42
1 PHỤ LỤC 2 BÁO CÁO CÁC TRƢỜNG HỢP NGHIÊN CỨU TÁI CHẾ RÁC THẢI HỮU CƠ TẠI TỈNH BÌNH ĐỊNH Lời nói đầu Tại Việt Nam, chi phí cho bãi rác ngày càng tăng cao một cách nhanh chóng. Đó là các chi phí cho phần đất đai, phàn nàn của dân cư và quang cảnh thành phố. Các công nghệ tái chế khác nhau, như ủ phân compost hay phân hủy yếm khí, cho thấy một vài dấu hiệu tiềm năng cho việc tái chế giá trị rác hữu cơ bằng cách sản xuất phân sinh học bổ sung đất và biogas trong trường hợp phân hủy yếm khí. Chính vì vậy, phân hủy yếm khí và ủ phân compost được coi là con đường khả quan trong việc xử lý các phần có thể phân hủy sinh học của chất thải rắn đô thị, và việc sử dụng chúng được mong đợi sẽ nhân rộng trong những năm tới. Đây là một việc rất phổ biến ở nhiều quốc gia nhưng đặc tính rác thải đô thị ở Việt Nam lại rất khác biệt. Rác thải đô thị không được phân loại làm cho việc phân hủy sinh học hay ủ compost trở nên khó khăn. Việc lựa chọn danh sách các trường hợp phục vụ nghiên cứu khả thi tái chế rác hữu cơ tại Bình Định được thực hiện theo phân tích trên, đây là các trường hợp thực tiễn trong việc tái chế và quản lý rác hữu cơ tại Việt Nam. Báo cáo này có thể được coi là minh chứng rằng vẫn còn cơ hội cho việc sản xuất phân ủ compost, tái sử dụng làm thức ăn chăn nuôi, phân hủy rác hữu cơ đô thị phù hợp với kế hoạch chiến lược của tỉnh/vùng/quốc gia. Bảng 1 cho thấy một cái nhìn tổng thể về các kỹ thuật hiện đang được áp dụng để tái chế rác hữu cơ đô thị tại các trường hợp lựa chọn. Rác thải từ bếp, nhà hàng, căng tin được miêu tả ở các mô hình còn lại cho thấy chúng được sử dụng làm thức ăn chăn nuôi, còn chất thải gia súc được tái chế để ủ phân hoặc để nuôi trùn.

PHỤ LỤC 2 - Báo cáo các trường hợp nghiên cứu tái chế rác thải hữu cơ tại tỉnh Bình Định

Embed Size (px)

Citation preview

1

PHỤ LỤC 2

BÁO CÁO CÁC TRƢỜNG HỢP NGHIÊN CỨU

TÁI CHẾ RÁC THẢI HỮU CƠ TẠI TỈNH BÌNH ĐỊNH

Lời nói đầu

Tại Việt Nam, chi phí cho bãi rác ngày càng tăng cao một cách nhanh chóng. Đó là các chi

phí cho phần đất đai, phàn nàn của dân cư và quang cảnh thành phố. Các công nghệ tái chế

khác nhau, như ủ phân compost hay phân hủy yếm khí, cho thấy một vài dấu hiệu tiềm năng

cho việc tái chế giá trị rác hữu cơ bằng cách sản xuất phân sinh học bổ sung đất và biogas

trong trường hợp phân hủy yếm khí.

Chính vì vậy, phân hủy yếm khí và ủ phân compost được coi là con đường khả quan trong

việc xử lý các phần có thể phân hủy sinh học của chất thải rắn đô thị, và việc sử dụng chúng

được mong đợi sẽ nhân rộng trong những năm tới. Đây là một việc rất phổ biến ở nhiều quốc

gia nhưng đặc tính rác thải đô thị ở Việt Nam lại rất khác biệt. Rác thải đô thị không được

phân loại làm cho việc phân hủy sinh học hay ủ compost trở nên khó khăn.

Việc lựa chọn danh sách các trường hợp phục vụ nghiên cứu khả thi tái chế rác hữu cơ tại

Bình Định được thực hiện theo phân tích trên, đây là các trường hợp thực tiễn trong việc tái

chế và quản lý rác hữu cơ tại Việt Nam. Báo cáo này có thể được coi là minh chứng rằng vẫn

còn cơ hội cho việc sản xuất phân ủ compost, tái sử dụng làm thức ăn chăn nuôi, phân hủy rác

hữu cơ đô thị phù hợp với kế hoạch chiến lược của tỉnh/vùng/quốc gia.

Bảng 1 cho thấy một cái nhìn tổng thể về các kỹ thuật hiện đang được áp dụng để tái chế rác

hữu cơ đô thị tại các trường hợp lựa chọn. Rác thải từ bếp, nhà hàng, căng tin được miêu tả ở

các mô hình còn lại cho thấy chúng được sử dụng làm thức ăn chăn nuôi, còn chất thải gia súc

được tái chế để ủ phân hoặc để nuôi trùn.

2

Bảng 1: Tổng quan các phƣơng pháp xử lý rác của các trƣờng hợp nghiên cứu

Địa

điểm

ST

T

Đầu vào Công

suất

(tấn/ngà

y)

Phƣơng pháp xử lý hiện tại ở nhàmáy/khu vực

Phân loại Nghiền Ép Đánh

tơi

Sàng Trộn

với phụ

gia

Ủ hiếu

khí

Thông

gió

cưỡng

bức

Đảo

,

trộn

Tái sử

dụng

nước rỉ

Ủ hiếm

khí

Đốt

Tại

nguồn

Tại

nhà

máy

Việt Trì 1 TP Việt

Trì

120-150 Không Có Không Không Không Có Có Có Có Có Không Có

Hà Nội 2 Cổ Bi 0.6 Có Có Có Không Không Có Có Không Có Không Không Không

3 Gia Lâm 80 Có Có Không Không Có Có Có Có Có Có Có Không Không

4 Hồng Ky1

5 PHT2

Huế 6 Thùy

Phương

200 Không Có Có Không Có Có Có Có Có Có Có Không Có

HộiAn 7 Trà Quế 0.3 Có Không

Bình

Định

8 Nhơn Phú 1.5 Không Có Không Không Không Không Có Có Không Có Có Không Không

Đà Lạt 9 Xuân

Hương

1.7 Không Có Không Không Không Không Có Có Không Có Không Không Không

10 Xuân

Hương

0.0006 Có Không Không Không Không Có Có Không Có Có Không Không

11 Chợ 25 Có Có Có Có Không Có Có Không Có Có Không Không

12 Trại 15 Có Có Không Có Không Có Có Không Có Có Không Không

TP

HCM

13 Hương

Trung*3

14 Rác bếp4

1 Xem phần nội dung của trường hợp nghiên cứu tại Hà Nội

2 Xem phần nội dung của trường hợp nghiên cứu tại Hà Nội

3 Xem phần nội dung của trường hợp nghiên cứu tại TP Hồ Chí Minh

4 Xem phần nội dung của trường hợp nghiên cứu tại TP Hồ Chí Minh

3

1. Phú Thọ

Ngày 9-11/11/2010, Việt Trì, Phú Thọ, Hà Nội, Việt Nam

Thành phần: Thủy, Hà, Dũng

Địa điểm: Công ty Xử lý và Chế biến chất thải Phú Thọ, TP Việt Trì, tỉnh Phú Thọ

Họp với Ông Trần Xuân Tạo (Trưởng phòng kinh doanh) và Ông Bùi Thưởng (Giám đốc)

Công ty URENCO Việt Trì chỉ đạo Công ty Xử lý và Chế biến chất thải Phú Thọ xử lý toàn

bộ chất thải rắn trong thành phố. Nhà máy được thành lập từ năm 1998 với công suất 60

tấn/ngày và hiện tại đang xử lý 120 tấn chất thải đô thị /ngày.

Rác tươi được phân loại bằng tay (xem hình ảnh), ẩm độ/nhiệt độ và thông gió cưỡng bức

được kiểm soát bởi nhiệt độ bên trong của compost, hệ thống sàng cơ khí và cộng thêm chế

phẩm E.M (vi sinh vật hữu hiệu)

Hình 1. Phân loại rác đô thị tươi tại nhà máy

60% rác được thu gom và vận chuyển đến nhà máy là rác hữu cơ có thể dùng để ủ compost.

Mỗi ngày nhà máy sản xuất được khoảng 30 tấn phân compost với 3 mức chất lượng khác

nhau, giá dao động từ 80.000đ đến 300.000đ/tấn. Có 80 nhân công làm việc trong nhà máy,

trong đó có 60 người là lao động trực tiếp. Với mỗi tấn rác tươi, nhà máy phải chi trả

100.000đ để xử lý (bao gồm tiền điện để phun nước, nước rỉ, thông gió cưỡng bức…)

Quy trình thực hiện được thể hiện trong sơ đồ sau. Toàn bộ quá trình kiểm soát tự động về

nhiệt độ, thông gió cưỡng bức và phun nước hoặc nước rỉ tiêu thụ hết 30.000 đến 40.000kW

điện mỗi tháng.

4

Hình 2. Xử lý rác thải hữu cơ tại Công ty Xử lý và Chế biến chất thải Phú Thọ

Hình 3. Sàng trước khi đóng gói

Mặc dù có một khối lượng lớn compost bị lưu kho, nhưng Giám đốc nhà máy chia sẻ với

nhóm chuyên gia rằng chỉ có dưới 10% rác vô cơ phải thải ra bãi rác. Chất lượng phân tích

compost cho thấy phần trăm Ntổng, P2O5, K2O lần lượt là 2,0%, 0,4%, 1,3%, là mức chất lượng

compost chấp nhận được (CoFQ số 11, 2009). Những phần compost kém chất lượng (bị lẫn

cát, thô, to) được bán cho doanh trại quân đội để rải làm sân nền và để cải tạo đất trong doanh

trại. Công ty có kế hoạch gia tăng giá trị cho compost hiện tại để tăng chất dinh dưỡng. Một

mô hình quản lý tốt về sản xuất/công nghệ và marketing sẽ mang đến lợi nhuận cao cho công

ty, đồng thời giúp nông dân trồng trọt sản xuất sản phẩm tốt hơn.

Rác hỗn hợp

Phân loại bằng tay (ngoài trời) Rác vô cơ để đốt

Rác hữu cơ đưa vào các bể ủ compost (20 bể * 130-180m

3)

(trộn với chế phẩm E.M, kiểm soát độ ẩm và nhiệt độ (50-530C))

Đảo trộn mỗi tuần/lần + phun nước rỉ lên compost để tái sử dụng chất dinh dưỡng

Thông khí cưỡng bức từ dưới sàn 25-30 ngày

Ủ chín (30 ngày), chuyển sang dùng máy đánh tơi

Phân loại sau ủ (sàng)

Phần mịn Phần thô

Đóng gói Bãi rác (ngay tại nhà máy)

5

Nguồn thu: URENCO

(10USD/tấn), tái chế (hạt nhựa,

gạch), compost (50,000 đến

300,000VND/tấn).

=

Chi phí: Điện hoạt động (20 triệu

đồng/tháng), nước, nhân công (85

người * 1,5 triệu đồng/tháng)

Vào thời điểm này, compost chưa được coi là tài sản. Nhà máy đã từng bán

compost cho khu vực cao nguyên Tây Nam thông qua một trung gian ở Nam Định.

Tuy nhiên, hợp đồng đã kết thúc do bên trung gian không còn hoạt động nữa. Điều

này cho thấy, chiến lược marketing tốt là một yếu tố rất quan trọng cho doanh

nghiệp. Tuy nhiên, một hợp đồng mới đã được ký đem lại một viễn cảnh mới

(1.000 tấn cho năm 2011). Hợp đồng của năm 2011 đang được thực hiện với chiến

lược mới là bán cho khu vực miền núi phái Bắc.

Một lƣu ý quan trọng cho trƣờng hợp này là nhận thức về giá trị compost của

những ngƣời trực tiếp thực hiện chƣa đủ cao để có thể cố gắng hơn và đầu tƣ

thêm để sản xuất ra compost chât lƣợng cao dễ bán hơn.

6

2. Hà Nội:

2.1. Quản lý chất thải hữu cơ theo mô hình trang trại tổng hợp quy mô nhỏ: hộ nuôi bò sữa

Hồng Kỳ, Sóc Sơn, Hà Nội, Việt Nam. Đây là điển hình của chăn nuôi Vườn ao chuồng quy

mô nhỏ ở Việt Nam, trong đó dòng chất thải khép kín, đầu vào của phần này là đầu ra của

phần khác. Nhìn vào sơ đồ dưới đây, chất thải hữu cơ được sản xuất từ việc nuôi bò, nếu việc

chăn nuôi tốt, thu nhập của nông hộ sẽ tăng lên đáng kể.

Mô hình quản lý chất thải tổng hợp này phù hợp với 70% nông hộ chăn nuôi ở Việt Nam.

Việc xử lý chất thải của trang trại (gồm chất thải của vật nuôi và chất thải từ bếp) sẽ giúp tiết

kiệm chi phí cho việc xử lý chất thải tại nhà máy (giảm chi phí thu gom, vận chuyển và xử

lý). Ngoài ra, chất thải nông hộ nếu thải ra môi trường sẽ gây ô nhiễm nguồn nước (bề mặt

nước và nguồn nước ngầm)

Một điều rất quan trọng đến môi trường cần phải cân nhắc:

Nếu một mắt xích trong chuỗi quản lý chất thải hữu cơ ở nông hộ bị hỏng (ví dụ

như hệ thống biogas không hoạt động do vấn đề bảo trì như đã thấy trong chuyến

thăm quan), cần phải có phương án dự phòng để tận dụng phân từ bò và ngựa, ví

dụ như có một hệ thống phân hủy sinh học dự trữ mà các đường ống dùng để thu

gom phân có thể dễ dàng chuyển từ hệ thống biogas này sang hệ thống biogas

khác.

Đối với việc cân bằng chất dinh dưỡng cho đất, lượng chất thải lỏng dùng để tưới

cỏ cần được kiểm soát, để đạt đúng mức dinh dưỡng cần thiết chứ không bị dư

thừa.

7

Hình 1. Chuồng bò và bể chứa phân trước khi đưa vào hệ thống biogas

Tại trang trại này, chất thải hữu cơ có được từ các hoạt động hàng ngày của nông hộ có thể

đưa thêm vào việc nuôi trùn (sau khi đã được nghiền nhỏ).

2.2. Tái chế phần hữu cơ trong phân gia súc để nuôi trùn quế quy mô nhỏ: Trại nuôi trùn quế

PHT (Sóc Sơn, Hà Nội, Việt Nam) www.traigiunquePHT.com.vn. Đây là một hệ thống đơn

giản rộng 400m2, nuôi trùn trong các hố nuôi bằng xi măng. Nguồn thức ăn nuôi trùn là phân

gia súc mua lại từ người thu gom. Khoảng cách thu gom đến trại từ 3,4 km đến 20km.

Với một thực tế là phần lớn các nông hộ của Việt Nam là quy mô nhỏ, đặc biệt là ở tỉnh Bình

Định, mô hình này đưa ra một giải pháp đơn giản nhưng hiệu quả về chi phí để xử lý chất thải

hữu cơ từ chăn nuôi từ đó giúp tăng thu nhập của nông hộ.

Phân (bò, lợn)

Người thu gom/Nông dân

Pha nước (ủ từ 4 đến 24 tiếng) + phun chế phẩm E.M

Nền xi măng (cao 20cm, chiều dài tùy chọn), rải nền bằng lá, rơm +

bã trùn còn lại. Mái che bằng lá dừa, tấm phủ nhựa

Tưới phân đã pha nước trên lớp trùn

Thu gom

Trùn Phân trùn Bã trùn

Trùn tươi (rùa, ếch)

Trùn sấy khô (bổ sung chất dinh dưỡng cho con người)

Phân trùn (phân bón)

Bã trùn (làm nền trùn mới, phân bón)

8

2.3. Hợp tác xã Dịch vụ Nông nghiệp và Môi trường xã Cổ Bi, Gia Lâm, Hà Nội, Việt Nam.

HTX có 1.200 hộ gia đình, trong đó có 700 hộ làm nông nghiệp. Rác được một nhóm gồm 10

người của HTX thu gom. Rác hữu cơ được thu gom vào các ngày thứ 2, 4, 6, Chủ nhật, rác vô

cơ được thu gom vào các ngày còn lại. Thu nhập của họ bao gồm phí thu gom

2.000đ/người/tháng, lương do nhà nước trả và tiền thu được do bán các phần tái chế và phân

compost. Đầu ra có phần rác thu gom, rác tái phân loại và phân compost. Phần rác còn lại

không tái chế được sẽ chuyển đến Urenco (98.000đ/tấn).

Hinh 5. Phân compost sau 1 tháng và Biomix, hỗn hợp của E.M (dạng bột) và enzyme

Phần rác này sau đó sẽ được đổ ra bãi rác Gia Lâm. Các hộ dân chịu trách nhiệm phân loại rác

hữu cơ, tuy nhiên, người thu gom cũng rất chịu khó phân loại lại. Lý do thu gom rác 2 ngày

khác nhau là để tránh việc làm lẫn rác trong quá trình thu gom và vận chuyển. Xe thu gom rác

cũng được đánh dấu bằng 2 màu khác biệt. Mô hình tổ chức được miêu tả trong sơ đồ dưới

đây:

Với 100m2 đất, nông hộ nuôi trùn có thể có:

1. 250 – 300kg trùn tươi → 30kg trùn sấy khô

(400,000VND/kg)

2. 3 tấn bã trùn/tháng (1.200đ/kg)

Đầu tư:

1. Đất

2. Nhân công (4 người * 2 triệu/tháng)

3. Phân gia súc * 7.000đ/bao 30kg

4. Chế phẩm E.M (2.000đ/lít)

9

Ông Thưởng, Chủ nhiệm HTX, cho biết một vài nhược điểm của quy trình này: chất lượng

phân loại thấp do nhận thức của người dân và thái độ của người thu gom kém, (họ chỉ muốn

làm càng nhanh càng tốt, không chú trọng vào việc tăng cường nhận thức và không có chế tài

thưởng/phạt)

Giải pháp cho chất lượng phân loại được thực hiện tại điểm thu gom gần nhà máy sản xuất

phân compost. Nếu rác bị lẫn thì người thu gom sẽ bị cảnh cáo, nếu vi phạm lặp lại sẽ bị phạt.

Theo chủ nhiệm HTX, điều này không những giúp người thu gom năng động nhiệt tình hơn

mà còn giúp họ tăng cường nhận thức.

Không phải rác hữu cơ lúc nào cũng được sản xuất tại nhà máy của HTX do bị ảnh hưởng bởi

mùa gieo trồng. Tại những thời điểm mà cây trồng không cần dùng đến phân compost (như

mùa mưa), việc phân loại được chuyển giao cho Nhà máy xử lý rác thuộc Urenco Gia Lâm.

2.4. Xử lý rác đô thị - Nhà máy sản xuất compost của Urenco Gia Lam, xã Kiêu Kị, Gia Lâm,

Hà Nội, Việt Nam. Nhà máy (bao gồm cả bãi rác) rộng 14ha, trong đó 7ha dùng để xử lý rác

thải và ủ phân compost, phần còn lại là bãi rác được trang bị thiết bị vệ sinh. Nhà máy sản

xuất compost đi vào hoạt động từ năm 2007-2008, gồm 22 bể chứa dung tích 200m3/bể. Tổng

đầu tư là 20 tỷ, phần cơ khí được sản xuất hoàn toàn bởi các nhà máy của Việt Nam. Rác

được thu gom lần lượt từ các xã, rác hữu cơ được gom bằng xe tải 4 lần/tuần (Thứ 2, 4, 6,

Chủ Nhật).

1,200 hộ dân

(trả tiền thu gom rác 2.000đ/người/tháng)

Rác

Hữu cơ Vô cơ

↓ ↓

Thu gom vào Thứ 2, 4, 6, CN Thu gom vào Thứ 3, 5, 7

(phương tiện và thiết bị thu gom được UBND Gia Lâm trang bị)

↓ ↓

Nhà máy phân compost Điểm thu gom rác

↓ ↓

Phun Biomix đã pha với nước (1kg/1 tấn rác) Urenco (98.000đ/tấn)

Trộn đều (1 lần/tuần)

(60ngày)

Phân compost

(thành viên HTX sử dụng)

10

11

Hình 6. Hình ảnh từ trên xuống dưới, từ trái sang phải: rác hữu cơ tươi được phân loại (đang chờ để ủ compost, những đợt rác

được phân loại tốt sẽ cho sản phẩm compost chất lượng cao), dây chuyền phân loại tại nhà máy, xe tải khác màu cho rác hữu

cơ và rác vô cơ, hệ thống thông khí cưỡng bức, bể ủ compost, sản phẩm compost làm từ rác không được phân loại, sản phẩm

cuối cùng trước khi đóng gói, hệ thống yếm khí xử lý nước rỉ từ bãi rác, bãi rác gần nhà máy compost.

Trung bình có 8 đến 10 tấn rác hữu cơ được thu gom mỗi ca. Bên cạnh đó, rác tập trung ở nhà

máy còn có cả rác hỗn hợp (khoảng 70 tấn/ngày), phần rác này sẽ được đưa vào dây chuyền

phân loại bằng tay do công nhân nhà máy thực hiện. Nhà máy có 18 công nhân (bao gồm cả

công nhân trực tiếp). Ngoài phần rác hữu cơ (chiếm 55%) và phần tái chế được, phần rác

không thể phân hủy sinh học được đổ ra bãi rác gần đó, chiếm khoảng 50-60%.

Trong một cố gắng giảm đến tối đa lượng hữu cơ bị đổ ra bãi rác tạo ra nước rỉ, tất cả rác

được thu gom (sau khi phân loại nhanh bằng cách loại đi các phần rác kích thước lớn, và rác

đặc biệt gom từ các làng nghề mà 100% là không phân hủy được) được ủ compost. Phương

pháp này giúp giảm việc phân loại bằng tay ban đầu, giảm được rất nhiều nước rỉ ở bãi rác,

tạo ra compost có độ mùn rất cao, tuy nhiên, lượng rác quá lớn đã vượt qua công suất của nhà

máy.

12

Đối với trường hợp của Gia Lâm, Hà Nội, biểu đồ sau thể hiện mô hình quản lý rác:

Rác hữu cơ đã được phân loại Rác tổng hợp do công nhân

thu gom từ các xã Urenco thu gom

Cân

Dây chuyền phân loại thứ nhất

Sàng dạng trống (5cm2)

Phân loại rác hữu cơ lần 2 (cỡ lớn)

Bể ủ compost (21 – 25ngày)

(phun chế phẩm E.M, nước rỉ, thông gió cưỡng bức, đảo trộn)

Ủ chín (19ngày), đảo trộn

Sàng (2mm2)

Đóng gói

13

3. Huế: Nhà máy xử lý rác đô thị và sản xuất phân compost Thùy Phƣơng,

Công ty Tâm Sinh Nghĩa.

Được chuyển giao từ Urenco Huế năm 2006, nhà máy đã cải tiến và áp dụng các công nghệ

mới sản xuất trong nước. Nhà máy có trách nhiệm xử lý rác đô thị của thành phố Huế (200

tấn/ngày), tuy nhiên, có khoảng 30-50% rác chưa được thu gom. Tất cả rác đổ vào nhà máy

đều chưa được phân loại tại nguồn. Tộng lượng rác hữu cơ chiếm khoảng 60-65%, trong đó,

sản phẩm compost chiếm 20-25%.

Hoạt động của nhà máy gồm 3 công đoạn: phân loại, tái chế và ủ phân, có 180 nhân công (bao

gồm cả nhân viên văn phòng). Tại thời điểm này, nhà máy đã ngừng sản xuất ống nhựa từ rác

nhựa tái chế, nhân công làm việc này đã được chuyển sang làm bộ phận khác.

Trang thiết bị của nhà máy bao gồm dây chuyền phân loại, trục lăn nam châm (để hút kim

loại), đĩa sàng, trống sàng, máy thổi rác nhựa và nhẹ, lò đốt rác, hệ thống sấy, bể ủ, máy giữ

ẩm (để điều chỉnh độ ẩm của sản phẩm compost cuối cùng), đóng gói. Quy trình thổi khí

cưỡng bức hoạt động 24/7 với bộ thông gió hoạt động 4 tiếng chạy 4 tiếng ngưng.

Vào cuối chu trình xử lý, rác thải ra bãi rác chỉ còn dưới 10%. Hệ thống đồng nhất này giúp

nhà máy sản xuất ra compost có kích thước nhỏ (2mm2) với độ mùn cao.

14

Hình 7.Hình ảnh từ trên xuống dưới, từ trái sang phải: dây chuyền phân loại bằng tay, sàng trống, lồng chứa làm bằng lưới để

chứa túi nhựa bị thổi vào đó, ống lăn nam châm dùng phân loại kim loại, rác đã phân loại để vào bể ủ, lò đốt với lò sấy kế

bên, ngăn chứa sản phẩm cuối cùng, hệ thống bổ sung ẩm độ cho sản phẩm cuối cùng, sản phẩm đã được đóng gói.

15

Lò đốt rác thải quá nhiều nhiệt và bụi ra môi

trường

Lò đố rác – hệ thống sấy: lò đốt rác hoạt động qua

2 giai đoạn, rác cho vào lò được đốt ở nhiệt độ từ

700-8000C, không khí nóng và bụi được lọc (ống

lớn hình trục, than, nước), khí nóng đi qua trống sấy để sấy 100 tấn bán compost hàng ngày.

Theo thông tin từ chi nhánh của công ty Tâm Sinh Nghĩa chuyên về marketing, các sản phẩm

compost sản xuất tại nhà máy hiện đang được bán rất tốt cho các trang trại cây trồng và cây

công nghiệp vùng cao nguyên Tây Nam , tuy nhiên, hoạt động kinh doanh vẫn đang bị thua

lỗ. Điều này cho thấy cần có một chiến lược quảng bá cho nông dân trồng trọt để sử dụng

compost như một loại sản phẩm giúp cải tạo đất. Trong thời gian tới (năm 2011), giá compost

sẽ tăng. Hiện tại, giá là 1.000đ/kg, nhưng vì thị trường chính là ở khu vực cao nguyên Tây

Nam nên khi vận chuyển đến nơi thì giá tăng lên 2.000đ/kg.

Ban Giám đốc nhà máy dự định thành lập công ty sản xuất phân bón, mua lại compost từ các

nhà máy khác, chế biến compost này để cải thiện chất lượng, cho thêm phụ gia để sản xuất

phân bón hữu cơ chất lượng cao, phân bón compost mới này có thể sản xuất dưới dạng viên.

Rác hỗn hợp được Urenco Huế thu gom

Phân loại bằng tay

Nghiền nhỏ thành kích thước 10cm2

Bể ủ tĩnh thông gió (15 bể, kích thước: 6m*18m*2,5m cao)

Trộn thêm với chế phẩm E.M, rỉ mật, và N

(trong vòng 30 ngày, đảo trộn 10 ngày/lần, thông gió cưỡng bức)

Vào lúc cuối, compost sẽ đạt độ ẩm từ 30-35%

Sàng mùn (vẫn bị lẫn loại kích thước lớn)

Sấy khô bằng cách sử dụng nhiệt của lò đốt

(công suất của máy sấy là 100 tấn/ngày)

Ủ chín (60 ngày) (7 bể, kích thước 6m*18m*2,5m cao)

Tại giai đoạn này, kích thước của compost khoảng 20mm2

Sàng để lấy loại kích thước 3mm2

Tại giai đoạn này, compost đạt độ ẩm 17%

Chế biến compost để tăng chất lượng

(thêm chất phụ gia, ure, độ ẩm)

Đóng gói

16

Hình 8. Ban Giám đốc và nhóm chuyên gia nhận thấy các điểm hạn chế và một vài giải pháp tiềm năng.

Nước rỉ hiện đang được xử lý bằng cách pha với nước/hóa chất/chế phẩm E.M và thải ra môi

trường (sau khi đã phần nào được sử dụng làm tăng độ ẩm cho compost). Để giải quyết vấn đề

này, chuyên gia quốc tế khuyên, trong quá trình sản xuất nên trộn thêm một phần compost để

tăng vật chất khô và để giảm nước rỉ. Phó Giám đốc nhà máy đã ghi nhận lời khuyên này.

Để cải thiện hệ thống giúp giảm mùi và bụi, ban giám đốc và nhóm chuyên gia đã bàn đến

việc sử dụng tấm phủ/thùng ủ compost. Hai bên vẫn còn tiếp tục trao đổi thêm sau này.

17

4. UBND Hội An, phân loại và ủ rác cơ bản tại hộ gia đình, TP Hội An.

4.1. Đảo Tân Hiệp. Phân loại - ủ tại hộ gia đình. Kế hoạch thăm quan đảo Tân Hiệp bị hủy do

biển động ảnh hưởng đến giao thông đường biển (đảo cách đất liền 20km). Thay vào đó,

chúng tôi đã có một buổi họp rất có ý nghĩa với Phòng môi trường của UBND TP Hội An.

Hình thành vào năm 2005, dự án phân loại rác tại nguồn trên đảo Tân Hiệp được thực hiện ở

làng Cẩm Hương (có 94 hộ dân). Các hộ dân ủ rác bằng thùng sau khi phân loại ngay tại nhà.

Tuy nhiên, do diện tích đất sử dụng trên đảo có hạn, chỉ có 3 thùng (dung tích 40 lít) được đặt

ở 3 điểm công cộng. Với dung tích nhỏ như vậy, việc ủ không đáp ứng được hết phần rác thải

ra. Dự án đã thất bại và nhanh chóng kết thúc. Hiện tại mỗi ngày có 2 tấn rác được phân loại

(rác xây dựng còn dư trên đảo), toàn bộ rác không được phân loại được vận chuyển bằng

thuyền (do UBND Hội An tài trợ) và đổ ra bãi rác của thành phố (bãi rác Cẩm Hà).

Hình 9. Nguyên nhân thất bại của UBND TP Hội An về Dự án Tân Hiệp

Sau bài học đó, tại đảo Cù Lao Chàm (Vùng sinh quyển thế giới) (bao gồm cả đảo Tân Hiệp),

Chính phủ Đan Mạc đã tài trợ thành lập một nhà máy chế biến rác, nhà máy compost và bãi

rác. Dự án trị giá 9 tỷ đồng. Mục tiêu của nhà máy là xử lý rác của 660 hộ dân (khoảng 3.000

người) và rác du lịch (khoảng 10 tấn/ngày).

Sau khi nhà máy được xây dựng xong, tất cả các sản phẩm compost sẽ được dùng để cày 10ha

đất trên đảo (hiện tại, do du lịch phát triển quá nhanh, hầu hết diện tích đất trồng lúa đã được

chuyển sang để trồng rau)

4.2. TP Hội An hiện đang có một dự án phân loại rác và sản xuất compost tại nguồn. Có 30 hộ

dân tham gia vào giai đoạn 1, mỗi hộ đều được tham gia vào hội thảo khởi động, được giới

thiệu mô hình kỹ thuật ủ và được cấp 3 thùng ủ (chất liệu hỗn hợp, 300.000đ/thùng, 3 màu

khác nhau thể hiện 3 giai đoạn ủ khác nhau). Giai đoạn 2 của dự án sẽ có 400 hộ tham gia.

Giai đoạn ban đầu đã thực hiện xong và đang triển khai giai đoạn 2.

Thùng ủ được làm từ chất liệu tổng hợp, khối lượng 40 lít (mỗi hộ có trung bình 5 người *

1,35kg rác hữu cơ thải ra mỗi ngày * 30 ngày). Ở dưới đáy thùng có 4 lỗ, đường kính 0,5cm

để thoát nước rỉ. Trên mặt thùng được che phủ để bảo vệ thùng và rác bên trong tránh trời

mưa, nắng và chuột. Có thể sử dụng các chất liệu khác như sứ, đất sét để làm thùng nhưng cần

phải tuân thủ thiết kế thùng.

18

Chuẩn bị ủ: rải lên trên nền thùng một lớp lá, bùn, đất, tro, cao bằng 1/8 độ cao thùng. Rác

cho vào cần được đảo trộn hàng ngày. Để giảm độ ẩm cho thêm lá (khô), tro, bùn khô; và để

giảm độ khô thì tưới thêm nước.

Compost trong mỗi thùng cần được giữ trong vòng 1 tháng, sau đó, compost được ủ chín.

Tổng cộng cần 3 tháng để có được sản phẩm cuối cùng.

Hình 10. Hình ảnh từ trên xuống dưới, từ trái sang phải: 3 thùng ủ compost tại nhà do UBND TP Hội An cung cấp, người sử

dụng compost (vườn rau hữu cơ), tảo biển do nông dân gom được miễn phí, chuẩn bị đất, dùng tảo biển làm nền.

Nhóm chuyên gia nhận thấy nông dân trong vùng dùng tảo biển để bón đất khi trồng rau hữu

cơ. Nông dân không phải trả tiền cho tảo biển, họ rải một lớp tảo biển rồi một lớp đất mỏng

lên trên trước khi cấy. Xét trên khía cạnh quản lý rác hữu cơ, đây là một phương pháp tốt tận

dụng phần hữu cơ tự nhiên để sản xuất. Có một vấn đề là nếu tảo biển bị lẫn với kim loại nặng

mà không phát hiện ra thì phần kim loại nặng này sẽ phá hủy rau hữu cơ.

19

Trong chuyến thăm làng rau hữu cơ Trà Quế, bất chấp việc

tham gia vào dự án ủ bằng 3 thùng ủ cho chất lượng compost

như nhau, một hộ nông dân trồng rau cho biết, ông muốn

quay lại phương thức ủ “cổ điển” ở sân nhà, ủ đống tĩnh thông

gió. Lý do chính là phương thức này cho ông compost chất

lượng phù hợp với nhu cầu trồng rau theo mùa vụ.

Bên cạnh đó, hộ nông dân cũng nhắc tới việc bón rau hữu cơ

bằng tảo biển. Rác bếp được các hộ chăn nuôi thu gom.

5. Bình Định

5.1. Hợp tác xã Dịch vụ Nông nghiệp và Môi trường Nhơn Phú, TP Quy Nhơn, tỉnh Bình

Định. Mô hình tổ chức được thể hiện như sau:

Được khởi xướng từ một dự án của Pháp, nhà máy sản xuất compost được thành lập vào năm

2005 với 50% vốn của Pháp và 50% vốn của UBND TP Quy Nhơn. Hoạt động của dự án bao

gồm 1) tăng cường nhận thức, 2) tăng cường năng lực và 3) ủ phân compost từ rác hộ gia đình

tại một nhà máy nhỏ. Từ năm 2007, HTX tiếp quản trang thiết bị và hoạt động khá độc lập.

Rác được thu gom 3 lần/tuần (từ

2h đến 5h sáng) từ 600 hộ dân, 1

trường học, 1 công ty và 1 bệnh

viện. Rác thải từ bệnh viện là

phần rác không gây nguy hại.

Rác được chuyên chở bằng xe

thô sơ gắn máy đến nhà máy.

Điểm xử lý được đặt tại khu vực

trung tâm của khu vực thu gom.

Hình 11. Xe ba bánh dùng để thu gom rác đô thị trong khoảng cách 2km, khối lượng 1,5 tấn/ngày, rác được thu gom tại nhà

máy và phân loại bằng tay.

Ban quản lý Hợp tác xã Nhơn Phú

3 ngƣời

Hoạt động nông nghiệp Có 2.884 thành viên

Dịch vụ môi trƣờng 6 người

Nông hộ trồng trọt 300ha

Sản xuất giống 20ha

Thu gom rác chưa phân loại từ

600 hộ dân, 1 bệnh viện, 1 công

ty và 1 căn tin trường học (3

lần/tuần)

Vận chuyển đến nhà máy

compost

Phân loại tại nhà máy

Ủ compost

20

Khấu hao không được tính trong chi phí

trang thiết bị. Nếu không tính đến phần

khấu hao thì nhà máy được cho là hoạt

động có tính kinh tế (cân bằng chi phí hoạt

động, bao gồm cả chi phí nhân công và thu

nhập), tuy nhiên, không có vốn cho việc

bảo trì và mở rộng.

Hình 12. Mô hình hoạt động dịch vụ môi trường tại HTX Nhơn Phú

Tại nhà máy, sau khi loại ra các phần có thể tái chế (một nguồn thu nhập tăng thêm cho nhân

công trực tiếp) và phần không thể phân hủy sinh học (Urenco chuyển đi), rác hữu cơ được

phân loại và trộn với chế phẩm E.M (pha 1 lít E.M với 50 lít nước) theo nguyên tắc tĩnh thông

gió tại các bể ủ (8 bể * 10m3/bể). Dọc theo phần trung tâm của các bể ủ, khoảng 4 đến 5 ống

nhựa đục lỗ (đường kính lỗ 0,2cm) được cắm vào đống ủ. Do nhiệt sinh ra trong quá trình ủ,

khí nóng thoát ra theo lỗ của ống tạo điều kiện nhiệt tối ưu trên đống ủ. Không khí tự nhiên

len vào ống theo các khe tường gạch của bể ủ. Quá trình kết thúc sau 40 đến 45 ngày, phân

compost sau đó được chuyển ra khu vực mở để đạo trộn trước khi sử dụng.

Hình 13. Rác hữu cơ tươi trong bể ủ, ống nhựa có lỗ thông khí cắm vào giữa đống ủ tạo độ lưu thông không khí trong đống ủ

Đáy bể được thiết kế nghiêng về phía máng lọc ở

giữa hai bể ủ. Máng lọc được nối với một bể bê

tông dưới đáy (sâu 2m *3m *4m) để chứa nước rỉ

và khi cần thiết sẽ bơm và tưới lên đống ủ để cung

cấp dinh dưỡng (chứa tỉ lệ C:N). Ngoài khu vực

phân loại, nhà máy được trang bị mái bằng sắt để

tránh mưa. Nhiệt độ trong long đống ủ được quản

Điểm thu gom

rác hộ gia đình

1

2

600+

Vận

chuyển

Phân

loại

bằng tay

Ủ đống

tĩnh thông

gió

Sau sấy

Đóng

viên

Lưu kho

& bán

Thu gom +

dọn bởi

Urenco

EM + lọc

Hữu cơ

Vô cơ

21

lý hàng ngày. Trong điều kiện lý tưởng, nhiệt độ tăng từ 300C ban đầu lên khoảng 70

0C trong

quá trình ủ. Khi nhiệt độ giảm lại xuống 300C (quá trình ủ kết thúc), sản phẩm cuối cùng sẽ

được sấy khô từ 10-15 ngày, trong thời gian này sẽ liên tục được đảo trộn. Sau đó, compost

được sàng lọc để phân loại phần mùn nhỏ với mùn to. Phần nhỏ sẽ được đóng gói và đem bán.

Hình 14. Đường ống dẫn nước rỉ đến bể chưa dưới đất.

Sản lượng sản xuất khoảng 3 tấn/tháng, giá compost 7.000đ/kg bán chủ yếu cho thành viên

HTX.

Hình 15. Sản phẩm cuối cùng

Các loại rác không phân hủy được sẽ do Urenco chở ra bãi rác Long Mỹ, 300.000đ/xe 7m3.

Hiện nay, UBND TP Quy Nhơn đang hỗ trợ 7 xe (mỗi tuần nhà máy cho chở đi 2-3 xe rác vô

cơ)

Khả năng cải thiện:

Nên sử dụng máy nghiền để nghiền nhỏ rác hữu cơ (ủ

nhanh hơn và tạo sản lượng cao hơn)

Xem xét lại việc sử dụng chế phẩm E.M

Cho thêm chất dinh dưỡng vào compost để tăng giá trị

phân bón và giá trị kinh tế

Giảm mùi bằng cách sử dụng tấm phủ lên mặt bể ủ mà

không làm ảnh hưởng đến các ống tĩnh thông gió.

22

6. TP Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng

Đà Lạt là một thành phố cao nguyên, nông nghiệp là ngành quan trọng nhất đem lại nguồn

thu nhập. Theo số liệu của Urenco Đà Lạt, thành phố thải ra 130 tấn rác/ngày từ nhiều

nguồn khác nhau như chợ (chợ ướt và chợ rau bán sỉ), hộ gia đình, nông trại, động vật

chết trên đường, nơi đóng gói. Rác thu được từ 195.365 người dân (40.760 hộ dân) là 56

tấn/ngày (0,29kg rác/người dân/ngày). Theo một nghiên cứu của Đại học Đà Lạt, có

khoảng 85,41% rác hữu cơ, tương đương với 48 tấn rác có thể ủ compost. Phòng Môi

trường Đô thị, thuộc Urenco Đà Lạt, có trách nhiệm thu gom, vận chuyển và xử lý rác đô

thị. Đơn vị này có 231 nhân viên (170 phụ nữ).

Hình 16. Thu gom rác đô thị tại thành phố Đà Lạt. Nguồn: PACMO PMU

Rác thu gom (khoảng 60%) được chuyển ra bãi rác tự nhiên rộng 12ha ở quận 5, TP Đà Lạt.

Tại bãi rác này, không có bất cứ biện pháp quản lý độ ô nhiễm như nước rỉ, mùi hôi và bãi rác

cũng đã ngập rác thành phố qua rất nhiều năm.

6.1. Dự án PACMO

Bên cạnh hoạt động quản lý rác thải do Urenco Đà Lạt điều hành, có một dự án nổi bật tại

thành phố: PACMO. Mục tiêu của dự án là thu nhỏ diện tích bãi rác tại TP Đà Lạt, từ đó rác

hữu cơ được tái sử dụng.

Cơ cấu của dự án được thể hiện như sau:

Phó Chủ tịch UBND TP: Giám đốc dự án

Phó phòng Kinh tế: Điều phối viên dự án, Quản lý dự án

Trợ lý dự án (nhân viên của UBND)

Công ty Organik: Đơn vị triển khai

Trại Langbian Urenco: Đối tác dự án

Công ty môi trường xanh Đà Lạt: Đối tác dự án

Dự án PACMO do ADEME tài trợ (Cơ quan Môi trường và Năng lượng Pháp) với 30% vốn

do UBND Đà Lạt tài trợ. Đơn vị triển khai có các đơn vị tư nhân như Công ty Organik, Công

ty Môi trường xanh. Dự án nghiên cứu 3 mô hình quản lý và ủ rác hữu cơ: tại hộ gia đình, tại

nông trường (rau quả) và chợ.

23

6.1.1. Hộ gia đình:

Xã Xuân Thọ là nơi các hộ gia đình xả rác ra môi trường tự nhiên (rừng, sân, đường phố, và

dòng nước chảy trong vùng) vì Urenco không hoạt động ở khu vực này. Tất cả các hoạt động

của dự án trong xã có thể được miêu tả như sau:

Giai đoạn bắt đầu:

- Hội thảo: dự án đã tổ chức một ngày hội thải giới thiệu mục tiêu và hoạt động của

dự án cho tất cả các đối tượng (đại diện hộ gia đình, cán bộ địa phương, giáo viên

tiểu học, thành viên dự án); nội dung của buổi hội thảo là giúp các đối tượng biết

cách phân loại rác hữu cơ và vô cơ, giới thiệu tầm quan trọng của việc phân loại

hai loại rác này trong quá trình xử lý,…

- Lựa chọn hộ gia đình trong dự án: trong hội thảo, các hộ gia đình quan tâm được

lựa chọn dựa theo sự tự nguyện, nhận thức tốt về hoạt động dự án; phù hợp với các

mô hình (có đất và không có đất)

- Thí điểm tại chỗ: ngày hôm sau, nhân viên dự án đã lắp đặt các thùng ủ compost

và trang thiết bị cho các hộ gia đình.

Công nghệ: phân loại và ủ tại nguồn sử dụng thùng ủ, ruồi lính đen, trùn đỏ và quá

trình ủ tự nhiên.

- Phân loại tại hộ gia đình: trung bình mỗi hộ dân ở xã Xuân Thọ thải ra 1,19kg rác

hữu cơ/ngày (433kg/năm). Thùng ủ có dung tích (80cm*60cm) đủ lớn để lưu rác

hộ gia đình cho cả năm.

Thùng ủ: đây là một sáng chế của một chuyên gia quốc tế (Paul Olivier). Thùng

cao 80cm và đường kính 60cm được làm bằng bê tông, có các lỗ thoáng bên thành

thùng và 2 nắp đậy phía trên. Nắp nhỏ dùng để đổ rác vào còn nắp lớn được mở 10

ngày/lần để đảo trộn phần bên trong.

Hình 17. Thùng ủ compost không đáy.

Nguồn: PACMO PMU

Hình 18. Thùng ủ compost có đáy. Nguồn: PACMO PMU

Thùng được thiết kế từ 3 mảnh bê tông lắp lại bằng các sợi sắt, mục đích dùng bê

tông làm chất liệu là để: chống trộm cắp, tránh việc chó bới rác, chống oxy hóa, rẻ

(300.000đ/thùng), sản xuất tại địa phương (tạo thu nhập cho người địa phương).

24

Tùy vào diện tích đất có thể dùng 2 loại thùng:

thùng có đáy dùng cho nhà có đất hạn chế/đất

dễ bị lụt (hình 8) và thùng không đáy dùng cho

đất có sẵn tại hộ gia đình.

Để tránh nước rỉ (mặc dù rất nhiều chất dinh

dưỡng cho cây) từ thùng không đáy, người ta

khuyến khích trồng một số cây non xung

quanh khu vực đặt thùng (ví dụ như chuối).

Đối với thùng có đáy, người ta đục một lỗ dưới

đáy để nước rỉ ra một cái xô nhựa, đây là một

nguồn phân bón rất tốt.

Hình 19. Thùng ủ compost đang được sử dụng tại xã Xuân Thanh, huyện Xuân Thọ.

- Ruồi lính đen được coi là một loài nhộng phàm ăn nhất trong thế giới tự nhiên.

Trong một ngày, ruồi lính đen có thể giúp giảm khối lượng rác tương đương 20

đống rác bếp. Trong 1m2, nhộng ruồi lính đen có thể ăn 40kg thức ăn thừa mỗi

ngày. Trong 2 tuần là nhộng, chúng chỉ ăn.

Sau đó, để đẻ trứng, ấu trùng tìm chỗ

khô, tối trung thùng hay bên ngoài

thùng. Đây là giai đoạn tốt cho việc

thu hoạch nhộng. Ông Paul Olivier

cho biết nhộng ruồi lính đen rất giàu

dinh dưỡng và có thể dùng để thay

thế cho bột cá trong thành phần thức

ăn gia súc với giá thị trường là

1.000USD/tấn.

Hình 20. Ruồi lính đen trưởng thành, nhộng ruồi lính đen, trùn đỏ trong thùng ủ. Nguồn: PACMO PMU

- Trùn đỏ: đối với các phần rác nhiều đường mà ruồi lính đen bỏ lại, trùn đỏ lại dễ

dàng tiêu hóa. Bản thân trùn đỏ và sản phẩm khác tạo ra từ nó là những loại phân

bón hữu cơ tốt nhất cũng như là loại thức ăn thủy sản hay nuôi gia cầm.

Đầu ra

- Không phải chi phí cho việc quản lý rác đô thị

- Nhộng/trùn đỏ cho phân bón chất lượng cao cho cây trồng

- Nhộng/trùn đỏ cho đạm chất lượng cao để làm thức ăn gia súc

- Không mùi

- Phân compost cho vườn/cây cảnh

25

Quản lý và giám sát

- Quản lý

o Các hộ gia đình trong dự án được nhận thùng ủ miễn phí

o Hộ gia đình trong dự án phải áp dụng quy trình một cách chặt chẽ như loại rác,

trộn rác (từ ngoài vào trong, từ trên xuống dưới)…

o Mỗi hộ gia đình nhận 100.000đ/tháng trong suốt 5 tháng đầu tiên thực hiện dự

án.

o Các hộ gia đình cam kết triển khai mô hình trình diễn.

o Các hộ gia đình cam kết không để lẫn rác vô cơ trong thùng ủ (có đề xuất

thưởng phạt nếu tìm thấy rác vô cơ trong thùng, phí phạt dao động từ 100.000đ

đến 1.000.000đ nếu để lẫn pin)

- Giám sát: Các hộ gia đình sẽ bị phạt nếu để lẫn rác vô cơ trong thùng ủ.

6.1.2. Nông trường: trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, nhóm chuyên gia đã đến thăm nông

trường Organik ở xã Xuân Thọ, cách trung tâm

thành phố Đà Lạt 10km. Nông trường sản xuất rau

chất lượng cao như cà chua bi, rau răng hổ (rucola),

rau diếp, xà lách và cung cấp cho 5 nhà hàng ở TP

Hồ Chí Minh. Chủ nhiệm nông trường cũng chính

là người thực hiện dự án PACMO. Tấm liếp ủ

compost hiện tại được coi như một thí nghiệm,

trong đó có hai yếu tố thí nghiệm được nghiên cứu:

1) tỷ lệ giữa rác xanh và phần phụ gia (xơ dừa, vỏ

cà phê, rơm); 2) sử dụng tấm phủ toptex.

Hình 21. Rác đang được gom lại nông trường Organik. Nguồn: PACMO PMU

Đầu vào lấy từ chợ Nông sản Đà Lạt; rau từ trang trị, nhà máy chế biến đồ xuất khẩu, chợ ướt.

Sản phẩm compost tại thời điểm này được dùng để bón cho cây cà phê và trà của nông

trường.

Công nghệ: Điểm hạn chế của quy trình ủ truyền thống là mất thời gian. Chính vì vậy,

giảm thời gian ủ là một trong các mục tiêu của dự án. Việc dùng tấm phủ toptex trong

điều kiện hiếu nhiệt giúp giảm thời gian ủ xuống còn 45 đến 60 ngày (phương thức ủ

truyền thống mất 100 nếu nhiệt độ bên ngoài ổn định). Bên cạnh đó, rác hữu cơ tươi

chứa 80% nước, nước hấp thu được dùng trong quá trình sấy khô compost thô, việc

này giúp giảm lượng lớn nước rỉ từ compost cũng như mùi do nó gây ra.

- Toptex là một vật liệu làm từ nhựa PP (polupropylene), nó cung cấp hiếu khí, tránh

mưa và giữ được nhiệt độ ổn định bên trong cho các hoạt động vi sinh vật ủ phân

hiếu khí. Chất xơ phủ lên trên giúp giảm độ ẩm trong quá trình bay hơi và giúp

giảm nước rỉ ra bề mặt đất. Toptex là một vật liệu nhẹ (200gr/m2) với độ bền từ 4

đến 10 năm. Giá bán cho nông dân Đà Lạt là 10.000đ/m2 (0,55USD) (thông tin cá

nhân).

26

- Trong quá trình ủ, cần giám sát các điều kiện về độ ẩm (50-60%), nhiệt độ (650C),

pH<8, tuyệt đối không có lỗ hổng, tỷ lệ C:N là 30:1 và điều kiện khác (CO2≤20%;

O2>5%; Ni tơ 100-300ppm; ở mức không phát hiện Nitrite).

- Kết quả kiểm soát chất lượng compost: nhờ sự giúp đỡ của Dự án PACMO Đà

Lạt, nhóm chuyên gia đã so sánh kết quả này với tiêu chuẩn của Bộ NN&PTNT.

Hình 22. Đổ đống và nhặt các phần rác không thể phân hủy sinh học ở khu vực ủ. Nguồn: PACMO PMU

Hình 23. Trộn thêm chất phụ gia (vi sinh vật hiệu quả và CaCO3). Nguồn: PACMO PMU

Trộn compost theo tỷ lệ 80:20 (đây là tỷ lệ tốt nhất thu được từ thí

nghiệm) giữa rác và phụ gia (bã dứa khô, rơm, vỏ cà phê, mùn cưa, lõi

ngô). Hỗn hợp này trộn với phụ gia nhằm mục đích hút ẩm từ rau tươi.

Nghiền

Chất đống (cao 2,5m, chiều dài tùy chọn)

Kiểm tra và điều chỉnh điều khiện môi trường bên trong

Phủ tấm Toptex, chặn hai bên và phía cuối đống ủ bằng thanh/đá/gạch

gỗ để tránh bị thấm nước

Cứ 6 đến 10 ngày đảo trộn 1 lần

Kiểm tra chất lượng compost sau 60 ngày

27

Bảng 2. So sánh đơn giản giữa tiêu chuẩn nông nghiệp cho các chất lượng sản phẩm compost ủ từ rác đô thị TCVN

562-2002 của Bộ NN&PTNT (2002) và chất lượng compost của nông trường Organik (Nguồn PACMO PMU,

2010)

Tham số Đơn vị Chuẩn Phân compost Đà Lạt

Độ ẩm % 35 57.4

pH 6,0 – 8,0

VSV hiếu khí CFU/g 106 5.3*106

Carbon % 13 35

N % 2,5 1.1

P % 2,5 1.75

K % 1,5 1.8

Salmonella (một loại vi

khuẩn gram âm) CFU 0 0

Pb mg/kg 250 0.36

Cad mg/kg 2,5 0.0069

Cr mg/kg 200

Cu mg/kg 200 5.86

Ni mg/kg 100 0.61

Zn mg/kg 750 21.53

Hg mg/kg 2 0.054

Thời gian lưu kho tháng 6

Do thành phần N:P:K trong phân compost thấp

nên cần phải trộn với phân dê mua trong vùng.

Hỗn hợp được trộn với tỷ lệ 1:1, giá phân dê là

25.000đ/bao trộn với compost giá 18.000đ/bao

(tương đương với 18kg)

Theo ông Nguyễn, người triển khai dự án, công

nghệ compost áp dụng ở Đà Lạt đóng vai trò lớn

trong mục tiêu của dự án: 1) giảm việc đổ rác

hữu cơ ra bãi rác; 2) cung cấp độ tơi xốp cải tạo

đất; 3) phân quyền trong việc xử lý rác hữu cơ;

4) tăng cường nhận thức của cộng đồng/ngành.

Hình 24. Sản phẩm compost hoàn thiện (45 ngày)

Có một vài giải pháp đơn giảm giúp tăng giá trị của phân compost.

Một phƣơng án khả thi để ủ compost tại chỗ:

Giả sử nông dân Bình Định có thể thu gom được lượng rác xanh để đổ đống dài 10m

và rộng 2m. Anh ta sẽ cần một tấm phủ toptex dài 18m, (10m + 2*2 + 4m thừa để

chặn ở các bên của đống ủ). Kích cỡ tiêu chuẩn của tấm phủ với chiều rộng 5m là

90m2. Giá vào thời điểm hiện tại của tấm phủ này là 10.000đ/m

2, tức là người này cần

chi 900.000đ để dùng trong 4 đến 10 năm. Loại tấm phủ 18m này sẽ bao phủ gần

20m3 cho mọi loại nguyên liệu compost. Việc ủ sẽ hoàn thành sau 40 ngày. Trong

vòng 1 năm, người nông dân này có thể ủ được 180m3 rác xanh mà không mất tiền

vận chuyển. Việc phân quyền trong vấn đề xử lý rác thải là một yếu tố rất quan trọng

ở bất cứ tỉnh thành nào của Việt Nam (theo ông Paul Olivier – bài thuyết trình tại hội

thảo giới thiệu của dự án PACMO)

28

Gia tăng giá trị của sản phẩm tại trại: sản phẩm compost đã được gia tăng giá trị sử

dụng cho vườn và trại trồng rau tại TP Đà Lạt, kết quả cho thấy mức tăng trưởng tốt và

chống chịu với bệnh cao. Một kết quả kinh ngạc từ việc ủ theo phương pháp hiếu nhiệt

toptex là giúp giảm đáng kể tồn dư thuốc trừ sâu. Tất nhiên sẽ cần phải có nghiên cứu

sâu hơn, nhưng theo TS. Nguyễn, nhóm vi sinh vật đóng vai trò quan trọng trong việc

giảm cấu trúc hóa học của tồn dư thuốc trừ sâu.

Hình 25. Ủ phân compost bằng phương pháp hiếu nhiệt Toptex tại trại. Nguồn: PACMO PMU

6.1.3. Chợ Nông sản: nhóm chuyên gia đến thăm chợ nông sản Đà Lạt tại Trại mát, cách trung

tâm Đà Lạt 12km. Hàng ngày chợ thải ra 40 tấn rau quả tươi. Để đáp ứng nhu cầu của khách

hàng, rau thừa được thu gom, mang lại 25% rác tươi xanh. Khoảng 10% phần rác này được

dùng để cho lợn, thỏ, cá, gia súc và ngựa ăn. Hàng ngày, phần rác hữu cơ của chợ được ủ

compost:

Hình 27. Lá bắp cải tại chợ nông sản Đà Lạt Hình 26. Nông dân nuôi lợn lấy lá bắp cải cho gia súc,

Gom rác vào khu vực nhà máy sản xuất compost (50m phía cuối chợ)

Nghiền (máy tự chế trong nước, thiết kế cho hai loại rác: lá / rễ)

Ép nước

Đánh tơi (sau quá trình ép thành bánh, máy đánh tơi giúp phá vỡ hình dạng, trở thành

rác tươi khô, nhỏ)

Trộn (trong máy này, rác mềm khô được trộn với CaCO3 – 2,5kg/1 tấn rác)

Đổ đống ngoài trời (cứ 2 đến 3 ngày lại đảo trộn 1 lần để cung cấp hiếu khí cho đống ủ)

Phân compost (sau 60 ngày)

29

100kg/ngày nuôi 30 con gia súc.

Hình 29. Hình ảnh nhà máy chế biến compost tại chợ Đà lạt Hình 28. Đổ rác vào máy nghiền

Hình 30. Rác xanh sau khi ép Hình 31. Compost sau 7 ngày (đống màu nâu); compost sau

3 tuần (đống màu tối)

Điểm yếu và một vài giải pháp

Nước rỉ: tại thời điểm này, nhà máy thải ra 8m3 nước sau quá trình ép. Lượng nước này được đổ vào

một bể chứa sau đó chuyển vào trung tâm xử lý rác lỏng của thành phố, với chi phí 50.000đ/m3.

Mất đi một lượng chất lỏng có giá trị dinh dưỡng cao, Nhà máy phân bón Bình Điền sẽ trả cho

Công ty môi trường Xanh 400đ/kg để mua lại phần chất lỏng này, hợp đồng sẽ được ký trong

tương lai gần.

Có thể xây một hệ thống kênh để dẫn nước rỉ này đến các trang trại gần nhà máy

Có thể xây dựng phá để phân lọc phần cặn có giá trị dinh dưỡng cao còn bề mặt nước sạch có

thể thải ra tự nhiên.

30

Quản lý rác đô thị trên thực tế

Hình 32. Rác sau 1 ngày thu gom được phân loại và ủ, ngay

tại chỗ

Hình 33. Rác hỗn hợp tại Hồ Xuân Hương, điểm đen là con

lợn chết.

Nhận xét

Mô hình hộ gia đình

1. Đây là một mô hình vô cùng thành công cho việc quản lý rác tại hộ gia đình nói chung và việc quản lý

rác hữu cơ nói riêng.

2. Các hộ gia đình ở mức tiêu chuẩn của Việt Nam có đủ khả năng để trang bị thùng ủ (300.000đ/thùng)

3. Thu hoạch 2 lần/năm, tính về hiệu quả kinh tế, hộ gia đình đã tiết kiệm được một khoản nhờ tự sản xuất

compost trong khi giá compost tại Đà Lạt là 200.000đ đến 250.000đ/m3.

4. Theo khía cạnh sinh thái học, mô hình này đưa ra một giải pháp tổng thể để xử lý rác hữu cơ tại nguồn

mà không ảnh hưởng đến môi trường sinh thái.

Mô hình nông trại.

5. Là mô hình lớn hơn hộ gia đình, ủ phân tại trại mang lại một giải pháp thành công trong việc giảm rác

xanh thải ra môi trường trong quá khứ và vẫn đang diễn ra ở Đà Lạt.

6. Bón phâm compost giúp tái cấu trúc đất

7. Phương pháp ủ bằng tấm toptex giúp giảm thời gian ủ và công nghệ chi phí rẻ

8. Với các chất phụ gia có được tại địa phương, compost có thể trở thành phân bón giá trị thay thế phân

hóa học.

9. Ủ phân tại trại giúp giảm nguy cơ truyền bệnh cây trồng từ trại này sang trại khác.

Mô hình chợ.

10. Ủ tại chợ giúp giảm phí thu gom và vận chuyển rác.

11. Máy móc tự sản xuất trong nước giúp giảm chi phí đầu tư đến mức tối đa có thể

Nhận xét chung:

I. Rõ ràng là TP Đà Lạt đang thực hiện việc xử lý rác tại nguồn, đặc biệt là xử lý rác thải hữu cơ.

Chiến lược này giúp giảm một cách đáng kể việc duy trì một trung tâm ủ compost tốn kém, tập

trung và không hiệu quả.

II. Vấn đề mấu chốt nằm ở chỗ: 1) tăng cường ý thức của người dân, chính quyền, ngành và trẻ em; 2)

sự hết lòng và động lực của thành viên dự án; 3) hỗ trợ tốt từ chính quyền địa phương, nhà khoa

học (trong nước và quốc tế); 4) những người tham gia dự án hiểu biết về giá trị compost (cải tạo

đất).

III. Với quy mô sản xuất như thế nào đi chăng nữa thì đều có các phương án phù hợp và khả thi, do đó,

nhiều người chấp nhận công nghệ này.

IV. Mọi mô hình ở Đà Lạt chắc chắn khả thi với việc quản lý rác hữu cơ của Bình Định.

31

Tại thượng nguồn hồ Xuân Hương, các xã thường đổ rác xuống nước, rác chảy theo dòng

nước xuống hồ Xuân Hương với khối lượng khoảng 300m3/ngày trong mùa mưa (6

tháng/năm). Rác bao gồm rác vườn, bếp, nhựa, chai rỗng (thức ăn, thuốc trừ sâu, thuốc diệt

cỏ), gia súc chết,…

Hiện tại, Công ty Môi trường xanh là đơn vị chính chịu trách nhiệm thu gom, phân loại và ủ

rác thu được tại hồ Xuân Hương. Hàng ngày, rác thu được từ hồ được gom lại tại khu vực

phía cuối hồ, có 4 đến 5 công nhân phân loại và chất đống tùy theo từng loại. Đối với rác hữu

cơ, việc ủ tại chỗ được thực hiện hàng ngày. Công nghệ áp dụng ở đây tương tự như tại chợ

nông sản Đà Lạt (Nghiền, ép, đánh tơi, trộn và ủ đống).

32

Từ rác bếp đến năng lƣợng:

Phân loại tại nguồn các thành phần hữu cơ của rác đô thị thu được

2,9kg/hộ gia đình/tuần với dưới 2,5% vấy nhiểm. Trong tổng số,

có 23,2 tấn rác bếp được đổ ra bãi rác. Độ ẩm trung bình của rác

bếp đã phân loại là 78,4%, và phần chất rắn bay hơi là 92,4%.

Phân hủy hiếu nhiệt (560C) của rác bếp được coi là ít ổn định hơn

là phân hủy dưới điều kiện nhiệt cao. Phân hủy dưới điều kiện

nhiệt cao trung bình (36,50C) tạo môi trường đệm lớn hơn, mạnh

hơn để thay đổi hay tích lũy những hóa chất ức chế. Biogas ở

trong cả 2 trường hợp chứa 58% metan. Hệ thống phân hủy nhiệt

sản xuất ra 164m3/tấn, trong khi phân hủy hiếu khí sản xuất ra

157m3/tấn.

7. TP Hồ Chí Minh

7.1. Tái sử dụng chất thải từ bếp làm thức ăn chăn nuôi tại Phường Tân Tạo, Quận Bình Tân.

7.1.1. Chăn nuôi lợn

Việc nêu ra tính chất của rác bếp là một việc khá quan trọng, trong một nghiên cứu quốc gia

về khả năng phân hủy rác bếp thực hiện tại Anh (Southampton UR và Greenfinch Ltd., 2003),

có 17% là rác bếp trong tổng lượng rác hộ gia đình, trong đó 60% được ủ từ hoa quả chưa

nấu. Trứng và thịt sống chiếm tỷ lệ thấp, lần lượt là 1,3% và 1,4%; 12% là thịt đã qua chế

biến. Trong một nghiên cứu khác, theo các nhà nghiên cứu của Thái Lan (Jayalakshmi, et al.,

2007) (giả sử bếp Thái Lan và Việt Nam tương tự như nhau), tính chất của rác bếp có giá trị

như sau:

Tại Đài Loạn, khoảng 20-30%

(khối lượng) rác hộ gia đình là

rác bếp, bao gồm các phần dư

thừa của bữa ăn, lá rau, vỏ hoa

quả và vụn thức ăn. Rác bếp có

thành phần hữu cơ và độ ẩm

cao, việc đốt rác bếp là một vấn

đề do độ ẩm và độ mặn; nếu thải

ra bãi rác, mùi khó chịu và

lượng lớn nước rỉ là một mối lo

khác. Mặt khác, do tỷ lệ hữu cơ

và độ ẩm cao, rác bếp có thể

được dùng để tái chế và tái sử dụng, giúp không chỉ giảm áp lực lên hệ thống xử lý rác mà

còn phù hợp với xu thế quản lý tài nguyên ổn định của thế kỷ 21. Năm 2009, tổng lượng rác

bếp thu được và tái sử dụng là 721.472 tấn. Chính phủ Đài Loan dự báo đến năm 2012, tổng

lượng rác bếp tái sử dụng là 769.000 tấn (Environmental Protection Administration Executive

Yuan, 2010).

Do vậy, dự án nghiên cứu tái chế rác hữu cơ ở Bình Định cần cân nhắc các giải pháp quan

trọng này để giảm lượng rác hộ gia đình (thành phần chất rắn bay hơi cao) thải ra bãi rác hoặc

xử lý bằng các công nghệ phức tạp.

pH 5.5

Chất rắn dễ bay hơi (% VCK) 86.0

Các bon hữu cơ (% VCK) 48.1

Tổng chất rắn (%VCK) 16.14

Độ ẩm (%) 83.86

Tổng Kjeladal Nitrogen (% VCK) 2.26

33

Hình 34. Phương tiện thu gom rác bếp (xe máy), thùng chứa nước tái sử dụng (khối lượng 300 lít) để nấu rác bếp, lợn 4

tháng tuổi được ăn thức ăn nấu lại từ rác bếp, ao cá trồng hoa bìm bìm.

Thực tế là, sau khi được BQLDA Bình Định đồng ý lựa chọn các trường hợp nghiên cứu,

nhóm chuyên gia đã thăm quan một trại tổng hợp nuôi 70 con lợn từ lợn nái đến lợn con,

phần lớn là để nuôi lấy thịt (khoảng 65kg trọng lượng cơ thể), phân lợn được gom vào

một cái thùng nhựa để phân hủy sinh học, chất thải sau khi dùng cho hệ thống biogas

được tưới nôi bìm bìm và nuôi cá ở ao. Hàng ngày, lượng rác bếp thu được từ 12-13 nhà

hàng và căng tin cách nông hộ khoảng 5km được gom trong một cái can đơn giản (khối

lượng khoảng 20lit). Tại nông hộ này, rác bếp được nấu lại (khử trùng ở nhiệt độ cao)

khoảng 2 tiếng trước khi cho ăn. Thức ăn cho lợn gồm có bánh đậu nành và bã bia, phần

rác bếp được nấu lại, và 1-2% thức ăn tinh. Giá trị dinh dưỡng của thức ăn nấu lại từ rác

bếp là không rõ ràng, và hộ nông dân này cũng không có ý định tìm hiểu thêm.

34

Phần biogas dư thừa về mặt lý thuyết sẽ được

chuyển cho hàng xóm để đun nấu, nhưng trên

thực tế lại thải ra môi trường (ý tưởng được

lựa chọn: mua một loại máy sản xuất ra nước

nóng đơn giản, ví dụ như để tắm. Cần phải

nhớ rằng việc thải khí biogas ra môi trường là

một việc làm không mang tính ổn định)

Cho lợn ăn bằng rác bếp nấu lại giúp giảm chi

phí thức ăn từ 60-70% so với việc cho ăn bằng

thức ăn tinh. Do lượng thu được hàng ngày thấp

nên nếu cho ăn bằng rác bếp nấu lại, chu trình vỗ

béo kéo dài từ 5-7 tháng, trong khi nếu nuôi bằng

thức ăn tinh thì chỉ mất 4 tháng. Nếu so sánh với

thức ăn tinh, chất lượng thức ăn từ bếp được hấp

thụ gấp 3 lần về khối lượng.

Tất cả phân gia súc (phần chất lỏng sệt sau quá trình xử lý biogas) được thải trực tiếp vào một

bể chứa bằng nhựa (hố phản ứng phân hủy), đặt ở ao gần trại, nơi chạy biogas. Hố phản ứng

phân hủy này có dung tích 8m3 và hoạt động liên tục. Phần chất lỏng được đưa đến đáy hố

Hộ gia đình, nhà hàng, căng tin

Rác bếp/nước gạo

Người thu gom (nông dân chăn nuôi, lái buôn)

Lợn Cá

Nấu lại (2-3 tiếng) Cho ăn trực tiếp

Ăn thêm với 1-2% thức ăn tinh, bã bia/bã đậu nành

Cho ăn

Trong chăn nuôi, thức ăn thường chiếm 70% chi phí. Hãy xem chi phí

thức ăn nếu nấu lại từ rác bếp cho trang trại nuôi lợn 70 con

Đầu vào:

13 thùng chứa (20lít) * 10,000VND/thùng =

2 bao bánh đậu nành (20 lít) * 15,000VND/bao =

10 bao bã bia * 2,500VND/bao=

2 lít dầu hỏa /d * 17,500VND/lít =

1 kg thức ăn tinh *

Đầu ra:

Vỗ béo 100kg trong 5 tháng * giá thị trường =

Biogas dung tích 8m3

Cá * giá thị trường =

Cây bìm bìm =

Giá trị môi trường gia tăng:

Giải pháp ổn định trong việc quản lý rác thải trong vùng

35

Hộ gia đình, Nhà hàng, căng tin, chợ cá

Rác bếp, cá thừa

Người thu gom (hộ chăn nuôi, lái buôn)

Cho ăn thêm 1-2% thức ăn tinh

Cho ăn tươi

phân hủy bằng một phía và chất thải được đưa ra phần trên của phía kia. Chất thải được

chuyển ra ao nuôi cá và rau (cây bìm bìm).

Biogas sản xuất ra được dùng để đun nấu trong nhà và nấu lại rác bếp. Hố phân hủy được dọn

dẹp 2 năm/lần (dọn sạch phần cặn rắn). Trong vùng có 60 mô hình trang trại với 5.000 con

lợn hoạt động tương tự.

7.2. Nuôi trồng thủy sản, Hiệp hội nông dân Bình Tân

Tổng lượng rác bếp (bao gồm khoảng 100kg cá dư thừa) được tái sử dụng hàng ngày ở trang

trại nuôi thủy sản này là 20 thùng cộng với 25kg thức ăn tinh. Rác bếp do mối lái thu gom từ

các nhà hàng, cơm bình dân, căng tin (khu công nghiệp) xung quanh bán lại. Họ chở thùng

chứa bằng xe máy (xem ảnh).

Hình 35. Cân, cho ăn và toàn cảnh việc cho thủy sản ăn rác bếp nấu lại, cá đang ăn (phần màu nâu vàng là phần dư

của thức ăn nấu từ rác bếp)

Tại trại, rác bếp và cá dư thừa được

cân và cho cá trong ao ăn trực tiếp

(xem ảnh). Trên mặt nước rộng 1ha

nuôi 3 loại cá: cá ăn trên bề mặt

nước, cá ăn tầm trung và cá ăn dưới

đáy. Mỗi loại cá có chức năng riêng

và sẽ ăn hết toàn bộ thức ăn. Người

chủ hộ chia sẻ, mặc dù cá nuôi trong

1ha nhưng nếu dùng lồng để ngăn thì

tỷ lệ tăng trưởng sẽ nhanh hơn rất

nhiều. Cá trong các lồng

(4m*8m*2,5m sâu) ăn được nhiều

thức ăn hơn mà không tốn nhiều

36

công sức. Cá nuôi trong lồng có thể bán sau 4 tháng.

Tỷ lệ tăng trưởng/kinh tế của cá được ăn thức ăn nấu từ rác bếp và thức ăn công nghiệp là:

1. Rác bếp: 15kg cá giống – 4 tháng = 800 cá thịt (trọng lượng 300-400gr/con *17.000 –

20.000 đ/kg)

2. Thức ăn tinh: 15kg cá giống – 3 tháng = 800 cá thịt (cùng trọng lượng/giá)

Tại quận Bình Tân, có 17ha nuôi trồng thủy sản của 10 trang trại nuôi cá bằng lồng và 36

trang trại nuôi cá tự do, tất cả rác thải từ bếp được sử dụng làm thức ăn.

Nói tóm lại, lợi nhuận từ một mô hình tốt của việc sử dụng rác thải bếp có thể được miêu tả

như sau:

Hình 36. Một trường hợp cho thấy lợi ích đối với nông dân, hộ gia đình và chính quyền về việc tái sử dụng rác bếp

7.2. Rác hữu cơ từ việc quản lý chăn nuôi: Ủ phân trùn quế Hương Trung và Hợp tác xã chăn

nuôi lợn Tiên Phong.

Tại HTX này, có 14 trang trại thành viên với tổng số 3.500 lợn nái và 30.000 lợn thịt. Trước

đây, con số này cao hơn nhưng do dịch lợn tai xanh, nông dân đã kiểm soát lại số lượng đàn.

Chất thải rắn từ trang trại được trộn với nấm Tricoderma trong 45 ngày. Sản phẩm này được

dùng làm phân bón cho cao su, trà và cà phê ở vùng cao nguyên Tây Nam. Một phần phân

khác được dùng để cho trùn ăn. Trùn được nuôi dưới gốc cây cao su rộng 10ha. Diện tích thu

hoạch trùn đã giảm 1/5 so với năm 2007, việc giảm sản lượng trùn là do thị trường còn hạn

chế. Thay vào đó, nông hộ này đã sản xuất phân bón dạng lỏng để bón lá.

Phần cứng trong chất thải biogas được trộn với phân rắn trong quá trình ủ để sản xuất ra sản

phẩm cho cây trồng có giá trị dinh dưỡng cao. Quy trình quản lý phân của HTX:

Nông trại có 5.000 con lợn *

6,5kg rác bếp/ngày = 32,5

tấn/ngày

Nông trại có 5.000 con lợn *

6,5kg rác bếp/ngày = 32,5

tấn/ngày

Nông trại có 5.000 con lợn *

6,5kg rác bếp/ngày = 32,5

tấn/ngày

+

+

Môi trƣờng

xã hội ổn

định

37

Trùn được nuôi theo luống, nền xi măng (cao 20m), đặt giữa các hàng cao su, được rải một

lớp nền (hỗn hợp 1 phần phân lợn và 3 phần phân bò). Điều này đảm bảo điều kiện tốt nhất

(độ lan tỏa nhiệt thấp, có bóng mát, tốc độ gió chậm) cho việc nuôi trùn quế và cho 80 nhân

công.

Hình 37. Quang cảnh nuôi trùn quế tại rừng cao su 10ha (dưới tấm phủ xanh là nơi nuôi trùn), các điểm cho ăn trên bề mặt,

chia phân (hỗn hợp của phân lợn/bò với nước), muỗng cho ăn dài để dễ với tới giữa luống trùn, nhà máy chế biến trùn, sản

phẩm trùn để tưới gốc và tưới lá.

Lợn nái Lợn thịt

↓ ↓

Phân loại phân lỏng và phân rắn

↓ ↓

Lỏng Rắn

↓ ↓ ↓

Phân hủy sinh học Trộn với nấm trichoderma Nuôi trùn

– compost

↓ ↓ ↓

Phát điện Phân bón cây trồng Trùn

Phân trùn

Bã trùn

38

Luống nuôi trùn có kích thước 1,5m rộng * chiều dài tùy chọn * 0,2m cao, được rải một lớp

nền bằng lá cao su và một lớp mỏng bã trùn còn lại từ lần thu hoạch trước, sau đó rải trùn lên

lớp nền, trùn được cho ăn 2 lần/ngày bằng cách đổ hỗn hợp phân lỏng lên bề mặt thành từng

đống. Trùn bắt đầu ăn phân, lớn và sản xuất. Các đống phân tươi tròn (đường kính khoảng

30cm) được rải đều trên bề mặt phân. Để làm được điều đó, người ta dùng 2 cái muỗng nhựa

gắn vào gậy bằng tre và đổ thức ăn lỏng lên luống trùn. Trùn sẽ di chuyển đến vùng có phân

tươi.

Trung bình cứ 1 kg trùn sẽ ăn hết 1kg thức ăn/ngày. Giá của phân lợn dao động từ 5.000 -

10.000đ/bao 20kg (tùy thuộc vào phân của lợn nái hay lợn thịt); phân bò giá từ 4-5 triệu

đồng/xe 10m3.

Việc thu hoạch trùn và phân trùn được thực hiện hàng tháng, cứ mỗi 1m2 đất sẽ cho 2kg trùn

và 60kg phân trùn. Trước đây trùn tươi được bán cho trại nuôi tôm với giá tốt, tuy nhiên, tại

thời điểm hiện tại, việc nuôi tôm đang giảm dần, chính vì vậy, thị trường này rất hạn chế dẫn

đến việc sản xuất trùn giảm.

Trong suốt 4 năm, lượng trùn sản xuất được vẫn còn tồn dư. Hộ nông dân đã dùng trùn tồn

kho để sản xuất phân bón chất lượng cao bằng cách gia tăng chất lượng với nấm tricoderma

và khoáng vi sinh. Từ đó, ông đã thành lập nhà máy chế biến và bán phân với giá 2.000 –

2.500 đ/kg (thông thường giá phân bón là 1.500 đ/kg), công suất nhà máy là 50 tấn/ngày, tại

thời điểm này, mọi sản phẩm sản xuất ra đều được bán hết.

Phân bón được bán cho các trang trại trồng rau, trà, vườn ở Đà Lạt, trại trồng hoa lan, mì và

cao su của hiệp hội cà phê Chu Se, tỉnh Tây Ninh, nông dân trồng lúa ở đồng bằng sông

Mekong.

Đối với phân bón chất lượng cao, trùn đang được dùng để chế biến (nghiền và li tâm lấy chất

chiết) phân bón lỏng để bón lá hoặc rễ cho cây vườn và cây công nghiệp (can 5 lít hoặc 1 lít).

Nhóm làm việc cùng trao đổi việc sử dụng chất nền khác (ví dụ như rác bếp) để ủ trùn quế và

thấy cần có thêm nghiên cứu về vấn đề này. Hộ nông dân này đã thuê một viện nghiên cứu để

sản xuất loại phụ gia phù hợp để tăng cường chất lượng loại phân trùn quế hiện tại với giá 100

triệu đồng. Tại thời điểm này, việc cải tiến đã đem lại sự tự tin lớn đối với sản phẩm mới, một

loại phân bón chất lượng cao chế biến từ compost tồn kho.

39

Các yếu tố kinh tế và kỹ thuật:

Sản lượng trùn hàng tháng: 2kg/m2

Sản lượng phân trùn hàng ngày: 2kg/m2

Sản lượng trùn hàng ngày: 1kg phân/1kg trùn

Giá trị kinh tế của phân compost: 2.500 đ/kg

Giá trị kinh tế của bã trùn: 10.000 đ/kg

Từ trường hợp này, có thể thấy là có nhiều lựa chọn trong việc quản lý rác thải hữu cơ ở Việt

Nam. Mô hình dưới đây phân tích một cách ngắn gọn các điểm khác nhau giữa quản lý rác

thải tập trung và quản lý rác thải xã hội hóa theo các trường hợp nghiên cứu để chứng minh

nhận định trên.

1

2

14

n

2

1

Thu gom

& trộn

Rải nền

Đóng gói

& bán

Nghiền &

ly tâm

Đóng gói

& bán

(Lựa chọn: dinh dưỡng)

Đàn giun ban đầu

Phân trùn quế

(giàu dinh dưỡng)

Ủ phân trùn quế

Trùn

Rải hàng ngày

Chất cô đặc chiếu

xuất từ xay trùn

Phân lợn

Phân bò

Phân bón từ trùn

40

Có thể đưa ra giải pháp tốt nhất cho việc tái chế rác đô thị, nhưng trên thực tế, giải pháp nào

cũng đòi hỏi có sự tham gia của các bên liên quan (chính quyền, ngành công nghiệp, xã hội và

các nhà khoa học). Việc tăng cường nhận thức là một điểm mấu chấu thành công trong triển

khai quản lý rác thải, đặc biệt là việc phân loại rác tại nguồn.

41

Lời cám ơn

Nhóm chuyên gia xin trân trọng cám ơn Ban quản lý Dự án PACMO, Ông Đỗ Minh Ngọc,

Ông Nguyễn Trương Hoàng Vương, Ông Nguyễn Hòa, TS. Nguyễn Bá Hùng, Ông Hiệp

(Giám đốc Công ty phân bón Bình Điền), Ông Trần Xuân Tạo, Ông Thưởng (Công ty Xử lý

và Chế biến chất thải Phú Thọ, Việt Trì), Ông Hồng Kỳ, Bà Liên (Trang trại nuôi giun quế

PHT), Ông Hòa (Giám đốc Urenco Hà Nội), Ông Tân, Ông Phong (Nhà máy chế biến và sản

xuất phân compost Nam Hòa), Bà Kim (Liên minh HTX Việt Nam – COSTE), Ông Thưởng

(HTX nông nghiệp và môi trường Cổ Bi), Bà Liên, Ông Lực (Nhà máy chế biến rác và sản

xuất phân compost Urenco Gia Lâm), Ông Tuấn (Phó Giám đốc nhà máy xử lý rác và sản

xuất phân compost Thùy Phương Huế), Ông Bảy, Bà Hiền (UBND TP Hội An – phòng môi

trường và tài nguyên tự nhiên), Ông Bùi (Chủ nhiệm HTX Nông nghiệp và Dịch vụ Môi

trường Nhơn Phú), Bà Hương (Hiệp hội Nông dân Bình Định), Ông Tui, Bà Diệu, Ông Tiến,

Ông Lực, Ông Việt (Hiệp hội nông dân Tân Tạo, quận Bình Tân) đã giúp đỡ chúng tôi hoàn

thành nhiệm vụ, các ông bà không chỉ nhiệt tình cung cấp thông tin mà còn chia sẻ kinh

nghiệm và góp ý rất có ý nghĩa.

42

Danh mục tài liệu tham khảo

CoFQ No. 11. 2009. Phiếu kết quả phân tích mẫu N,P,K, Từ Liêm Hà Nội.

Environmental Protection Administration Executive Yuan, R. O. C. 2010. The Current Status for

Kitchen Waste Recycling and Reuse.

http://www.epa.gov.tw/en/epashow.aspx?list=125&path=9105&guid=2d105564-911d-4536-

ae70-798eb75b345c&lang=en-us.

Jayalakshmi, S., V. Sukumaran, and K. Joseph. 2007. Hydrogen Production from Kitchen Waste using

Heat Treated Anaerobic Biogas Plant Slurry. International Conference on Sustainable Solid

Waste Management, Chennai, India:356-362.

Southampton UR and Greenfinch Ltd. 2003. Biodigestion of Kitchen Refuse - A comparative

evaluation of mesophilic and thermophilic biodigestion for the stabilisation and sanitisation of

kitchen waste. Funded by BIFFAWARD and South Shropshire District Council through the

Landfill Tax Credit Scheme.