sự ủng hộ

của Việt kiều, họ làm công tác tuyên truyền quảng bá, môi giới khách hàng

như nhiều doanh nghiệp Việt Nam có cơ sở để tiêu thụ hàng tại Hoa Kỳ.

* Những nhược điểm của hàng dệt may Việt Nam khi thâm nhập vào

thị trường Hoa Kỳ.

Nhìn chung, hàng dệt may Việt Nam vẫn còn nhiều mặt nhược điểm

như sau: Giá hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam vẫn còn ở mức cao (cao hơn

5-7% và thâm chí 10% so với các đối thủ Trung Quốc, Ấn Độ, Bangladesh và

Indonesia), chất lượng thấp, số lượng nhỏ qui mô sản xuất và xuất khẩu chưa

lớn, thời gian giao hàng còn nhiều bất cập, chưa tự chủ được nguồn nguyên

liệu vẫn còn phải nhập của nước khác, chưa tự chủ được trong sản xuất kinh

doanh, hình thức mua nguyên liệu bán thành phẩm, may gia công là chủ yếu.

SV : Vò ThÞ Thanh T©m

LuËn v¨n tèt nghiÖp

Bất cập công nghiệp phụ trợ cho hàng dệt may ảnh hưởng rất lớn, công

nghiệp phụ trợ của hàng dệt may là rất yếu kém, năng lực các nhà máy cơ khí

chuyên ngành dệt may hiện tại quá nhỏ bé, chưa đáp ứng được nhu cầu phát

triển của các doanh nghiệp dệt may, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Nếu so sánh Tổng Công ty dệt may Việt Nam (Vinatex) với toàn ngành

dệt may cả nước, thì năng lực kéo sợi chiếm 67% (đạt 111.000 tấn/170.000

tấn) kim ngạch xuất khẩu chiếm 24% (đạt trên 1 tỷ USD/4,3 tỷ USD); chế

biến bông chiếm 85% (đạt 12.800 tấn/15.000 tấn). Điều này khẳng định

Vinatex là đơn vị chủ đạo và là doanh nghiệp lớn trong ngành dệt may cả

nước. Tuy nhiên, để phát triển công nghiệp phụ trợ trong lĩnh vực này, còn

nhiều vấn đề cần phải xem xét. Bên cạnh các xưởng cơ khí của các Công ty

dệt thuộc Vinatex làm nhiệm vụ sửa chữa, thay thế phụ tùng, cơ kiện và trang

thiết bị phục vụ cho ngành dệt may như: Công ty cổ phần cơ khí May Gia

Lâm, Công ty cổ phần cơ khí May Nam Định, Công ty cổ phần cơ khí Hưng

Yên và Công ty cơ khí Thủ Đức. Trong thời gian qua, các Công ty này tuy đã

có nhiều cố gắng, nhưng do năng lực còn hạn chế, thiết bị lạc hậu nên không

đáp ứng kịp yêu cầu phát triển rất nhanh của các doanh nghiệp dệt may. Cả 4

Công ty cơ khí này trị giá sản xuất mỗi năm chỉ vào khoảng 9 triệu USD,

tương đương gần 4.000 tấn phụ tùng, chủ yếu là trang thiết bị nhỏ lẻ như: máy

trải vải, máy kiểm tra vải, máy hút hơi là, máy san chỉ, máy hút chỉ, máy dập

cúc, máy cắt vải, hệ thống chiếu sáng, hệ thống làm mát để nguyên liệu, xe

vận chuyển nội bộ…. phục vụ cho ngành may mặc nhưng cũng chỉ mới đáp

ứng được một phần. Còn phụ tùng, cơ kiện cho ngành dệt may, các doanh

nghiệp chủ yếu vẫn phải nhập từ nước ngoài 70 - 80%. Hầu hết các xưởng cơ

khí nằm trong các Công ty dệt đến nay đều không phát huy được hiệu quả do

không đáp ứng được yêu cầu khắt khe về chất lượng, giá cả và thời gian giao

hàng của các doanh nghiệp dệt. Vì vậy, các xưởng cơ khí này thường phải gia

công cho các doanh nghiệp ngoài ngành, trong khi các Công ty dệt lại phải

SV : Vò ThÞ Thanh T©m

LuËn v¨n tèt nghiÖp

nhập khẩu những phụ tùng, cơ kiện từ nước ngoài tới 80%, trị giá hàng chục

triệu USD mỗi năm.

Tình hình cung cấp nguyên phụ liệu cũng không được cải thiện nguyên

phụ liệu cũng đang là vấn đề nan giải của ngành dệt may. Hiệp hội Dệt may

Việt Nam cho biết hiện tại ngành đang phải nhập khẩu từ 70-80% nguyên phụ

liệu từ nước ngoài. Đặc biệt đối với bông xơ thì tỷ lệ này còn cao hơn. Mỗi

năm ngành dệt cần khoảng 60.000 tấn bông xơ nhưng nguồn bông trong nước

chỉ mới sản xuất được từ 13.000 tấn đến 16.000 tấn, một con số quá nhỏ bé so

với nhu cầu. Mặc dù trong những năm qua, có một số nhà máy như: Công ty

Cổ phần phụ liệu may Nha Trang, Công ty May Việt Tiến, Công ty Dệt vải

Công nghiệp và các Công ty tư nhân đã sản xuất được phụ liệu khóa kéo, tấm

lót, cúc, chỉ… nhưng sản lượng cũng rất nhỏ, chỉ đáp ứng được khoảng 20 -

25% nhu cầu của ngành. Nhược điểm về nguyên phụ liệu cho ngành may là

lớn nhất, ta phải nhập nguyên liệu thì sản xuất chưa có hiệu quả, lợi nhuận

mang về cho một đơn vị sản phẩm rất thấp.

Một nhược điểm nữa của hàng dệt may phổ biến hiện nay trong các

doanh nghiệp vừa và nhỏ đó là thiết kế mẫu mã, kiểu dáng sản phẩm còn chưa

cao, chưa đa dạng và phong phú về chủng loại, các tiêu chuẩn hóa về chất

lượng ISO, về SA 8000, trình độ thiết kế marketing còn kém. Việc đăng ký

thương hiệu, xuất xứ hàng dệt may chưa được chú trọng.

- Các doanh nghiệp Việt Nam chưa tạo được kênh phân phối hàng dệt

may trực tiếp vào thị trường Hoa Kỳ.

- Chưa tham gia tích cực vào Hiệp hội để được cung cấp các thông tin

về thị trường Hoa Kỳ, chấp hành luật pháp của Hoa Kỳ còn tuỳ tiện nên dễ bị

kiện tụng là bán phá giá, gian lận trong thương mại.

SV : Vò ThÞ Thanh T©m

LuËn v¨n tèt nghiÖp

- Trình độ công nhân ngành may thấp, điều kiện lao động chưa tốt dễ bị

Hoa Kỳ kiện về công tác đảm bảo an toàn lao động và vệ sinh công nghiệp

trong sản xuất của ngành may.

3. Rút ra những nguyên nhân làm hạn chế xuất khẩu hàng dệt may

vào thị trường Hoa Kỳ.

Qua những thực trạng và những mặt tồn tại của hàng dệt may nói trên

khi xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ em xin rút ra những nguyên nhân làm

hạn chế sau:

Thứ nhất, do Trung Quốc, Ấn Độ… là những nước đứng đầu về xuất

khẩu hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ đã được bãi bỏ hạn ngạch (quota)

từ ngày 1/1/2005 trong khi đó Việt Nam vẫn chưa được bãi bỏ hạn ngạch và

chưa là thành viên của W.T.O. Điều này làm cho tính cạnh tranh của hàng dệt

may bị giảm.

Thứ hai, giá thành sản xuất một đơn vị sản phẩm may mặc Việt Nam

còn cao, chất lượng chưa tốt và thời hạn giao hàng là những yếu tố làm hạn

chế xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ. Cơ sở hạ tầng trang thiết

bị của ngành dệt còn lạc hậu, chưa theo kịp yêu cầu phát triển của ngành may

vẫn còn phải nhập khẩu phụ tùng, cơ kiện từ nước ngoài là chính (chiếm

80%), Hơn thế nữa, khâu sản xuất nguyên phụ liệu trong nước còn yếu nên

ngành dệt may vẫn lệ thuộc vào nguồn nhập khẩu (bông nhập khấu chiếm

90%, vải nhập nhập khẩu khoảng 70%). Những yếu tố này khiến giá thành

sản phẩm dệt may của Việt Nam bị đội lên cao so với các đối thủ cạnh tranh

khác (Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Ấn Độ….). Cũng vì bị động trong

khâu nguyên phụ liệu nên doanh nghiệp không thể đáp ứng nhanh yêu cầu của

khách hàng trong tình hình cạnh tranh quyết liệt giữa các nhà cung cấp, vi

phạm thời gian giao hàng. Nếu như trước đây thời gian tính từ khi ký kết hợp

đồng đến lúc giao hàng có thể lên tới 2-3 tháng, thì nay chỉ còn một nửa, vì

vậy các doanh nghiệp Việt Nam càng rơi vào thế bị động hơn.

Thứ ba, việc cấp và sử dụng hạn ngạch giữa các doanh nghiệp trong

nước còn nhiều bất cập cũng là yếu tố làm hạn chế xuất khẩu hàng dệt may

SV : Vò ThÞ Thanh T©m

LuËn v¨n tèt nghiÖp

vào thị trường Hoa Kỳ. Nhiều doanh nghiệp do có nhiều thành tích năm trước

được cấp thêm hạn ngạch nhưng lại không có đơn hàng để sản xuất, còn nhiều

doanh nghiệp có đơn hàng để sản xuất nhưng lại không có hạn ngạch để xuất

khẩu. Điều này đã hạn chế rất lớn tới hiệu quả xuất khẩu của doanh nghiệp

cũng như của đất nước như quy chế phân bổ hạn ngạch của Bộ Thương mại

thay đổi làm cho doanh nghiệp khó xử lý, thiếu tính chủ động.

Thứ tư, qui mô sản xuất chưa lớn do các doanh nghiệp dệt may Việt

Nam chủ yếu là những đơn vị vừa và nhỏ. Điển hình tại thành phố Hồ Chí

Minh trong số 282 doanh nghiệp may mặc thì chỉ có 40 đơn vị có quy mô 200

máy may trở lên, phần còn lại là quy mô nhỏ.

Thứ năm, do khả năng tiếp thị yếu, công tác quản lý, thiết kế mẫu mã,

chủng loại… chưa cao. Nói tóm lại, sự kém cạnh tranh về giá thành, thời hạn

giao hàng, cùng hàng loạt lý do khác như bất cập trong khả năng buôn bán

quốc tế, tiếp cận thị trường, trình độ chuyên môn, thiết kế mẫu mã, trang thiết

bị, máy móc đã làm cho hàng dệt may Việt Nam trở nên quá bé nhỏ trên đấu

trường quốc tế, đặc biệt khi so với hàng Trung Quốc - sản xuất với giá rẻ.

CHƯƠNG 3

MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU

HÀNG DỆT MAY VÀO THỊ TRƯỜNG HOA KỲ

1. Các biện pháp từ phía doanh nghiệp dệt may Việt Nam khi thâm nhập

vào thị trường Hoa Kỳ

Thứ nhất, hạ giá thành sản phẩm. Giá thành sản phẩm là những chi phí

sản xuất gắn liền với một kết quả sản xuất nhất định. Như vậy, giá thành sản

phẩm là một đại lượng xác định, biểu hiện mối liên hệ tương quan giữa hai

đại lượng: chi phí sản xuất đã bỏ ra và kết quả sản xuất đã đạt được. Tuy

nhiên, cần lưu ý không phải ai có chi phí sản xuất phát sinh là đã xác định

ngay được giá thành, mà cần thấy rằng, giá thành là chi phí đã kết tinh trong

một kết quả sản xuất được xác định theo những tiêu chuẩn nhất định với công

thức chung sau:

SV : Vò ThÞ Thanh T©m

LuËn v¨n tèt nghiÖp

Giá thành (z) đơn vị sản phẩm =

Người ta sử dụng các loại giá thành như:

- Giá thành kế hoạch: Là loại z được xác định trước khi bắt đầu sản xuất

của kỳ kế hoạch dựa trên các định mức và dự toán của kỳ kế hoạch. z được

coi là mục tiêu mà doanh nghiệp phải cố gắng thực hiện hoàn thành nhằm để

thực hiện hoàn thành mục tiêu chung của doanh nghiệp.

- Giá thành định mức: là z được xác định trên cơ sở các định mức chi

phí hiện hành tại từng thời điểm nhất định trong kỳ kế hoạch z định mức được

xem là căn cứ để kiểm soát tình hình thực hiện các định mức tiêu hao các yếu

tố vật chất khác nhau phát sinh trong quá trình sản xuất z định mức cũng được

xây dựng trước khi bắt đầu quá trình sản xuất.

- Giá thành thực tế: là z được xác định trên cơ sở các khoản hao phí

thực tế trong kỳ để thực hiện quá trình sản xuất sản phẩm giá thành thực tế

được xác định sau khi đã xác định được kết quả sản xuất trong kỳ. z thực tế là

căn cứ để kiểm tra, đánh giá tình hình tiết kiệm chi phí, hạ thấp giá thành và

xác định kết quả kinh doanh.

Qua công thức trên ta thấy để hạ thấp giá thành sản phẩm thì một mặt

doanh nghiệp phải có biện pháp tiết kiệm chi phí sản xuất, mặt khác phải có

biện pháp đầu tư, sử dụng chi phí hợp lý để nâng cao năng suất lao động, tăng

cường kết quả sản xuất sản phẩm. Vậy làm thế nào để tiết kiệm được chi phí

sản xuất? làm thế nào để có biện pháp đầu tư, sử dụng chi phí hợp lý? Ta

cũng biết rằng Hoa Kỳ có một thị trường tiềm năng cho sản phẩm dệt may.

Sức thu hút của thị trường Hoa Kỳ xuất phát từ quy mô lớn của thị trường. Do

đó các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần phải tìm hiểu xem xét để quyết

định nên hay không nên đầu tư vào thị trường này để từ đó họ sẽ định hướng

lại hoạt động sản xuất của mình làm sao cho hợp lý với nhu cầu của khách

hàng mà Hoa Kỳ luôn có các đơn đặt hàng với quy mô lớn hơn nhiều các đơn

hàng từ bất kỳ thị trường nào khác kể cả Châu Âu và Nhật Bản. Trong khi đó

Việt Nam đang dự định đưa Hoa Kỳ thành thị trường xuất khẩu chính của

SV : Vò ThÞ Thanh T©m

LuËn v¨n tèt nghiÖp

mình. Vậy với những đơn đặt hàng lớn, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam

sẽ có thể giảm chi phí thông qua hạn chế dây chuyền sản xuất khác nhau và

từng dây chuyền sẽ được chạy trong một thời hạn lâu hơn, ổn định hơn…. để

làm sao giá xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam có thể cạnh tranh được với

Trung Quốc, Ấn Độ…. Hiện tại giá hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam

vào thị trường Hoa Kỳ vẫn ở mức cao hơn 5 -> 10% so với các đối thủ khác.

Tìm các biện pháp để hạ giá thành sản phẩm chúng ta cũng còn phải

quan tâm đến trường hợp quy định bán phá giá của Hoa Kỳ, tránh trường hợp

như vụ kiện Việt Nam bán phá giá tôm vào thị trường Hoa Kỳ vừa qua.

Thứ hai, cần có chiến lược tăng cường chất lượng của hàng dệt may:

- Đào tạo nguồn nhân lực có năng lực để đảm bảo yêu cầu phát triển và

nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm giảm giá thành.

- Đầu tư đồng bộ công nghệ, lựa chọn thiết bị công nghệ tiên tiến, nâng

cao tay nghề công nhân, tổ chức tốt hoạt động quản lý và kinh doanh, mở

rộng quy mô đầu tư theo chiều sâu để sản xuất các lô hàng có chất lượng cao.

Uỷ ban Thương mại Hoa Kỳ cho biết hàng dệt may, dệt kim của Việt Nam có

khả năng cạnh tranh cao tại thị trường Hoa Kỳ.

- Nâng cấp thiết bị, đổi mới cơ bản về công nghệ dệt, công nghệ của các

khâu kéo sợi và đi sâu vào công nghệ sau dệt, hoàn tất sản phẩm: tẩy nhuộm,

làm mềm, làm xốp vải… với công nghệ kỹ thuật tiên tiến đảm bảo cho chất

lượng công nghiệp may xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ.

- Loại bỏ những thiết bị quá cũ và lạc hậu. Tăng thiết bị dệt không thoi

hiện đại, giảm dần máy dệt có thoi, nhất là các máy khổ hẹp, thay thế các máy

dệt kim cũ, lạc hậu có công nghệ trước năm 1975.

- Đổi mới thiết bị và công nghệ nhuộm, xử lý hoàn tất các công nghệ

mới như: làm mềm vải, chống nhàu…. với trình độ kỹ thuật ngày càng cao, vi

tính hóa khâu thiết kế, tạo mẫu, hiện đại hóa khâu giặt, tẩy,….. đảm bảo đáp

ứng yêu cầu chất lượng, mẫu mốt thay đổi rất nhanh chóng và nhạy cảm của

thị trường.

SV : Vò ThÞ Thanh T©m

LuËn v¨n tèt nghiÖp

- Từng bước tiêu chuẩn hóa xã hội theo tiêu chí SA 8000, các tiêu

chuẩn của ISO… nhằm theo kịp các nước trong khu vực.

Thứ ba, nắm vững thị trường, khách hàng, quan hệ tốt với khách hàng.

Các doanh nghiệp nên tìm hiểu kỹ theo từng mặt hàng, từng loại sản phẩm,

nghiên cứu nhu cầu của người tiêu dùng Mỹ có gì đặc thù, có gì thay đổi, luật

pháp ra sao, cạnh tranh thế nào…. để tăng cường thâm nhập vào mạng lưới

phân phối trên thị trường này. Và khi đã có khách hàng, đã chiếm lĩnh được

thị trường rồi thì không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, uy tín của

doanh nghiệp, tăng cường các dịch vụ khuyễn mãi, hậu mãi….

Thứ tư, tăng cường liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp cùng

ngành trong nước và các đối tác Hoa Kỳ để có bạn hàng ổn định.

Đơn hàng nhập khẩu hàng dệt may của Hoa Kỳ thường có giá trị lớn

nên doanh nghiệp phải có lượng hàng lớn để kịp thời cung ứng. Số lượng

hàng lớn mà thời gian cung ứng lại ngắn nên mỗi một doanh nghiệp hiên nay

khó có thể đảm đương hết. Vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải sớm

xem xét khả năng hợp tác với nhau, cùng đầu tư trang thiết bị chuyên dùng

một cách đồng bộ để có thể sản xuất những lô hàng có tiêu chuẩn giống nhau

nhằm thực hiện được đơn hàng lớn từ Hoa Kỳ.

Thứ năm, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam.

Một trong những khó khăn trong quá trình xuất khẩu sang thị trường Mỹ của

doanh nghiệp Việt Nam là năng lực cạnh tranh còn rất thấp. Để nâng cao khả

năng cạnh tranh, các doanh nghiệp cần giải quyết những vấn đề sau: Ngoài

những nguồn đầu tư trong nước, thu hút và tận dụng một cách tối đa các

nguồn vốn đầu tư nước ngoài dưới hình thức vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

(FDI) hoặc vốn viện trợ chính thức (ODA) vào việc sản xuất hàng xuất khẩu

nhằm tạo những sản phẩm có chất lượng tốt, đồng đều có sức cạnh tranh trên

thị trường Hoa Kỳ.

- Cùng với giải pháp về vốn, không ngừng nâng cao chất lượng sản

phẩm cũng là một biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh. Các doanh nghiệp

SV : Vò ThÞ Thanh T©m

LuËn v¨n tèt nghiÖp

nhất thiết phải áp dụng phương pháp quản lý chặt chẽ từ quản lý doanh

nghiệp, quản lý quy trình sản xuất, chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc

tế ISO 9000 và các quy định của các cơ quan kiểm soát chất lượng của Hoa

Kỳ

- Để nâng cao cạnh tranh về giá cả của hàng xuất khẩu Việt Nam trên

thị trường Hoa Kỳ, các doanh nghiệp cần tận dụng mức tối đa các nguyên phụ

liệu sản xuất trong nước nhằm hạn chế chi phí đến mức thấp nhất có thể.

- Thực hiện đúng thông lệ buôn bán của thị trường Hoa Kỳ, đồng thời

thực hiện nghiêm ngặt các quy định của luật pháp quốc tế, luật thương mại

Hoa Kỳ để đảm bảo tiến độ giao hàng đúng nơi đúng lúc. Tham gia đăng ký

thương hiệu, nhãn hiệu hàng hoá, chống gian lận thương mại, từng bước

chuyển xuất khẩu gián tiếp sang xuất khẩu trực tiếp cho phù hợp với thông lệ

buôn bán của thị trường Hoa Kỳ. Tuân thủ các quy định chặt chẽ về chất

lượng, nhãn hiệu hàng hoá, xuất xứ sản phẩm do Hoa Kỳ quy định.

Thứ sáu, cần đặc biệt quan tâm đến việc đăng ký sở hữu công nghiệp

tại Hoa Kỳ cho các sản phẩm dệt may Việt Nam. Thị trường Hoa Kỳ gần như

đạt đến chuẩn mực quốc tế về mọi vấn đề, trong đó có vấn đề sở hữu công

nghiệp, về đăng ký bản quyền cũng như vấn đề bảo hộ thương hiệu… các

quy định về vấn đề này cũng rất phức tạp. Bên cạnh các Công ty Hoa Kỳ với

những nhà kinh doanh đứng đắn thì cũng không thiếu những Công ty lừa đảo,

đánh cắp thương hiệu với mục đích trục lợi cá nhân (như vụ tranh chấp liên

quan đến nhãn hiệu ViFon.ViFon đã bị một Công ty Hoa Kỳ nộp đơn xin sở

hữu bản quyền nhãn hiệu ViFon trước khi Công ty ViFon của Việt Nam nộp

đơn cho cơ quan thẩm quyền của Hoa Kỳ. Tuy nhiên do đấu tranh tích cực

của Công ty ViFon cùng với sự giúp đỡ của luật sư có kinh nghiệm nên

ViFon đã dành được quyền sở hữu chính đáng của mình). Vì vậy, muốn thâm

nhập vào thị trường Hoa Kỳ, muốn làm ăn nghiêm túc tại thị trường Hoa Kỳ,

các doanh nghiệp Việt Nam cần xúc tiến ngay các thủ tục đăng ký sở hữu

công nghiệp cho các sản phẩm của mình.

SV : Vò ThÞ Thanh T©m

LuËn v¨n tèt nghiÖp

Theo điều 1 của công ước Paris về quyền sở hữu công nghiệp thì "Nếu

doanh nghiệp đã đăng ký (Nếu không sử dụng thủ đoạn lừa đảo để có được)

thì trong vòng 5 năm doanh nghiệp sở hữu thương hiệu nổi tiếng có quyền đệ

đơn yêu cầu hủy bỏ nhãn hiệu giống hoặc tương tự. Nếu doanh nghiệp dùng

thủ đoạn lừa đảo để được đăng ký thương hiệu giống với thương hiệu nổi

tiếng thì doanh nghiệp sở hữu thương hiệu nổi tiếng không bị hạn chế về thời

gian để được hủy bỏ thương hiệu nổi tiếng".

Thứ bảy, chủ động tiếp cận công nghệ thông qua việc tích cực sử dụng

có hiệu quả hơn hệ thống Internet.

Thương mại điện tử tuy mới xuất hiện nhưng đang phát triển rất nhanh

và tiềm năng cũng rất lớn. Thương mại điện tử có nhiều điểm ưu việt và thực

sự là một công cụ mới cho chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu của doanh nghiệp.

Người bán và người mua có thể trao đổi, nói chuyện trực tiếp với nhau, không

hạn chế về không gian và thời gian, cho nên các doanh nghiệp có thể nâng

cao hiệu quả của quá trình nghiên cứu thị trường. Nhờ có thương mại điện tử

mà các doanh nghiệp xuất khẩu giảm được chi phí quảng cáo, chi phí vận

chuyển, chi phí giao dịch… Vậy nên các doanh nghiệp Việt Nam phải nhận

được xu thế của phương thức kinh doanh hiện đại này và chuẩn bị đầy đủ về

vốn, ngoại ngữ cũng như các yếu tố về kỹ thuật công nghệ thông tin… để sẵn

sàng hội nhập khi có thể. Hiện nay Bộ Thương mại đang triển khai phương

thức bán hàng qua điện tử, khuyến khích các doanh nghiệp ngành may áp

dụng phương thức giao dịch này vào thị trường Mỹ.

Dự báo phát triển ngành dệt may:

- Giai đoạn 2001-2005 ngành dệt may đạt tốc độ XK 24%, kim ngạch

3,6 tỷ USD.

- Dự báo giai đoạn 2006-2010 ngành dệt may đạt tốc độ XK 22%, kim

ngạch 8,5 ÷ 9 tỷ USD.

2. Các giải pháp về phía nhà nước nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt

may vào Hoa Kỳ

SV : Vò ThÞ Thanh T©m

LuËn v¨n tèt nghiÖp

Một là tạo điều kiện để mở cửa thị trường Hoa Kỳ. Đẩy mạnh công tác

tuyên truyền và phổ biến về thị trường Hoa Kỳ về chính sách xuất nhập khẩu

của Hoa Kỳ và hiệp định thương mại Việt Nam Hoa Kỳ. Để thâm nhập được

thị trường này các cơ quan quản lý Nhà nước phải chủ động nắm được những

quy định điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán giữa hai bên theo luật thương

mại Hoa Kỳ cùng những điểm khác biệt so với luật thương mại Việt Nam.

Ngoài ra cần được phổ biến và hiểu biết sâu sắc các quy định về thuế và hải

quan của Hoa Kỳ như danh bạ thuế thống nhất, chế độ ưu đãi thuế quan phổ

cập (GSP) cơ sở tính thuế hải quan hay những quy định về xuất xứ hàng

hoá…. có tác động trực tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ của doanh nghiệp khi

xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Những thông tin từ các cơ quan Nhà nước các doanh

nghiệp Việt Nam cũng cần nghiên cứu kỹ hệ thống danh mục hàng hóa hạn

chế nhập khẩu, cấm nhập khẩu hạn ngạch nhập khẩu, những quy định về vệ

sinh dịch tễ đối với hàng hóa nhập khẩu… hay luật chống phá giá, luật thuế

bù trừ của Hoa Kỳ. Với một hệ thống những luật và quy định phức tạp như

thế và một thực tế rằng đối với các bang khác nhau của Hoa Kỳ nhiều luật hay

quy định lại khác nhau, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn

trong việc nghiên cứu và cần sự giúp đỡ từ phía Nhà nước. Để hỗ trợ các

doanh nghiệp trong kinh doanh, Nhà nước cần tổ chức các khóa đào tạo các

lớp tập huấn hay hội nghị, hội thảo về hệ thống pháp luật thương mại Hoa Kỳ

nhằm nâng cao hiểu biết cho các doanh nghiệp về khía cạnh pháp lý trong

kinh doanh với Hoa Kỳ. Đồng thời, Nhà nước cần khuyến khích các cơ quan,

bộ, ngành liên quan và các cá nhân xuất bản và lưu hành những ấn phẩm về

vấn đề này dưới dạng sách hay những bài viết báo, tạp chí hay đĩa hình…

nhằm tạo ra nguồn thông tin phong phú và chính xác cho các doanh nghiệp

tham khảo. Mặt khác nhà nước cũng có thể hỗ trợ các doanh nghiệp thông qua

việc cung cấp một số địa chỉ tư vấn pháp luật đáng tin cậy cho các doanh

nghiệp cho tuyên truyền, bằng nhiều kênh thông tin đại chúng, bằng nhiều

hình thức về thị trường Hoa Kỳ, về pháp luật, chính sách nhập khẩu của Hoa

SV : Vò ThÞ Thanh T©m

LuËn v¨n tèt nghiÖp

Kỳ cũng như về tiêu chuẩn chất lượng và thị hiếu người tiêu dùng Hoa Kỳ.

Thành lập qũy hỗ trợ xúc tiến việc làm, tìm hiểu thị trường Hoa Kỳ và khuyến

khích các doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập thị trường Hoa Kỳ tổ chức các

đoàn đi khảo sát thực tế bằng nguồn kinh phí hỗ trợ của Nhà nước và khuyến

khích các doanh nghiệp Việt Nam tự bỏ kinh phí để tiếp cận, khảo sát thực tế

thị trường Hoa Kỳ, doanh nghiệp trực tiếp làm marketing XK.

Hai là tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại vào thị trường Hoa

Kỳ và có chính sách hỗ trợ thương mại mạnh mẽ hơn nữa đối với việc xuất

khẩu hàng dệt may sang thị trường này.

Cục xúc tiến thương mại đã tổ chức đi khảo sát một số thành phố lớn

của Hoa Kỳ (2002). Khi đó chúng ta có nhu cầu xuất khẩu mạnh hàng dệt

may nên cục xúc tiến thương mại đã trình Nhà nước xin mở trung tâm GTSP

tại NewYork. NewYork là một trong ba trung tâm thời trang của thế giới

(New York, Paris và Milano), trong đó New York vừa là trung tâm thiết kế

thời trang vừa là đầu mối nhập khẩu và phân phối hàng dệt may lớn nhất, sau

khi phương án xây dựng trung tâm được Nhà nước phê duyệt, các công việc

chuẩn bị về kinh phí, nhân sự, tìm kiếm địa điểm, xây dựng, mua sắm trang

thiết bị và vận động các doanh nghiệp tham gia gấp rút triển khai đến

19/5/2004, trung tâm giới thiệu sản phẩm Việt Nam tại New York đã được

khai trương và chính thức đi vào hoạt động tại đây, các doanh nghiệp có thể

gửi catalogue, hàng mẫu, tham gia hội chợ, hội thảo, khảo sát thị trường, gặp

gỡ khách hàng và đặc biệt các doanh nghiệp Việt Nam sẽ được cung cấp

thông tin về nhu cầu, thị hiếu tiêu dùng của thị trường Hoa Kỳ.

Bộ Thương mại cũng đang kiến nghị Thủ tướng chính phủ cho phép

thành lập Qũy hỗ trợ phát triển thị trường xuất khẩu. Ngoài mục đích hỗ trợ

tài chính và kỹ thuật để mở rộng thị trường xuất khẩu cho ngành hàng, còn

bao gồm cả việc xử lý các vụ kiện, tranh chấp thương mại và đối phó với các

rào cản thương mại của nước ngoài. Bên cạnh đó Nhà nước cần có chính sách

hỗ trợ xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ như: hỗ trợ và bảo vẹ

SV : Vò ThÞ Thanh T©m

LuËn v¨n tèt nghiÖp

thu nhập ổn định cho người nông dân để họ yên tâm sản xuất các loại sản

phẩm phục vụ cho công nghiệp dệt may (tơ, tằm, trồng bông….)

Ba là, tạo điều kiện dễ dàng bằng cơ chế hợp lý cho hoạt động xuất

khẩu hàng dệt may. Nhà nước đã tạo điều kiện, cơ sở pháp lý thuận lợi cho

thương nhân bằng cơ chế chuyển nhượng hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt may

sang Hoa Kỳ. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý xuất khẩu theo hướng hiệu

quả hơn. Từng bước hạn chế dần, tiến tới xóa bỏ tình trạng độc quyền trong

hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp, thủ tục hải quan giải quyết nhanh

hơn, cung cấp thông tin cập nhật cho doanh nghiệp thông qua hiệp hội dệt

may Việt Nam. Điều hành linh hoạt lãi suất, tỷ giá hối đoái theo hướng vừa

có lợi cho xuất khẩu vừa đảm bảo ổn định kinh tế.

Bốn là, Bộ Công nghiệp cần xây dựng phương án bổ sung qui hoạch

ngành dệt và tiếp tục thay thế máy móc thiết bị cho toàn ngành nói chung và

các doanh nghiệp chuyên xuất khẩu hàng dệt may sang Hoa Kỳ nói riêng.

Tăng năng lực kéo sợi và hiện đại hóa ngành dệt, nhuộm….

Năm là, hiệp hội dệt may Việt Nam cần tăng cường hoạt động hơn nữa,

từng bước góp phần khắc phục những điểm yếu hiện nay của ngành dệt may

Việt Nam, Hiệp hội cần tích cực tham gia hoạt động với các tổ chức quốc tế

và khu vực liên quan đến lĩnh vực dệt may như Hiệp hội Dệt may ASEAN,

diễn đàn ngành Dệt may vùng Châu Á - Thái Bình Dương…. để trao đổi

thông tin và truyền đạt những kiến nghị của ngành dệt may trong nước đối với

khu vực và quốc tế nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp dệt may.

Sáu là, ngành dệt may Việt Nam trước hết phải tăng tốc đầu tư để sản

xuất nguyên liệu, phụ kiện may mặc đủ chất lượng làm hàng xuất khẩu như

nguyên liệu sản xuất hàng cotton, hoặc pha cotton… mà người tiêu dùng Hoa

Kỳ rất ưa chuộng. Đồng thời tập trung đầu tư vào trang thiết bị, máy móc sản

xuất và hạn chế đến mức thấp nhất việc nhập khẩu vải thành phẩm để gia

công sợi để dệt vải, bông để kéo sợi.

SV : Vò ThÞ Thanh T©m

LuËn v¨n tèt nghiÖp

Bảy là, Đảng và Nhà nước ta cần có chủ trương chính sách để tạo điều

kiện thuận lợi hơn nữa cho Việt Kiều ở Hoa Kỳ, khai thác thế mạnh của Việt

kiều ở Hoa Kỳ để từ đó thiết lập hệ thống phân phối hàng Việt Nam tại thị

trường Hoa Kỳ. Với số lượng khoảng 1,3 triệu người Việt Nam sinh sống,

học tập và làm việc ở Hoa Kỳ - là cộng đồng dân cư lớn thứ tư trong các nước

Châu Á, sau Trung Quốc, Ấn Độ, và Philipine sinh sống ở Hoa Kỳ, đây sẽ là

nhịp cầu để cho các doanh nghiệp Việt Nam dễ dàng thâm nhập thị trường

Hoa Kỳ. Với lợi thế là những người am hiểu thị trường Hoa Kỳ, thông thạo

ngôn ngữ, cộng đồng người Việt có thể đóng vai trò môi giới hữu hiệu đưa

hàng Việt Nam vào thị trường này.

Tám là, tăng cường hoạt động các loại hình dịch vụ phục vụ cho thị

trường Hoa Kỳ bằng các biện pháp như dịch vụ thanh toán, chuyên chở hàng

hoá, bảo hiểm hàng hoá, mở các trung tâm thương mại, tham gia hội chợ triển

lãm tại thị trường Hoa Kỳ nhằm xúc tiến XK hàng dệt may vào thị trường

Hoa Kỳ.

Với các giải pháp từ phía Nhà nước nêu trên em tin tưởng rằng mặt

hàng dệt may Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội để đẩy mạnh XK vào thị trường

Hoa Kỳ.

KẾT LUẬN

Sau 10 năm quan hệ với thị trường Hoa Kỳ, kim ngạch xuất nhập khẩu

giữa 2 nước đã tăng lên rất nhanh. Nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam

có kim ngạch lớn. Hoa Kỳ sẽ trở thành thị trường chính cho hàng dệt may, do

đó các doanh nghiệp dệt may Việt Nam chúng ta cần phải nỗ lực hơn nữa

trong công tác xây dựng, đầu tư, kêu gọi đầu tư để cải tiến kỹ thuật, công

SV : Vò ThÞ Thanh T©m

LuËn v¨n tèt nghiÖp

nghệ, máy móc thiết bị cũng như nguyên phụ liệu phục vụ công tác quản lý

nguồn nhân lực, quản lý chất lượng…vv, phục vụ sẵn sàng cho việc sản xuất

và xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Hoa Kỳ. Mặc dù, hàng dệt may

Việt Nam cũng đang gặp nhiều khó khăn trong các vấn đề như : bị áp đặt hạn

ngạch mà chưa được bãi bỏ, giá thành cao, khả năng cạnh tranh thấp, thời

hạn giao hàng còn chưa đúng lúc, qui mô sản xuất còn nhỏ, công tác quản lý,

sử dụng hạn ngạch còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng đủ nguyên phụ liệu cho

hàng dệt may vẫn còn phải nhập khẩu của nước ngoài… nhưng Việt Nam sẽ

cố gắng để đạt được mục tiêu đúng như Đảng và Nhà nước đã đề ra trong

chiến lược phát triển hàng dệt may đến 2010 là: phát triển ngành dệt may trở

thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu

thỏa mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước; tạo nhiều việc làm cho

xã hội, nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế khu vực và

thế giới. Nghiên cứu về mặt hàng dệt may Việt nam vào thị trường Hoa Kỳ

em thấy còn nhiều vấn đề bất cập đòi hỏi các nhà quản lý, các doanh nghiệp

của ta cần phải rút kinh nghiệm để đảm bảo tính ổn định của thị trường.

Những vấn đề hiện nay là:

- Vấn đề nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh

hàng dệt may.

- Vấn đề tham gia vào các kênh tiêu thụ hàng dệt may tại thị trường

Hoa Kỳ.

- Sự am hiểu pháp luật, những quy định của Hoa Kỳ về hàng dệt may.

Và đặc biệt là Việt Nam sẽ gia nhập W.T.O, các doanh nghiệp Việt

Nam sẽ phải cam kết thực hiện các điều khoản của W.T.O, sân chơi sẽ bình

đẳng, đặt ra những thách thức mới đối với các doanh nghiệp dệt may Việt

Nam.

Cảm ơn thầy giáo - TS. Lê Khắc Đoá đã tận tình giúp đỡ em từ việc xây

dựng đề cương đến nội dung nghiên cứu của luận văn. Em cũng cảm ơn Viện

Nghiên cứu Thương mại đã tạo điều kiện cho em thực tập và cung cấp các tài

SV : Vò ThÞ Thanh T©m

LuËn v¨n tèt nghiÖp

liệu để hoàn chỉnh luận văn này. Tuy vậy thời gian thực tập còn ngắn, nội

dung đề cập đến nhiều vấn đề nên luận văn của em còn có mặt hạn chế nhất

định. Em rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các thầy cô trong

Hội đồng nghiệm thu để luận văn của em được phong phú thêm nội dung và

hình thức trình bày được tốt hơn.

Em xin chân thành cảm ơn!

SV : Vò ThÞ Thanh T©m

LuËn v¨n tèt nghiÖp

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đánh giá tác động kinh tế của hiệp định Thương mại song phương

Việt Nam - Hoa Kỳ. (Báo cáo cập nhật về thương mại song phương giữa Việt

Nam và Hoa Kỳ trong năm 2003)

an Assessment of the economic impact of the united states - Vietnam

bilateral trade Agreement (Update Report on Bilateral Trade in 2003 between

Vietnam and the United States)

2. Quyết định của Thủ tướng chính phủ số 161/1998/QĐ - TTg. Về việc

phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp Dệt - May đến

năm 2010.

3. Tạp chí Việt - Mỹ số tết 2005, số 35.

4. Báo đầu tư 6/2005

5. Một số ý kiến về tiếp cận thị trường Hoa Kỳ

GS .TS. Tô Xuân Dân

TS. Hoàng Xuân Nghĩa

ThS. Phạm Xuân Sơn

6. Báo thương mại thứ 6/5/2005 - Bộ Thương mại

7. Xúc tiến thương mại

TS Mia MiKie ủy ban kinh tế - xã hội liên hợp quốc khu Châu Á - Thái

Bình Dương

8. Cẩm nang xâm nhập thị trường Mỹ

TS. Hồ Sĩ Hưng

Nguyễn Việt Hưng

9. Vietnamese Textile industry

10. Hiệp định thương mại Việt Nam -Hoa Kỳ

11. Hiệp định đa sợi

12. Industrial Review of Vietnam

13. Kế toán tài chính - TS Võ Văn Nhi (chủ biên).

SV : Vò ThÞ Thanh T©m

LuËn v¨n tèt nghiÖp

MỤC LỤC

Lời mở đầu.......................................................................................................1

Chương 1: Thị trường Hoa Kỳ và cơ hội xuất nhập khẩu của Việt Nam . 2

1. Đánh giá thị trường Hoa Kỳ và phân tích tiềm năng rộng lớn của thị trường

Hoa Kỳ đối với sản phẩm chế tạo từ các nước đang phát triển nói chung và

sản phẩm dệt may nói riêng...............................................................................2

2. Những cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam

khi thâm nhập thị trường Hoa Kỳ......................................................................8

3. Vai trò của công tác xúc tiến thương mại để thâm nhập thị trường Hoa Kỳ.....13

Chương 2: Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường

Hoa Kỳ 5 năm trở lại đây)............................................................................15

1. Thực trạng của hàng dệt may XK vào thị trường Hoa Kỳ khi Việt Nam

chưa gia nhập W.T.O và còn áp dụng hạn ngạch (quota)...............................15

2. Phân tích những ưu, nhược điểm - những mặt tồn tại của hàng dệt may Việt

Nam khi thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ....................................................22

3. Rút ra những nguyên nhân làm hạn chế xuất khẩu hàng dệt may vào thị

trường Hoa Kỳ.................................................................................................27

Chương 3: Một số ý kiến đề xuất để đẩy mạnh XK hàng dệt may vào thị

trường Hoa Kỳ...............................................................................................29

1. Các biện pháp từ phía doanh nghiệp dệt may Việt Nam khi thâm nhập vào

thị trường Hoa Kỳ............................................................................................29

2. Các giải pháp về phía Nhà nước nhằm đẩy mạnh XK dệt may vào Hoa Kỳ....34

Kết luận..........................................................................................................38

SV : Vò ThÞ Thanh T©m

LuËn v¨n tèt nghiÖp

NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN

1. Tiếng Việt:

XNK : Xuất nhập khẩu

TMQT : Thương mại quốc tế

Hoa Kỳ : Hoa Kỳ

TNHH : Trách nhiệm hữu hạn

GTSP : Giá trị sản phẩm

TPHCM : Thành phố Hồ Chí Minh

2. TiếngAnh

W.T.O : World Trade Organiztion (Tổ chức Thương mại Thế

giới)

USD : United States Dollar (đồng đô la Mỹ)

MFN : Most Favoured Nation (Tối huệ quốc)

EU : Europe (Châu Âu)

BTA : Bilateral Trade Agreement (Hiệp định thương mại song

phương)

GSP : Generalized System of Preferences (ưu đãi thuế quan phổ cập)

ICFTU : International Colleague Free Trade Unions (Hiệp hội quốc tế

các nghiệp đoàn tự do)

SA8000 : Social Association (Trách nhiệm xã hội 8000)

ISO : International Standard organization (Tổ chức tiêu chuẩn

quốc tế)

Wrap : Chương trình trách nhiệm sản xuất toàn cầu

SV : Vò ThÞ Thanh T©m