Upload
others
View
2
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ KHUYÊN
t tëng hå chÝ minh vÒ ®¹o ®øc c«ng chøc
vµ vËn dông t tëng ®ã trong x©y dùng ®¹o ®øc
c«ng chøc ë viÖt nam hiÖn nay
Chuyên ngành : Đạo đức học
Mã số : 9 22 90 06
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN VĂN PHÚC
HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, tư liệu trong luận án đều được khai
thác từ các tài liệu có nguồn gốc rõ ràng; những phát
hiện nêu trong luận án là kết quả nghiên cứu của tác giả
luận án.
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Khuyên
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 5
1.1. Những nghiên cứu liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức công chức 5
1.2. Những nghiên cứu liên quan đến thực trạng vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công
chức ở Việt Nam hiện nay 9
1.3. Những nghiên cứu liên quan đến giải pháp nâng cao hiệu quả của
việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong
xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay 17
1.4. Đánh giá tình hình nghiên cứu và những vấn đề cần tiếp tục làm
rõ trong luận án 24
Chương 2: TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÔNG CHỨC 27
2.1. Khái niệm đạo đức, đạo đức công chức, đạo đức công chức theo
tư tưởng Hồ Chí Minh 27
2.2. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức 41
2.3. Nội dung cơ bản của đạo đức công chức và những nguyên tắc
xây dựng đạo đức công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh 52
2.4. Giá trị lý luận và ý nghĩa thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức công chức 65
Chương 3: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
CÔNG CHỨC TRONG XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CÔNG
CHỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY- THỰC TRẠNG VÀ
NGUYÊN NHÂN 70
3.1. Những nhân tố chủ yếu tác động đến việc vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công
chức hiện nay 70
3.2. Thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công
chức trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay 79
Chương 4: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO HIỆU
QUẢ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO
ĐỨC CÔNG CHỨC TRONG XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC
CÔNG CHỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 118
4.1. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức vị trí tầm
quan trọng, nội dung của giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
về công chức cho đội ngũ công chức hiện nay 118
4.2. Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, cải cách, tinh giảm,
làm trong sạch bộ máy công chức hiện nay 128
4.3. Phát huy dân chủ, nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ công
dân, tham gia quản lí xã hội của nhân dân; tăng cường vai trò
giám sát phản biện của các tổ chức xã hội và nhân dân đối với
hoạt động của bộ máy hành chính các cấp 134
4.4. Nâng cao tính tự giác học tập và rèn luyện tu dưỡng đạo đức cách
mạng cho đội ngũ công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh 142
KẾT LUẬN 149
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, vĩ đại khi Người bàn về đạo đức và càng vĩ
đại khi Người thực hành đạo đức. Tư tưởng đạo đức và tấm gương trong sáng
của Người là giá trị tinh thần vô giá của các thế hệ người Việt Nam học tập, noi
theo. Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức để xây dựng
đạo đức công chức hiện nay là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong sự
nghiệp trồng người của Đảng. Trong đó cán bộ công chức vừa là đối tượng vừa
là chủ thể của quá trình này.
Đội ngũ cán bộ công chức Việt Nam là bộ phận rường cột của hệ thống
chính trị, vì thế, đạo đức của họ góp phần quan trọng, quyết định khả năng vận
hành của bộ máy nhà nước và tạo dựng niềm tin của nhân dân đối với Đảng, đối
với Nhà nước.
Ngay từ năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh 76/SL về
quy chế công chức, bước đầu xác định các vấn đề cơ bản về đội ngũ, vị trí, vai
trò, nhiệm vụ và những yêu cầu năng lực, phẩm chất đối với đội ngũ cán bộ công
chức trong xã hội mới.
Từ đó, đội ngũ cán bộ công chức đã phát huy được vai trò của mình cùng
toàn thể nhân dân đẩy mạnh công cuộc kháng chiến - kiến quốc, làm nên những
kỳ tích vẻ vang của dân tộc Việt Nam ở nửa cuối thế kỷ XX. Bước sang thời kỳ
đổi mới, ngày càng nhận thức rõ tầm quan trọng đặc biệt của đội ngũ công chức
trong nền hành chính quốc gia, Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh cán bộ công
chức và được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua, Chủ tịch nước ký Lệnh
công bố ngày 9 tháng 3 năm 1998, và sửa đổi năm 2000, 2003. Luật Cán bộ công
chức đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ
họp thứ 4 thông qua ngày 13 tháng 11 năm 2008.
Sau hơn 30 năm đổi mới chúng ta đã xây dựng được đội ngũ cán bộ công
chức vừa có đức, vừa có tài, tư duy năng động và sáng tạo đã hoàn thành nhiệm
vụ được giao. Tuy nhiên, trước một thực tế hiện nay, một bộ phận cán bộ công
chức đã không giữ vững được đạo đức cách mạng, thiếu ý thức chấp hành pháp
luật, thiếu ý thức tự giác học tập đạo đức, từ đó đi đến độc đoán, chuyên quyền,
2
hách dịch lên mặt "quan cách mạng", tạo bè tạo cánh lợi dụng địa vị, chức quyền
để mưu cầu lợi ích riêng. Họ đã trở thành sâu mọt của dân, vì thế việc xây dựng
đạo đức cách mạng, đạo đức công chức cho đội ngũ này theo tư tưởng Hồ Chí
Minh để họ hoàn thành tốt trách nhiệm của mình trước nhân dân là một yêu cầu
bức thiết. Hơn nữa, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức
trong xây dựng đội ngũ này không chỉ xuất phát từ sự suy thoái đạo đức lối sống
của một bộ phận cán bộ công chức hiện nay mà còn định hướng phát triển lâu
dài trong tương lai với tầm nhìn, hành động, chiến lược.
Sự nghiệp đổi mới đất nước đang đi vào chiều sâu, yêu cầu cải cách hành
chính và rộng hơn là yêu cầu đổi mới chính trị đòi phải có được đội ngũ công
chức phát triển toàn diện vừa "hồng" vừa "chuyên", nhân cách phong phú, đáp
ứng được yêu cầu hết sức nặng nề nhưng hết sức vẻ vang mà đất nước đang đặt
lên vai họ. Ở đây, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức là cơ sở thế giới
quan, phương pháp luận, là kim chỉ nam định hướng trong công tác xây dựng
đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó
đặc biệt là tư tưởng đạo đức của Người là điều cần thiết, ở đó có những giá trị
đạo đức mà cán bộ, công chức hiện nay nên biết tới, học tập và vận dụng trong
việc lựa chọn quan điểm sống và phong cách sống của mình.
Người cán bộ công chức phải luôn là một gương sáng về đạo đức. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khái quát đạo đức ấy ở 8 chữ "cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư". Mỗi cán bộ nếu nhận thức đúng vị trí của mình, giữ đúng phẩm chất
cách mạng và chuẩn mực đạo đức sẽ làm cho bộ máy tổ chức luôn có được sự
trong sạch, đoàn kết, vững mạnh, ở đó không có chỗ để những quốc nạn như
quan liệu, tham nhũng, lãng phí có thể tồn tại.
Với những lý do trên, việc nghiên cứu về đạo đức công chức nói chung và
việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng đạo đức công chức
trong giai đoạn hiện nay có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn. Chính vì vậy,
tác giả thực hiện nghiên cứu đề tài "Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công
chức và vận dụng tư tưởng đó trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam
hiện nay" làm đề tài luận án tiến sĩ Triết học của mình.
3
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ tầm quan trọng và thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức công chức ở Việt Nam. Luận án đưa ra một số giải pháp chủ
yếu nhằm nâng cao hiệu quả vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công
chức trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích trên, luận án có nhiệm vụ:
Thứ nhất, tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, luận án đã khái
quát tình hình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức.
Thứ hai, làm rõ một số nội dung cơ bản xung quanh tư tưởng Hồ Chí Minh
về đạo đức công chức.
Thứ ba, phân tích thực trạng việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức công chức trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay và
nguyên nhân của thực trạng đó.
Thứ tư, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả của việc
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức
công chức ở nước ta hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: đối tượng nghiên cứu là tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
công chức và vận dụng tư tưởng đó trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt
Nam hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Luận án nghiên cứu việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
công chức trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay.
+ Thời gian khảo sát tính từ năm 1986 đến nay
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Cơ sở lý luận: Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam
về đạo đức, công chức và đạo đức công chức. Đồng thời luận án có kế thừa một
4
số thành tựu của các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học có liên quan
đến luận án.
Phương pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng các phương pháp luận chung
nhất của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp
nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn, phân tích và tổng hợp, lịch sử và logic,
thống kê, đối chiếu, so sánh… ngoài ra luận án còn sử dụng kết quả nghiên cứu
điều tra xã hội học của các công trình đã công bố liên quan đến đề tài.
5. Cái mới của luận án
- Luận án góp phần làm rõ cơ sở hình thành, nội dung và giá trị lý luận, ý
nghĩa thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức.
- Luận án chỉ ra thực trạng xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện
nay dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức.
Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả của việc vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công
chức hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án góp phần nâng cao việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức công chức ở nước ta hiện nay nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của nền
hành chính nhà nước.
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục
vụ cho việc nghiên cứu và giảng dạy vấn đề liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh
về đạo đức công chức, xây dựng đạo đức công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận án gồm 4 chương, 14 tiết.
5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Công chức là lực lượng quan trọng quyết định sự thành công của công
cuộc cải cách nền hành chính Nhà nước trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Đạo đức công chức luôn là vấn đề được Đảng và Nhà
nước ta quan tâm hàng đầu nhằm đảm bảo hoàn thiện nền hành chính và là
giải pháp hữu hiệu xây dựng thành công nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Những vấn đề này đã được các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực
tiễn nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau tùy theo từng mục đích đặt ra. Có
thể hệ thống hóa một số công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án
ở một số vấn đề cơ bản sau:
1.1. Những nghiên cứu liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức công chức
Ở nước ta, trong thời gian vừa qua có nhiều công trình nghiên cứu của các
nhà khoa học, các nhà quản lý liên quan đến vấn đền này. Điển hình phải kể đến
các công trình nghiên cứu sau:
Tác giả Đức Vượng: "Hồ Chí Minh với vấn đề đào tạo cán bộ" Nxb Chính
trị quốc gia Hà Nội, 1995 [115]. Tác giả đã trình bày quan điểm, tư tưởng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh về vấn đề cán bộ, vấn đề dùng người. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho
rằng, vấn đề cán bộ là một trong những vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với sự
nghiệp cách mạng và đối với công tác xây dựng Đảng bởi "cán bộ là cái gốc của
mọi công việc". Vì vậy, chúng ta phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một
người có ích cho công việc chung của chúng ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi cán bộ phải thực sự trung thành với Tổ quốc
và nhân dân; kiên quyết làm đúng chính sách, nghị quyết của Đảng; cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư, trung thực, khiêm tốn, giản dị, gương mẫu trước
nhân dân, có mối quan hệ mật thiết với nhân dân, đi sâu đi sát thực tế, gần gũi
nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đủ năng lực phụ
6
trách, giải quyết những công việc được giao phó; tích cực học tập, rèn luyện,
không ngừng nâng cao trình độ và năng lực công tác.
Vấn đề đạo đức công vụ cũng thu hút sự quan tâm của tác giả Trần Văn
Phòng (2003), Tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ lãnh đạo chính trị hiện nay,
Tạp chí Lý luận chính trị, số 5 [81]. Tác giả cho rằng tiêu chuẩn cán bộ được xác
định tùy thuộc vào nhiệm vụ chính trị của từng thời kì.Mỗi thời kỳ sẽ có những
tiêu chuẩn và yêu cầu cụ thể. Với nhiệm vụ chính trị của Đảng ta hiện nay, trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, lãnh đạo xây
dựng và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì
tiêu chuẩn chung của cán bộ là: Có bản lĩnh chính trị vững vàng. Có đạo đức, lối
sống lành mạnh, kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Có
tư duy đổi mới, sáng tạo. Dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Nắm chắc
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Có kiến thức chuyên môn, nghiệp
vụ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Có tinh thần đoàn kết, hợp tác, có ý
thức tổ chức kỷ luật. Có phong cách làm việc khoa học, gắn bó với nhân dân.
Tác giả Thành Duy và Lê Quý Đức (2007) "Học tập tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh - Xây dựng nền văn hóa ở nước ta hiện nay", Nxb Lý luận Chính trị,
Hà Nội [21]. Các tác giả đã hệ thống tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và khẳng
định: Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương trọn đời phấn đấu hy sinh vì sự nghiệp
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; đạo đức Hồ Chí
Minh là tấm gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Tác giả Hoàng Trung (2010) "Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh qua các
phạm trù mà Người sử dụng", Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh
[106], tác giả đã chỉ ra những phạm trù đạo đức cơ bản mà Hồ Chí Minh sử dụng,
vận dụng và phát triển tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới ở
nước ta hiện nay. Từ đó, tác giả nhấn mạnh mỗi người Việt Nam cần phải tiếp tục
tuyên truyền, giáo dục và thực hiện ngày càng sâu rộng trong các phạm trù đạo đức
mà Người đã sử dụng, thường xuyên đấu tranh chống lại các biểu hiện của chủ
nghĩa cá nhân.
7
Cũng nghiên cứu về vấn đề này, các tác giả Nguyễn Đăng Thành, Võ Kim Sơn
(chủ biên, 2012) giáo trình "Đạo đức công vụ" Nxb Lao động [95], gồm 7 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về đạo đức, tác giả cũng đề cập đến mối
quan hệ giữa đạo đức và các hình thái ý thức xã hội khác; những khía cạnh liên
quan đến đạo đức cá nhân; đạo đức tổ chức và đạo đức xã hội.
Chương 2: Đạo đức người làm việc cho nhà nước và tư tưởng Chủ tịch Hồ
Chí Minh về đạo đức. Các tác giả cho rằng, đạo đức người làm việc cho nhà nước
phải trở thành tấm gương; chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật nhà nước; chấp hành
một cách tự giác những nét biểu hiện văn hóa đạo đức được xã hội tôn trọng.
Chương 3: Đạo đức nghề nghiệp. Tác giả cho rằng: Đạo đức nghề nghiệp
chính là tập hợp tất cả những hành vi được coi là phù hợp với các nhân viên,
người lao động trong một công ty, doanh nghiệp.
Chương 4: Đạo đức thực thi công vụ của công chức, đạo đức thực thi công
vụ của công chức. Tác giả đã nhấn mạnh các yếu tố đạo đức công vụ là công
việc và con người thực thi công việc đó. Đạo đức công vụ trước hết được hình
thành từ đạo đức cá nhân của công chức; đạo đức công vụ được hình thành từ
khía cạnh đạo đức xã hội của công chức, đạo đức công vụ là đạo đức nghề
nghiệp đặc biệt - công vụ của công chức….đạo đức thực thi công vụ là sự hài
hóa của các giá trị.
Chương 5: Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong thực thi công vụ: Đạo đức
công vụ trước hết là đạo đức cách mạng: trung với nước, hiếu với dân; cần,
kiệm, liêm, chính; chí công vô tư, nhân, nghĩa, trí, dũng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng đề cập một nội dung mới, phản ánh đạo
đức cao rộng hơn là "trung với nước hiếu với dân". Đó là một cuộc cách mạng
trong quan niệm đạo đức. Nội dung chủ yếu của "trung với nước" là: trong mối
quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng và xã hội, phải biết đặt lợi ích của Đảng,
của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết, trước hết; Quyết tâm phấn đấu thực
hiện mục tiêu cách mạng; Thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước.
8
Một phẩm chất đạo đức nữa luôn gắn liền với những hoạt động hàng ngày
của Chủ tịch Hồ Chí Minh và luôn được đề cập nhiều nhất, thường xuyên nhất là
Cần Kiệm - Liêm Chính - Chí Công - Vô Tư. Hồ Chí Minh đã sử dụng những
khái niệm cần kiệm liêm chính, chí công vô tư của đạo đức phương Đông và đạo
đức truyền thống Việt Nam.
Chương 6: Pháp luật về đạo đức công vụ. Tác giả đưa ra những nguyên tắc
chung để xây dựng pháp luật về đạo đức công vụ:
Chương 7: Pháp luật về đạo đức của một số nước lựa chọn như: Trung Quốc,
Liên Bang Nga, Thái Lan, và đạo đức công vụ của các nước thuộc khối OECD.
Tác giả Vũ Khiêu (2014) - một học giả lớn đã có nhiều công trình, bài viết
về tư tưởng Hồ Chí Minh cho ra đời cuốn "Học tập đạo đức Bác Hồ", Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội [48]. Cuốn sách trình bày ngắn gọn, súc tích nhưng
vô cùng sâu sắc về tấm gương, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, về vấn đề học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong sự nghiệp của nhân dân
ta ngày nay. Trong tác phẩm này, tác giả đã đề cập, phân tích sâu sắc, minh
chứng rõ ràng về nội dung tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong một số lĩnh vực,
đó là: Đạo đức trong lao động, đạo đức trong chiến đấu, đạo đức trong học tập…
Tác giả Nguyễn Thị Kim Dung, "Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
sử dụng cán bộ" Tạp chí Lý luận chính trị số 6-2013 [20]. Tác giả đã chỉ ra quan
điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cách sử dụng cán bộ như: phải khéo dùng
cán bộ. Trong công tác cán bộ phải "khéo dùng", là phải dùng đúng người, đúng
việc, đúng năng lực, sở trường, làm cho cán bộ vui vẻ, thoải mái, yên tâm công
tác và hăng hái thi đua cống hiến sức mình cho sự nghiệp cách mạng. Phải tin
tưởng, yêu thương, giúp đỡ cán bộ. Tin tưởng cán bộ là sự tôn trọng phẩm chất,
năng lực của cán bộ. Tin tưởng trao việc cho họ, "thả cho họ làm", "thả cho họ
phụ trách", không bao biện làm thay. Có như vậy, họ mới phấn khởi, mạnh dạn,
tin vào năng lực của mình, dám làm dám chịu trách nhiệm.
Phải kết hợp giữa cán bộ lớn tuổi và cán bộ trẻ, lớp cán bộ cũ và cán bộ
mới, tạo nguồn cán bộ kế cận để bảo đảm sự chuyển giao công việc, phải bồi
9
dưỡng cán bộ cách mạng cho đời sau vượt qua khó khăn để vươn lên hoàn thành
tốt nhiệm vụ. Trong công tác cán bộ, cần phải chú trọng thực hiện việc luân
chuyển cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác
của cán bộ. Thông qua thực tiễn để rèn luyện, thử thách cán bộ, làm cho cán bộ
thích ứng với nhiệm vụ Đảng giao, phát huy năng lực của mình ở mức cao hơn
trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Qua việc luân chuyển cán bộ, phát hiện được
điểm mạnh, điểm yếu của họ về năng lực và phẩm chất để từ đó bổ nhiệm công
tác phù hợp hơn.
Trách nhiệm của công chức là phạm trù quan trọng trong đời sống xã hội,
từ trách nhiệm đối với bản thân, đối với cộng đồng xã hội mà mỗi cán bộ, công
chức đều phải đảm trách một công việc nhân danh công quyền, nhất định phải
thực hiện và gánh vác.
Như vậy, các công trình trên đã nghiên cứu đạo đức công chức ở những
khía cạnh khác nhau nhằm góp phần giải quyết những vấn đề cấp thiết của
thực tiễn đạo đức công chức trong nền công vụ Việt Nam và góp phần làm
sáng tỏ những vấn đề lý luận, thực tiễn của đạo đức công chức ở nước ta hiện
nay. Những công trình này ở một mức độ nhất định đã đề cập đến một số
phương diện trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức. Những công
trình đó đã gợi mở cho tôi nhiều ý tưởng quan trọng, đồng thời là nguồn tư
liệu quý báu trong quá trình tôi thực hiện đề tài của mình. Tuy nhiên, những
công trình trên do khuôn khổ và mục đích riêng, chưa làm sáng tỏ được tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức, cũng như chưa vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công chức trong
điều kiện hiện nay.
1.2. Những nghiên cứu liên quan đến thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt
Nam hiện nay
Trong những năm qua, cùng với công cuộc đổi mới phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước, vấn đề văn hóa, tư tưởng, đạo đức, đạo đức công chức cũng
10
được quan tâm cả trên lĩnh vực lý luận lẫn thực tiễn. Điển hình là các công trình
nghiên cứu vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức:
Cuốn sách "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề cán bộ và công tác cán
bộ trong sự nghiệp đổi mới hiện nay", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997. Cuốn
sách được biên soạn trên cơ sở hội thảo khoa học: "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về cán bộ và công tác cán bộ trong sự nghiệp đổi mới hiện nay". Các tham luận đã
đề cập đến nhiều vấn đề cơ bản như: cơ sở lý luận và thực tiễn hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ, tiêu chuẩn cán bộ, công tác đào tạo, bồi
dưỡng, bố trí, sử dụng và chính sách cán bộ… các ý kiến tham luận đã làm rõ thêm
sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn công cuộc đổi mới ở nước ta hiện
nay đồng thời đưa ra những giải pháp, những kiến nghị nhằm góp phần đổi mới
công tác tổ chức và đào tạo cán bộ trong thời gian tới.
Tác giả Nguyễn Chí Mỳ (chủ biên, 1999) "Sự biến đổi thang giá trị đạo
đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới chi cán bộ quản
lý ở nước ta hiện nay" Nxb Chính trị quốc gia [75], gồm ba phần:
Phần 1, Đạo đức mới trong nền kinh tế thị trường
Phần 2, Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Phần 3, Xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý trong nền kinh tế thị
trường phương hướng và giải pháp hình thành thang giá trị đạo đức mới, tác giả
đưa ra yêu cầu đối với cán bộ quản lý trong đó có công chức: tác giả đã phân tích sự
thoái hóa về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên đã ảnh hưởng đến
uy tín của Đảng, làm giảm sút lòng tin của nhân dân, tổn thương mối quan hệ giữa
Đảng với nhân dân, hạ thấp sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo của Đảng.
Những biểu hiện rõ nhất của sự thoái hóa về đạo đức, lối sống trong một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý là chủ nghĩa
cá nhân, cục bộ, thực dụng, đang có xu hướng gia tăng. Chủ tịch Hồ Chí Minh
chỉ rõ về tác hại của chủ nghĩa cá nhân: Chủ nghĩa cá nhân đẻ trăm thứ bệnh
nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí...
11
Tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Phúc (đồng chủ biên, 2003),
"Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường", Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội [14]. Cuốn sách gồm ba phần:
Phần 1: Những tác động của nền kinh tế thị trường đối với đạo đức. Các tác
giả đã phân tích những tác động của kinh tế thị trường đến đạo đức xã hội Việt
Nam hiện nay và khẳng định kinh tế thị trường đang có những tác động tích cực
và tiêu cực tới đời sống đạo đức xã hội Việt Nam. Tác động tích cực của kinh tế
thị trường là làm cho con người chủ động, tích cực, ý thức trách nhiệm của mỗi
cá nhân không ngừng được nâng lên. Những tác động tiêu cực của nền kinh tế
thị trường đến đời sống đạo đức xã hội Việt Nam như: lối sống chạy theo đồng
tiền, thực dụng, tệ nạn xã hội có xu hướng gia tăng; điều đó cũng tác động đến
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức. Kinh tế thị trường đòi hỏi
và tạo điều kiện cho công chức thực hiện công vụ tốt hơn. Nhưng mặt trái của
kinh tế thị trường cũng khiến nhiều công chức sa ngã, chạy theo lợi ích cá nhân,
tham nhũng, sách nhiễu nhân dân, trái với tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
công chức.
Phần 2: Vai trò của đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường. Các tác giả
đã lý giải vai trò của đạo đức với tư cách là động lực tinh thần của sự phát triển
kinh tế - xã hội, yêu cầu đẩy mạnh công tác giáo dục đạo đức mới thích ứng với
kinh tế thị trường.
Phần 3: Xây dựng đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện
nay. Các tác giả phân tích những giải pháp kinh tế, xã hội và những giải pháp
giáo dục trong việc xây dựng đạo đức vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự
phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường.
Tác giả Bùi Thế Vĩnh (chủ biên), (2003) "Xây dựng đạo đức cán bộ, công
chức Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế" Nxb Thống kê [114]. Tác giả hệ thống hóa những vấn đề cơ bản của đạo
đức cán bộ công chức từ những chỉ dẫn của C.Mác, Ph.Ăngghen đến V.I.Lênin
và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời, bước đầu cũng đã đưa ra một số giải pháp
xây dựng đạo đức cán bộ, công chức trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Đánh giá thực
12
trạng đạo đức cán bộ, công chức vào những năm 2002 về trước theo những tiêu chí,
những yêu cầu của Hồ Chí Minh về đạo đức công chức. Tác giả đề cập đến việc xây
dựng đạo đức của cán bộ công chức trong thời kỳ đổi mới phải mang tính chất toàn
diện, nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho đội ngũ cán bộ
công chức đồng thời đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật và những văn bản quy định về chế độ công vụ…
Tác giả Nguyễn Trọng Điều (2003)"Nâng cao phẩm chất và năng lực đội
ngũ cán bộ công chức đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế", Tạp chí cộng
sản, số 18 [31], tác giả cho rằng: đối với cán bộ hoạt động trong lĩnh vực hội
nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi: Người đứng đầu trong một tổ chức phải là người có
đủ năng lực và phẩm chất. Phải chú trọng cả năng lực chuyên môn và năng lực
tổ chức, điều hành. Trong công tác thực thi chính sách hội nhập kinh tế quốc tế
cần lựa chọn và bố trí những cán bộ có trình độ, năng lực chuyên môn giỏi về
luật pháp, kinh tế, thương mại quốc tế, có kinh nghiệm thực tiễn, nhất là có bản
lĩnh và khả năng đàm phán độc lập nhằm chủ động giành thắng lợi trước đối tác
theo nguyên tắc cùng có lợi". Đội ngũ các cán bộ hỗ trợ phải năng động, thích
ứng với môi trường đối ngoại.
Tác giả Lương Đình Hải (2004), "Mấy vấn đề về phẩm chất đạo đức của
cán bộ, Đảng viên trong thời kỳ đổi mới", Tạp chí Triết học, số 5 [37]. Tác giả
đã chỉ ra những biểu hiện suy thoái về phẩm chất đạo đức cách mạng của người
cán bộ, đảng viên do nhiều nguyên nhân, có cả nguyên nhân chủ quan lẫn
nguyên nhân khách quan: xét đến cùng, đời sống đạo đức của cán bộ, đảng viên
hiện nay là sản phẩm của tình hình kinh tế nước ta. Tính chất đan xen hết sức phức
tạp của các loại hình kinh tế đang tồn tại ở nước ta tạo nên sự hòa quyện, bài trừ
nhau giữa các hệ giá trị, chuẩn mực đạo đức khác nhau trong đời sống xã hội. Điều
đó làm cho sự suy thoái và xuống cấp đạo đức của cán bộ, đảng viên có thêm cơ hội
phát triển và biểu hiện dưới những biến thể khác nhau. Tác giả cũng cho rằng: vấn
đề rèn luyện, bồi dưỡng đạo đức cách mạng đang là vấn đề quan trọng và cấp bách
hàng đầu, có quan hệ trực tiếp đến uy tín, thanh danh, chất lượng và vai trò lãnh đạo
của Đảng đến sự thành bại của công cuộc đổi mới trong tương lai. Vì vậy, tác giả đã
13
đưa ra các chuẩn mực đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh như: Trung
với nước, hiếu với dân; thực hiện cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, kiên quyết
quét sạch chủ nghĩa cá nhân; lao động sáng tạo, có hiệu quả cao.
Tác giả Nguyễn Thế Kiệt (chủ biên) (2005) "Đạo đức người cán bộ lãnh
đạo chính trị hiện nay. Thực trạng và giải pháp" Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
[49]. Tác giả đã phân tích vai trò, nội dung và yêu cầu về đạo đức của người cán
bộ lãnh đạo chính trị ở Việt Nam hiện nay, khẳng định tầm quan trọng của đạo
đức người cán bộ lãnh đạo chính trị hiện nay: đạo đức cách mạng của người cán
bộ lãnh đạo chính trị là phải nêu gương cho quần chúng noi theo trong quá trình
xây dựng lối sống mới, xây dựng các quan hệ xã hội mới và là nhân tố tác động
tích cực quyết định trực tiếp trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng và tệ nạn xã
hội hiện nay; cũng như vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội, hoàn thiện
con người, mà trước hết nó là mục tiêu và động lực xây dựng, phát triển hoàn
thiện đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị. Tác giả nêu lên thực trạng đạo đức của
người cán bộ lãnh đạo chính trị trước tình hình phát triển của đất nước, người
cán bộ lãnh đạo chính trị phải giữ được những phẩm chất như: Lòng trung thành
với lý tưởng của Đảng, tính trung thực, tinh thần dân chủ, lòng yêu nước, tính
nguyên tắc, lòng dũng cảm, lòng nhân ái, tính khiêm tốn. Mặt khác, tác giả cũng
đã xác định một số phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao phẩm chất
đạo đức cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị ở Việt Nam.
Tác giả Trần Đình Huỳnh (2005) "Hồ Chí Minh kiến trúc sư lỗi lạc của nền
hành chính nhà nước Việt Nam", Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội [44], khẳng
định vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc xây dựng nền hành chính Việt
Nam, tác giả đã chỉ rõ: theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người ta bất cứ ai cũng
phải có đạo đức công dân, đạo đức công dân chính là đạo đức làm người trong
một Nhà nước dân chủ. Đạo đức cách mạng, đồng nhất với đạo đức công
chức. Bất kỳ cán bộ, công chức nào cũng phải xác định mình là một người
đứng trong hàng ngũ cách mạng, là làm cách mạng và phải có đạo đức cách
mạng là: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, nhân, nghĩa, trí, dũng, tín,
trung với nước, hiếu với dân. Trong công trình này tác giả đã chỉ ra một số
14
thành tựu cũng như những hạn chế trong thực trạng xây dựng đạo đức công
chức theo các tiêu chí: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Các nguyên
nhân của thành tựu bao gồm: nhận thức đầy đủ hơn tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức công chức, cải cách hành chính đã có bước phát triển; công tác giáo
dục đạo đức công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh đang từng bước đi vào
thực chất… Tác giả cũng chỉ ra những hạn chế trong nhận thức của các cấp
lãnh đạo, những hạn chế trong cải cách hành chính, những hạn chế về mặt
pháp luật, những hạn chế trong các nội dung và hình thức giáo dục cũng như
những hạn chế của một bộ phận cán bộ, công chức trong việc rèn luyện đạo
đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu về vấn đề này, luận văn thạc sỹ của tác giả Phan Kiều Thanh
Hương (2010), "Đạo đức công vụ trong hoạt động quản lý nhà nước ở Thành
phố Hồ Chí Minh" [46]. Trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh, tác giả đã đánh giá
nhận thức của công chức về nội dung thực hiện đạo đức của công chức được quy
định trong điều 15 Luật cán bộ, công chức năm 2008. Khẳng định công chức
phải có đức có tài, lấy đức là chính, khắc phục mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá
nhân, xa rời quần chúng, quan liêu, tham nhũng, vô trách nhiệm, chia rẽ, cục bộ
địa phương. Mức độ quan tâm của nhân dân trong việc thực hiện đạo đức công
vụ trong quản lý nhà nước của công chức. Tác giả cho rằng cán bộ công chức
không những phải đáp ứng yêu cầu về trình độ chuyên môn nghiệp vụ mà còn
phải đáp ứng yêu cầu về phẩm chất đạo đức. Từ đó tác giả chỉ ra nguyên nhân
của thực trạng về thực hiện đạo đức công vụ và đề ra giải pháp nâng cao trách
nhiệm, thực thi đạo đức công vụ của công chức trong hoạt động quản lý nhà
nước ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Tác giả Nguyễn Thế Kiệt (2011)"Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với việc
nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện
nay", Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội [50]. Tác giả đã nêu lên thực
trạng và đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao đạo đức cách mạng
cho cán bộ lãnh đạo quản lý ở Việt Nam hiện nay dưới ánh sáng của đạo đức
cách mạng Hồ Chí Minh. Tác giả khẳng định: việc học tập tư tưởng đạo đức
15
Hồ Chí Minh nhằm để khắc phục hàng loạt các hiện tượng tiêu cực của xã hội
hôm nay cũng như là một nhiệm vụ cần thiết để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
mới của đất nước.
Tác giả Trần Đình Thắng "xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên gắn với việc
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng", Tạp chí Tổ chức nhà
nước số 4/2012 [99]. Tác giả đã chỉ ra rằng theo Hồ Chí Minh đạo đức là nền
tảng của người cách mạng, người cán bộ, đảng viên phải có đạo đức cách mạng
thì mới tận tâm, tận tụy với cách mạng, với công việc mới lãnh đạo được quần
chúng và đưa cách mạng đến thắng lợi.
Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên
phải là đạo đức vì dân, vì nước; đạo đức phục vụ sự nghiệp cách mạng, phục vụ
nhân dân. Nhân dân nhìn vào Đảng là nhìn vào đội ngũ cán bộ, đảng viên và
trước hết là nhìn vào tư cách đạo đức của họ, vì vậy cán bộ, đảng viên có đạo
đức tốt mới lôi kéo được quần chúng , tập hợp được lực lượng cho cách mạng.
Luận án Tiến sĩ Triết học "Trách nhiệm công vụ và đạo đức công chức ở
nước ta hiện nay" (2012) tác giả Cao Minh Công [16] đã phân tích thực trạng
của đạo đức công chức ở nước ta hiện nay và đưa ra những giải pháp nhằm nâng
cao trách nhiệm công vụ và đạo đức công chức ở nước ta hiện nay nhằm phục vụ
công cuộc cải cách nền hành chính nhà nước theo hướng chuyên nghiệp, chuyển
từ mệnh lệnh hành chính sang phục vụ nhân dân.
Theo tác giả thể chế hành chính nhà nước trong mối quan hệ với nhân dân
thời gian qua đã góp phần khắc phục tính quan liêu, hách dịch của một bộ phận
công chức, từng bước hướng đến nền công vụ minh bạch, dân chủ, phục vụ nhân
dân. Công chức có đạo đức trong thực thi công vụ, thể hiện lương tâm, trách
nhiệm của mình vì lợi ích chung của xã hội, của nhân dân, ý thức rõ về cái cần
phải làm và mong muốn được làm vì nhân dân, phục vụ nhân dân một cách liêm
chính nhất. Đa số công chức dù làm việc ở những vị trí khác nhau đều có cống
hiến nhất định cho dân tộc, góp phần phục vụ nhân dân. Cơ cấu tổ chức bộ máy
hành chính nhà nước từ Trung ương đến địa phương được điều chỉnh, sắp xếp
tinh gọn, hợp lý hơn. Tác giả cũng đề cập đến một số hạn chế trong xây dựng
16
đạo đức công chức đó là: đạo đức công chức chưa thể hiện rõ ràng ở việc cải
cách thể chế; chất lượng đội ngũ cán bộ công chức vẫn chưa đáp ứng được yêu
cầu quản lý nhà nước trong cơ chế mới; đạo đức và thái độ phục vụ nhân dân của
một bộ phận công chức còn yếu kém; chế độ tiền lương đối với công chức chưa
có bước đột phá tích cực; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí làm cản trở quá
trình phát triển của Việt Nam, đi ngược lại với mục tiêu nâng cao trách nhiệm
công vụ và đạo đức công chức.
Luận án Tiến sĩ triết học "Đạo đức công chức và vấn đề xây dựng đạo đức
công chức trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay" của Lê Thị Hằng
(2014) [40]. Tác giả đã hệ thống hóa những chuẩn mực cơ bản của đạo đức công
chức, điều chỉnh hành vi của cán bộ công chức trong điều kiện kinh tế thị trường.
Luận án tiến sĩ Triết học "Vấn đề kế thừa, phát triển một số phạm trù cơ
bản của đạo đức Nho giáo trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh" của Nguyễn
Thị Hồng Doan (2015) [18] đã nghiên cứu sự kế thừa, phát triển một số phạm trù
cơ bản của đạo đức Nho giáo (Nhân, Trí, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín; Trung, Hiếu; Cần,
Kiệm, Liêm, Chính) trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, từ đó rút ra ý nghĩa lý
luận và thực tiễn của việc kế thừa, phát triển đó đối với giáo dục đạo đức, lối
sống cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong đó có công chức ở nước ta hiện nay.
Trong các công trình trên, các tác giả đã đưa ra những chuẩn mực đạo đức,
những nguyên tắc và yêu cầu đạo đức cách mạng của cán bộ, lãnh đạo quản lý.
Các tác giả cũng thống nhất khi luận giải việc giáo dục đạo đức nói chung và
giáo dục đạo đức cách mạng nói riêng phải trên cơ sở của môi trường kinh tế,
văn hoá xã hội nhất định. Từ đó đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
đạo đức cách mạng cho cán bộ lãnh đạo quản lý hiện nay.
Như vậy, trong các công trình nêu trên, với những mục đích và phạm vi
khác nhau các tác giả đã trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến thực trạng vận dụng
tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng đạo đức công chức. Đánh giá thực trạng,
các tác giả đã phân tích những hoạt động nghiên cứu, hệ thống hóa các yêu cầu,
các chuẩn mục đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh và việc vận dụng các yêu
cầu, các chuẩn mục đó trong xây dựng các chuẩn mực cũng như thực hiện các
17
chuẩn mực đạo đức của công chức trong điều kiện hiện nay. Đồng thời, các tác
giả cũng phân tích quá trình cải cách hành chính nhằm hướng tới một nền hành
chính với những công chức, viên chức thực sự là công bộc của nhân dân theo tư
tưởng Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, những đánh giá đó còn tản mạn, chưa hệ thống
và chưa mang tính chất toàn diện.
1.3. Những nghiên cứu liên quan đến giải pháp nâng cao hiệu quả của
việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng
đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay
Tác giả Thang Văn Phúc (2000), Nâng cao chất lượng công tác giáo dục
đạo đức cộng sản trong điều kiện cải cách hành chính nhà nước", Tạp chí Cộng
sản, số 11 [83] đã nhấn mạnh: đạo đức cán bộ, công chức có tác động, ảnh
hưởng rất lớn đến chất lượng, hiệu quả, tiến độ thực thi chính sách, pháp luật.
Việc thực hiện chính sách, pháp luật của người dân như thế nào một phần phụ
thuộc vào cách nhìn nhận, đánh giá của họ về đạo đức của đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức. Mỗi thái độ, lời nói, việc làm có lý, có tình của người cán bộ,
công chức, viên chức khi tiếp xúc, giải quyết công việc, nhu cầu của người dân
sẽ có tác dụng lôi kéo, khích lệ họ chấp hành chính sách, pháp luật. Ngược lại,
người dân sẽ thất vọng, phản ứng, thậm chí là đối phó, bất hợp tác và gây khó
khăn, phức tạp cho công tác quản lý nhà nước. Trong quan hệ quốc tế, chúng ta
có được sự đánh giá tốt đẹp của người nước ngoài về đất nước, con người Việt
Nam trước hết là do sự giao lưu, tiếp xúc của họ với những cán bộ, công chức,
viên chức có đức, có tài. Ngược lại, sự xuống cấp về đạo đức, thiếu năng lực của
một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức có thể sẽ trở thành cơ hội cho những
kẻ xấu bên ngoài tung tin thất thiệt, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an quốc
gia. Nói cách khác, nhân cách người cán bộ, công chức, viên chức vừa phải
thành thạo nghiệp vụ, vừa phải gương mẫu về mặt đạo đức. Đây là đòi hỏi của
Hồ Chí Minh về đạo đức công chức.
Mục tiêu của việc giáo dục đạo đức là biến ý thức nghĩa vụ thành tình cảm,
thành niềm tin vững chắc, thành sự thôi thúc bên trong. Thông qua hoạt động
18
công vụ, phục vụ nhân dân, người công chức không chỉ thực hiện nghĩa vụ của
mình là cống hiến cho xã hội mà còn phát triển làm phong phú bản thân, tạo ra
điều kiện cơ bản để đạt được hạnh phúc.
Liên quan đến nội dung này Nhóm tác giả Tô Tử Hạ, Trần Anh Tuấn,
Nguyễn Thị Kim Thảo (2002) "Đạo đức trong nền công vụ" Nhà xuất bản Lao
động - Xã hội [35]. Luận giải các giải pháp nhằm nâng cao đạo đức công vụ, các
tác giả nhấn mạnh: để nâng cao đạo đức công vụ, cần có một hệ thống giải pháp
đồng bộ. Hệ thống giải pháp này vừa phải đề cao giá trị đạo đức, sự hướng thiện
của con người; vừa có cơ chế tạo điều kiện cho các giá trị đạo đức phát triển và
ngăn ngừa, hạn chế sự sa sút, suy thoái đạo đức. Cụ thể hơn, trong cuốn sách đã
phân tích các nhóm giải pháp cơ bản sau: nhóm giải pháp về giáo dục đề cao giá
trị đạo đức, đề cao sự tự rèn luyện, tu dưỡng đạo đức của cán bộ, công chức theo
tư tưởng Hồ Chí Minh; nhóm giải pháp đổi mới và hoàn thiện cơ chế hoạt động
của nền hành chính, để cán bộ, công chức có điều kiện phát huy đạo đức, thực
hiện tốt nhiệm vụ phục vụ nhân dân; nhóm giải pháp về chính sách đãi ngộ vật
chất, tinh thần đối với cán bộ, công chức; nhóm giải pháp hoàn thiện cơ chế quản
lý cán bộ, công chức, đồng thời kiểm tra, ngăn ngừa và xử phạt sự vi phạm đạo
đức công vụ; nhóm giải pháp về tiếp tục hoàn thiện hệ thống đạo đức công vụ
theo tư tưởng Hồ Chí Minh. theo tác giả, những giải pháp pháp đó vừa là sự vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức đối với việc xây dựng đạo
đức công chức hiện nay có tính đến những yếu tố hiện đại; đồng thời, đó cũng là
những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cho xây dựng đạo đức công chức theo
tư tưởng Hồ Chí Minh
Tác giả Nguyễn Hữu Khiển (2003), Đạo đức công vụ và vấn đề nâng cao
đạo đức công vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay, Tạp chí
Triết học, số 10 [47]. Tác giả cho rằng mỗi công chức phải nhận thức một cách
sâu sắc giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, cần không ngừng tu dưỡng, rèn
luyện đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh, tích cực học tập nâng cao
trình độ, năng lực, chịu học, biết học và học có hiệu quả; luôn bám sát thực tiễn,
19
vận dụng kiến thức vào thực tiễn, đồng thời kiên trì tích lũy kiến thức, kinh
nghiệm và kỹ năng công tác, rèn luyện bản lĩnh và năng lực lãnh đạo, quản lý,
khả năng hợp tác, tổ chức thực hiện và sự chịu trách nhiệm; kiên quyết và kiên
trì trong cuộc đấu tranh chống lại dốt nát, nghèo đói, thói hư, tật xấu, nhất là sự
lười biếng, đố kỵ, lối sống buông thả và sa đọa.
Tác giả Đào Duy Quát (chủ biên, 2004) "Về giáo dục đạo đức cách mạng
trong cán bộ Đảng viên hiện nay, thực trạng và giải pháp", Nhà xuất bản chính
trị quốc gia, Hà Nội [88], tác giả đã chỉ rõ: trong bối cảnh mới của cách mạng,
dưới sự lãnh đạo đúng đắn và sáng tạo của Đảng cộng sản Việt Nam quang vinh,
nhân dân ta đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì vai trò tiên phong gương mẫu của đội ngũ
cán bộ, đảng viên càng có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Trên cơ sở phân tích,
đánh giá thực trạng đạo đức cán bộ, đảng viên hiện nay, đã đề xuất một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả của giáo dục đạo đức cách mạng. Cùng với các
giải pháp về nhận thức, tổ chức, con người, tác giả nhấn mạnh giải pháp đẩy
mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, phong trào học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần đi vào thực chất, cần được cụ
thể hóa trong từng lĩnh vực, từng ngành, trong đó có lĩnh vực hành chính quốc gia,
gắn liền với việc xây dựng đạo đức công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tác giả Nguyễn Duy Quý (chủ biên), "Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay -
Vấn đề và giải pháp" của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam do Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia xuất bản năm 2006 [92], đã nêu lên thực trạng đạo đức xã hội
ở Việt Nam hiện nay. Các tác giả đã chỉ ra đạo đức xã hội Việt Nam đã có nhiều
tiến bộ như: sự bình đẳng trong xã hội, tự do dân chủ của con người được tăng
lên. Bên cạnh đó cũng nêu lên những hạn chế, những điều đáng lo ngại là đạo
đức gia đình và xã hội, đạo đức trong các ngành và các lĩnh vực đang có sự
xuống cấp như lối sống chạy theo đồng tiền, sự tha hóa đạo đức của một bộ phận
cán bộ công chức Nhà nước, tình trạng tội phạm gia tăng v.v… Điều đó đang
gây ra những bức xúc cho xã hội, những lo lắng cho người dân. Trên cơ sở phân
20
tích sâu sắc thực trạng đạo đức xã hội Việt Nam hiện nay, các tác giả đã đưa ra
giải pháp xây dựng đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay. Tuy không đề cập trực
tiếp đến tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức, nhưng các tác giả đã cho
rằng, cần quán triệt những tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh trong xây dựng đạo
đức nói chung, đạo đức công chức nói riêng. Đó là các tư tưởng về vai trò của
đảng cầm quyền, về thực hiện nguyên tắc dân chủ hóa. Những tư tưởng này liên
quan đến đạo đức người công chức, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây
dựng đạo đức công chức.
Tác giả Lê Thị Hằng "Vấn đề nâng cao đạo đức công chức trong cải cách
hành chính ở nước ta hiện nay" đăng trên tạp chí Triết học, số 6, tháng 6 -2009
[39], cho rằng: để nâng cao hiệu quả của việc xây dựng đạo đức công chức hiện
nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần gắn giáo dục với việc đẩy mạnh cải cách
hành chính và dân chủ hóa xã hội. Cải cách hành chính không chỉ là xác định
đầy đủ hơn chức năng hoạt động cũng như cơ cấu hợp lí, tinh gọn nền hành
chính, mà cùng với điều đó là những con người, những công chức trong bộ máy
hành chính. Cải cách hành chính, do vậy, vừa đặt ra yêu cầu, vừa tạo ra điều kiện
thuận lợi để xây dựng đạo đức công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tác giả Trần Sĩ Phán: "Mấy vấn đề đạo đức người cán bộ, đảng viên trong
văn kiện Đại hội X của Đảng". ( Tạp chí Triết học số 5 - 2008) tr 3-7 [79]. Tác
giả đề cập đến nhân cách người cán bộ, đảng viên , đạo đức luôn giữ vị trí nền tảng
và vì vậy, đạo đức là nhân tố nền tảng để người cán bộ, bảo đảm quyền lợi
hoặc thu hút, nêu gương để nhân dân noi theo. Vì thế, vấn đề giáo dục đạo đức
càng trở nên cần thiết trong công tác giáo dục và rèn luyện của đội ngũ cán bộ,
công chức.
Tác giả Ngô Thành Can: "Xây dựng tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán
bộ công chức" tạp chí Tổ chức nhà nước, (4- 2010), tr.39 - 40 [10]. Tác gải đã chỉ
ra được những mặt mạnh, mặt yếu, ưu điểm và nhược điểm trong tính chuyên
nghiệp của đội ngũ cán bộ công chức, góp phần nhìn rõ hơn hoạt động chuyên
môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ công chức.
21
Tác giả Bùi Đình Phong "Xây dựng đạo đức cách mạng của người cán bộ,
công chức xứng đáng là công bộc của dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh" tác giả
cho rằng để xây dựng đạo đức cách mạng của người cán bộ, công chức xứng
đáng là "công bộc" của dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần tập trung thực hiện
tốt một số giải pháp sau đây: thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý để
điều chỉnh đối tượng là cán bộ, công chức; thứ hai, cán bộ, viên chức phải luôn
hành động theo phương châm "việc gì lợi cho dân, phải hết sức làm; việc gì hại
cho dân, phải hết sức tránh". Mỗi cán bộ, công chức luôn đặt ra câu hỏi: Lợi ích
của dân là gì và làm thế nào để mang lại lợi ích cho dân; thứ ba, mỗi cán bộ,
viên chức phải yêu dân, tin dân, trọng dân, gần dân, học dân; thứ tư, mỗi cán bộ,
đảng viên luôn thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; thứ năm, Nhà
nước chăm lo đến chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ, công chức để họ
thực sự là "công bộc" của dân.
Tác giả Nguyễn Tiến Trung "Vài nét về đạo đức công vụ của cán bộ, công
chức", Tạp chí Tổ chức Nhà nước số 8/2010 [107], phân tích một số quy định
pháp luật liên quan đến đạo đức công vụ của cán bộ, công chức đồng thời đưa ra
một số giải pháp định hướng hành động nhằm nâng cao đạo đức công vụ của cán
bộ, công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong đó chú ý đến việc xây dựng và
ban hành luật đạo đức công vụ trên cơ sở các quy định đã có về đạo đức cán bộ,
công chức và công vụ đã được quy định ở luật cán bộ, công chức; Luật phòng
chống tham nhũng và Luật thực hành tiết kiệm chống lãng phí…
Tác giả Lê Đình Mùi "Giải pháp thực hiện pháp luật về đạo đức công chức
trong giai đoạn hiện nay" đăng trên tạp chí Tổ chức Nhà nước số 3/ 2012 [74],
đưa ra các giải pháp như: tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về
đạo đức công chức; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra công vụ nhằm phát
hiện và xử lý kịp thời vi phạm pháp luật về đạo đức công chức đồng thời thực
hiện chính sách tôn vinh, khuyến khích sự tận tâm thực hiện công vụ, khen
thưởng thích đáng về vật chất và tinh thần cho cán bộ, công chức làm việc tốt,
tận tụy và trong sạch. Bên cạnh đó cần đề cao trách nhiệm của người đứng đầu
22
cơ quan trong tổ chức thực hiện pháp luật về đạo đức công chức và quản lý công
chức thuộc quyền quản lý theo quy định của pháp luật.
Tác giả Đỗ Xuân Tuất, "Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cách
mạng cho cán bộ, đảng viên với cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn đảng hiện
nay" Tạp chí lý luận chính trị số 7/2012 [108]. Tác giả nhấn mạnh, việc người
cán bộ phải rèn luyện cả đức và tài, xem đức là cái gốc, tài chỉ phát triển trên cái
gốc của đức. Việc tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất này phải gắn với hoạt động của
mỗi cán bộ. Trong mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ đều cần có đội ngũ cán bộ thích
ứng, vừa có phẩm chất đạo đức, có năng lực đáp ứng được yêu cầu của cách
mạng. Người cán bộ phải có đạo đức làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm
vụ cách mạng.
Tác giả Cao Minh Công "Một số giải pháp nhằm nâng cao đạo đức công
chức trong thực thi công vụ ở Việt Nam hiện nay"- Hội thảo khoa học, Học viện
Hành chính tháng 12/2013. Dựa trên những tiêu chí mà Chủ tịch Hồ Chí Minh
yêu cầu đối với cán bộ công chức, tác giả đã đưa ra một số nhóm giải pháp như:
nhóm giải pháp về những cam kết buộc công chức thực hiện trong thực thi công
vụ, trong nhóm giải pháp này tác giả nhấn mạnh đến tính liêm của công chức
trong thực thi công vụ. Hồ Chí Minh khẳng định: liêm là trong sạch, không tham
lam. Ngày xưa, dưới chế độ phong kiến, những người làm quan không đục khoét
dân, thì gọi là liêm… vì vậy, cán bộ phải thực hành liêm trước, để làm kiểu mẫu
cho dân… dân phải biết kiểm soát quyền hạn của mình, phải biết kiểm soát cán
bộ, để giúp cán bộ thực hiện chữ liêm.
Bên cạnh đó, tác giả cũng nhấn mạnh đến những giải pháp như tăng cường giáo
dục đạo đức công chức, giáo dục phẩm hạnh, lòng tự trọng, lòng vị tha, tình yêu
thương con người, bổn phận, lương tâm, trách nhiệm và đặc biệt là giáo dục tinh thần
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, trong đó giá trị cốt lõi là liêm chính.
Nâng cao nhận thức về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh đây là giải pháp
quan trọng hàng đầu trong việc nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho đội
ngũ cán bộ, công chức. Nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức về tư tưởng,
23
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh có vai trò định hướng, điều chỉnh hành vi của
người cán bộ phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ được giao, đồng thời giúp họ từng
bước hoàn thiện nhân cách. Nhận thức không đầy đủ sẽ dẫn đến việc học tập và
làm theo một cách giản đơn, hình thức. Nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ,
công chức về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh luôn gắn với
nâng cao hiệu quả hoạt động thực tiễn của từng cán bộ đối với việc thực hiện
chức trách, nhiệm vụ. Nhận thức luôn đi đôi với hành động cụ thể, thiết thực,
nhận thức tư tưởng Hồ Chí Minh càng sâu sắc, hành động càng phải tự giác và
đạt hiệu quả cao. Có như vậy, đội ngũ cán bộ, công chức mới thấm nhuần tư
tưởng Hồ Chí Minh. Vì vậy, xây dựng, thực hiện tốt chương trình hành động học
tập tư tưởng và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là yêu cầu cấp thiết
đặt ra hiện nay đối với mỗi cán bộ, công chức.
Nguyễn Thị Hoài Phương (2014) "Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách
mạng và sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay" Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội [87]. Tác giả đã phân tích tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo
đức cách mạng và đặc biệt tác giả phân tích, khẳng định sự thống nhất giữa đạo
đức cách mạng và đạo đức nghề nghiệp theo quan điểm của Hồ Chí Minh.
Tác giả Trần Thị Anh Đào (2016) "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh để ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức,
lối sống và những biểu hiện "tự diễn biến" , "tự chuyển hóa" trong nội bộ - thực
trạng và giải pháp" [30]. Tham luận giữa Hội đồng lý luận Trung Ương với Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả đã phân tích thực trạng suy thoái
về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên và nhấn mạnh
sự cần thiết phải ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng này. Tác giả phân tích thực trạng
sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và biểu hiện "tự diễn biến",
"tự chuyển hóa" trong cán bộ, đảng viên và nhấn mạnh sự cấp thiết phải ngăn
chặn, đẩy lùi tình trạng này. Đồng thời, tác giả phân tích, nêu bật một số tư
tưởng đạo đức tiêu biểu, đặc biệt là tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh với những
đặc trưng về đạo đức của Người. Qua đó, tác giả đề xuất các giải pháp đẩy mạnh
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh để chống suy thoái về tư
24
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển
hóa" trong nội bộ.
Tác giả Trần Đình Huỳnh (2016), "Đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng để góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống và những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ - thực
trạng và giải pháp" [45], tham luận tọa đàm khoa học giữa Hội đồng Lý luận
Trung ương và Học viện CTQG Hồ Chí Minh.
Theo tác giả, tại Điều 4 Hiến pháp năm 2013 đã một lần nữa tái ghi nhận
Đảng là người lãnh đạo và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Như vậy, Điều 4
chẳng những xác định vai trò lãnh đạo của Đảng mà còn phải là chỗ dựa pháp lý
để nhân dân thực thi quyền bảo hiến, giám sát tổ chức và hoạt động của Đảng,
buộc Đảng lãnh đạo phải chịu trách nhiệm cụ thể trước nhân dân về các quyết
sách chính trị của mình. Cần mạnh dạn; kiên quyết tinh giản biên chế, tổ chức,
trước hết từ các cơ quan của Đảng.
Các công trình trên đã trình bày ở những khía cạnh khác nhau về phương
hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức công chức. Đây là cơ sở thuận lợi cho nghiên cứu sinh kế thừa trong quá
trình thực hiện đề tài.
1.4. Đánh giá tình hình nghiên cứu và những vấn đề cần tiếp tục làm rõ
trong luận án
Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như việc vận dụng tư tưởng của
Người trong mọi lĩnh vực của sự nghiệp cách mạng Việt Nam, với việc đào tạo
độ ngũ cán bộ cách mạng cũng như con người mới luôn là vấn đề thời sự, đó là
sự nghiệp của toàn đảng, toàn dân và của hệ thống chính trị nhằm xây dựng nền
hành chính trong sạch, vững mạnh.
Tổng kết các công trình của các tác giả về nội dung này:
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu trên đây đã phân tích, đề cập nhiều
khía cạnh khác nhau liên quan tới đạo đức công chức, chuẩn mực đạo đức công
chức. Ngoài ra, các công trình nghiên cứu trên cũng đã phân tích, đánh giá về
25
thực trạng công chức và đi đến khẳng định những luận cứ, giải pháp cho việc
phải xây dựng đạo đức cho đội ngũ công chức trong sự nghiệp đổi mới đất nước.
Từ việc phân tích vai trò của đạo đức nói chung, đạo đức công chức nói riêng,
các tác giả khẳng định việc nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ công chức
vấn đề hết sức cấp bách.
Thứ hai, luận giải một số nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức công chức như là luận cứ khoa học cho việc xây dựng những chuẩn mực đạo
đức của đội ngũ công chức ở nước ta. Các tác giả đã phân tích sâu sắc vai trò của
đạo đức nói chung, đạo đức công chức nói riêng tiến tới xây dựng nền hành chính
trong sạch với tư cách vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển.
Thứ ba, các công trình nghiên cứu trên đã có những đóng góp quan trọng
khi khẳng định quan điểm của Đảng, Nhà nước ta trong việc vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức cho đội ngũ
công chức hiện nay là yêu cầu bức bách cả trên phương diện lý luận và thực tiễn.
Như vậy, những vấn đề đạo đức của đảng viên, cán bộ quản lý và đạo đức
công vụ, công chức ở Việt Nam hiện nay được nhiều nhà khoa học quan tâm
nghiên cứu. Trong những nghiên cứu đó đã phân tích, đề cập nhiều khía cạnh
khác nhau liên quan đến những nội dung của đề tài mà nghiên cứu sinh nhiên
cứu như những công trình liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công
chức, những công trình liên quan đến thực trạng đội ngũ cán bộ công chức. Tuy
nhiên, cho đến nay còn rất ít công trình tập trung làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh
về đạo đức công chức và vận dụng tư tưởng đó trong giai đoạn hiện nay. Chính
điều đó đòi hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa nghiên cứu chuyên sâu tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức công chức và vận dụng tư tưởng đó trong xây dựng đạo đức
công chức ở nước ta hiện nay. Trong quá trình triển khai đề tài, cùng với việc
nghiên cứu những công trình nêu trên, chúng tôi có một thuận lợi là đã tiếp thu
tinh thần cuộc vận động: "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh", phản ánh nhiều nội dung phong phú và sâu sắc về vấn đề đạo đức của
cán bộ công chức. Đó là những tư liệu và chỉ dẫn quý báu để chúng tôi triển khai
hướng nghiên cứu của mình.
26
Dựa trên những tư liệu hiện có để tập trung nghiên cứu một cách có hệ
thống và trực tiếp Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức và vận dụng tư
tưởng đó trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay, tác giả sẽ sẽ
tiếp tục đi sâu vào giải quyết một số vấn đề sau dưới góc độ triết học:
Thứ nhất, làm rõ hơn tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức; những nội
dung, nguyên tắc, giá trị lý luận và ý nghĩa thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, luận án xác định và phân tích những nhân tố tác động đến sự vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công
chức ở Việt Nam hiện nay; đồng thời đánh giá thực trạng vận dụng đó.
Thứ ba, luận án xác định một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả
của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng
đạo đức công chức ở nước ta hiện nay.
27
Chương 2
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÔNG CHỨC
2.1. Khái niệm đạo đức, đạo đức công chức, đạo đức công chức theo
tư tưởng Hồ Chí Minh
2.1.1. Khái niệm đạo đức
Đạo đức là một hiện tượng xã hội phức tạp, phạm trù có tính lịch sử, có sự
phát triển lâu dài gắn với lịch sử phát triển của xã hội loài người, nhưng về
nguồn gốc của đạo đức có nhiều cách lý giải khác nhau. Trong kho tàng tri thức
của nhân loại đã có vô số những quan niệm, cách tiếp cận khác nhau để lý giải sự
ra đời của đạo đức, các hiện tượng của đạo đức mà mỗi cách giải thích đều có ý
nghĩa, giá trị xã hội nhất định, đều hướng tới phục vụ con người.
Theo quan niệm của Nho giáo, đạo đức bắt nguồn từ Trời, từ thiên mệnh,
chỉ các bậc thánh nhân mới hiểu được đạo trời. Khổng Tử quan niệm: đạo đức
được thực hành trong đời sống xã hội là xuất phát từ mệnh trời (Đạo chi tương
hành dã dư, mạng dã! - Luận ngữ, chương Hiến vấn).
Trong triết lý của Phật giáo, trên cơ sở quan niệm rằng đời là "bể khổ", để
thoát khỏi đau khổ trần gian thì con người phải đi theo tám con đường chính
đáng (bát chính đạo). Dưới góc độ đạo đức thì Phật giáo hướng con người tới cái
thiện, cái có ích cho đời, lấy từ bi làm gốc để vượt qua mọi cái ác, điều gian tà.
Những khuyên răn này vẫn còn nguyên giá trị nhân bản, giá trị định hướng trong
thời đại ngày nay.
Khác với những quan niệm về nguồn gốc đạo đức nói trên, những nhà
sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đi tìm nguồn gốc ra đời của đạo đức từ trong
quan hệ với đời sống kinh tế - xã hội và cho rằng đạo đức có nguồn gốc từ hiện
thực khách quan, phản ánh hiện thực khách quan của con người, đạo đức không
phải là sự biểu hiện của một ý chí siêu phàm nào đó bên ngoài con người, xã hội
loài người. Trong đời sống xã hội của con người hình thành nhiều mối quan hệ:
quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất, lao động, trong
phân phối sản phẩm xã hội; quan hệ giữa cá nhân con người với nhau và quan hệ
28
giữa con người với thiên nhiên. Để duy trì và phát triển những quan hệ đó cần
phải có những quy tắc về hành vi ứng xử của các cá nhân con người. Các quan
hệ xã hội đó được lặp đi lặp lại nhiều lần trong cuộc sống của con người, trải qua
thời gian và không gian, xã hội nhận thấy những nội dung ứng xử nào là hợp lý
nhất sẽ trở thành chuẩn mực của xã hội mang tính yêu cầu đối với mỗi cá nhân
trong xã hội. Bằng con đường đó mà các quy phạm đạo đức của xã hội được
hình thành và được củng cố trong đời sống xã hội.
Tuy vậy, do hình thành trong lịch sử quốc gia, dân tộc, cộng đồng nên đạo
đức cũng có những biến đổi nhất định theo lịch sử, tùy thuộc vào những điều kiện
chính trị, kinh tế - xã hội cụ thể. Do vậy, mỗi thời đại lịch sử lại có những chuẩn
mực đạo đức riêng của mình. Theo nghĩa đó phạm trù đạo đức là phạm trù động.
Từ đó có thể khẳng định: với tư cách là hình thái ý thức xã hội, đạo đức là
toàn bộ tư tưởng, quan điểm, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và
đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã
hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, truyền thống và sức mạnh của
dư luận xã hội.
Xét theo cách tiếp cận như trên thì đạo đức đã trở thành mục tiêu và động
lực để phát triển xã hội vì:
Thứ nhất, đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội - nó tác động
đến tồn tại xã hội, đến đời sống kinh tế. Nó góp phần thúc đẩy hoặc kìm hãm sự
phát triển kinh tế. Nếu như sự tác động ấy cùng chiều với tồn tại xã hội, thì nó sẽ
thúc đẩy tồn tại nói chung, phương thức sản xuất nói riêng phát triển. Lúc này
tính tích cực của người lao động được phát huy, quan hệ giữa người và người trở
nên thân thiện hơn, xã hội phát triển hài hòa. Nếu sự tác động ấy ngược chiều
với sự phát triển và tiến bộ xã hội thì lúc đó sẽ kìm hãm sự phát triển của xã hội.
Ngoài ra sự tác động này có thể có hai tác dụng song trùng, vừa thúc đẩy xã hội
phát triển ở góc độ, khía cạnh này, vừa kìm hãm ở góc độ, khía cạnh khác.
Thứ hai, đạo đức là một trong những phương thức cơ bản để điều chỉnh
hành vi con người, một sự điều chỉnh hoàn toàn tự nguyện, tự giác không vụ lợi
29
trong một phạm vi rộng lớn không giới hạn, sự điều chỉnh ấy đi từ tối thiểu đến
tối đa trong mọi hành vi con người. Nhân loại đã sáng tạo ra nhiều loại phương
thức điều chỉnh hành vi như: pháp luật, chính trị, tôn giáo… nhưng không có
phương thức nào điều chỉnh hành vi một cách rộng lớn như đạo đức. Con người
còn tồn tại thì quan hệ xã hội của nó vẫn còn, để cho mọi hoạt động, hành vi của
mỗi cá nhân phù hợp với yêu cầu tiến bộ xã hội, nhất thiết phải cần đến sự điều
chỉnh của đạo đức.
Thứ ba, đạo đức góp phần nhân đạo hóa con người và xã hội loài người.
Trong một xã hội, con người biết sống vì nhau, vì người khác, sống thân ái, biết
yêu thương và nhường nhịn lẫn nhau… đó sẽ là xã hội tốt đẹp.
Bản chất của đạo đức là sự quan tâm đến lợi ích của con người và xã
hội. Nó làm cho tài năng trí tuệ của con người trở nên hữu ích cho sự nghiệp
chung. Thực tế đã chứng minh, sự linh hoạt, năng động, sáng tạo của mỗi cá
nhân nếu không được dựa trên những nền tảng phẩm chất đạo đức của họ thì
mức độ cống hiến của họ đối với xã hội sẽ rất hạn chế, thậm chí còn dẫn đến
những lệch lạc, sai lầm trong định hướng giá trị: sự xa rời các giá trị truyền
thống, lối sống thực dụng, chủ nghĩa cá nhân…Điều đó nói lên rằng, sự phát
triển của kinh tế càng được đẩy mạnh thì việc giáo dục và rèn luyện đạo đức
ở mỗi người lại càng cần thiết. Có ý thức đạo đức, có phẩm chất đạo đức,
con người mới sống có nề nếp, có kỷ cương, trật tự, có thái độ và khả năng
ứng xử đúng đắn trong các mối quan hệ với tự nhiên, với xã hội và với chính
bản thân mình.
2.1.2. Công chức, đạo đức công chức, xây dựng đạo đức công chức
Công chức là một bộ phận quan trọng của nền hành chính quốc gia. Sự
vận hành và hoạt động của bất kỳ một bộ máy nhà nước nào cũng đòi hỏi phải có
một đội ngũ công chức của nó nhằm đáp ứng hiệu lực và hiệu quả trong hoạt
động điều hành, quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Trước khi đi vào tìm hiểu khái
niệm công chức ở nước ta, cần tìm hiểu đôi nét về quan niệm về công chức của
một số nước trên thế giới để có cái nhìn đối chiếu, so sánh.
30
Ở Pháp, theo từ điển Petit Larousse năm 1992, công chức được định nghĩa
như sau: Công chức là nhân viên của nhà nước được biên chế vào một công việc
thường xuyên liên tục, trong một ngạch của một thứ bậc hành chính, biên chế
của một ngành công vụ. Theo Điều 2 chương II Quy chế chung về công chức của
nhà nước Pháp năm 1994, khái niệm công chức được ấn định như sau: Công
chức là những người được bổ nhiệm vào một công việc thường xuyên với thời
gian làm việc trọn vẹn và được biên chế vào một ngạch trong thứ bậc của các cơ
quan hành chính nhà nước, các cơ quan ngoại biên hoặc trong các công sở nhà
nước. Thực chất của quan niệm này là chỉ đội ngũ "công chức hành chính và
công chức chuyên môn" trong các cơ quan và tổ chức nhà nước. Đó là một đội
ngũ ổn định, hoạt động thường xuyên, họ là những người trực tiếp tạo nên hiệu
lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước. Theo quan niệm trên, công chức ở Pháp gồm
ba loại: công chức hành chính nhà nước, trực thuộc các bộ trưởng quản lý; công
chức địa phương, những người làm việc cho chính quyền địa phương - loại này
không thuộc công chức hành chính nhà nước; công chức trực thuộc các công sở
tự quản, trong đó có các bệnh viện.
Ở Hoa Kỳ, tất cả những nhân viên trong bộ máy hành chính của chính phủ
đều được gọi chung là công chức, bao gồm những người được bổ nhiệm về
chính trị như bộ trưởng, thứ trưởng, trợ lý bộ trưởng, những người đứng đầu bộ
máy độc lập và những quan chức của ngành hành chính. Các thượng nghị sĩ, hạ
nghị sĩ trong ngành lập pháp và những viên chức làm thuê trong Quốc hội thì
không phải công chức. Quan hệ giữa Chính phủ và công chức là quan hệ giữa
ông chủ và người làm thuê, ngoài việc điều chỉnh theo quy phạm luật hành
chính, quan hệ này còn được điều chỉnh bằng hợp đồng dân sự.
Ở Nhật Bản, công chức được chia làm công chức nhà nước và công chức
địa phương. Công chức nhà nước bao gồm những nhân viên giữ những chức vụ
trong bộ máy của Chính phủ Trung ương, ngành tư pháp, Quốc hội, quân đội,
nhà trường, bệnh viện quốc lập, được hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Công
chức nhà nước được chia thành công chức chung và công chức đặc biệt. Công
chức đặc biệt là loại công chức được bổ nhiệm không qua thi cử, theo pháp luật
31
quy định, còn lại đều thuộc loại công chức chung. Công chức địa phương được
hưởng lương từ ngân sách địa phương.
Ở Trung Quốc, theo luật công chức năm 2005, công chức được hiểu là
những người công tác trong cơ quan nhà nước, của mặt trận chính hiệp, tổ chức
chính trị, trừ nhân viên phục vụ. Công chức nhà nước gồm 2 loại: Công chức
lãnh đạo là những người được tuyển vào công chức và được bổ nhiệm vào các vị
trí lãnh đạo. Các công chức này được bổ nhiệm theo các trình tự luật định, chịu
sự điều chỉnh của Hiến pháp, Luật công chức và luật tổ chức chính quyền các
cấp; công chức nghiệp vụ là những người thi hành chế độ thường nhiệm, do cơ
quan hành chính các cấp bổ nhiệm và quản lý căn cứ vào luật công chức. Công
chức nghiệp vụ chiếm tuyệt đại đa số công chức nhà nước, chịu trách nhiệm
quán triệt, chấp hành các chính sách pháp luật.
Như vậy, có thể thấy, bất cứ một nhà nước nào cũng đều cần xây dựng và
quản lý một đội ngũ công chức bao gồm những người có năng lực quản lý, có
trình độ chuyên môn và phẩm chất tốt, làm việc nghiêm túc, tận tụy vì trách
nhiệm, vì bổn phận của mình trước công vụ. Nếu không xây dựng và quản lý đội
ngũ công chức như vậy thì kỷ cương nhà nước sẽ bị buông lỏng, hiệu quả và
hiệu lực của nền hành chính nhà nước sẽ bị suy giảm và khó thực hiện được
chức năng quản lý kinh tế, quản lý xã hội của mình.
Khái niệm công chức mang tính lịch sử, nội dung của nó phụ thuộc rất
nhiều vào hoạt động công vụ, vào chế độ công vụ và nền văn hóa của mỗi quốc
gia và phụ thuộc vào từng giai đoạn lịch sử cụ thể trong từng nước. Vì vậy,
không có một định nghĩa chung nhất về công chức cho tất cả các quốc gia. Ngay
cả trong phạm vi một quốc gia, khái niệm này cũng mang những nội dung khác
nhau theo từng thời kỳ phát triển. Ngay từ những năm đầu sau khi Cách mạng
Tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm xây dựng một văn
bản pháp luật quy định về vấn đề công chức, tạo cơ sở pháp lý để xây dựng đội
ngũ công chức phục vụ chính quyền cách mạng.
Ngày 20 - 5 - 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh 76/SL về
việc ban hành Quy chế công chức, trong đó quy định những vấn đề cơ bản như: khái
32
niệm công chức, quyền lợi, nghĩa vụ của công chức, việc tuyển dụng, sử dụng, khen
thưởng và kỷ luật công chức...Theo quy định này, công chức được giới hạn trong một
phạm vi rất hẹp, chỉ bao gồm những người làm việc trong các cơ quan của Chính
phủ, tức là các cơ quan hành chính nhà nước như các Bộ, Ủy ban hành chính các cấp;
những người làm việc trong các cơ quan khác không phải là công chức.
Năm 1991, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 169/HĐBT ngày
25 - 5 - 1991 về công chức nhà nước: "Công chức Việt Nam được tuyển dụng và
bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong một công sở của Nhà nước ở
Trung ương hay địa phương; ở trong nước hay ngoài nước; đã được xếp vào một
ngạch, hưởng lương do ngân sách nhà nước cấp gọi là công chức nhà nước"
(xem: Nghị định 169/HĐBT ngày 25 - 5 - 1991 về công chức nhà nước)
Bước vào thời kỳ đổi mới, ngày càng nhận thức rõ tầm quan trọng đặc
biệt của đội ngũ cán bộ công chức trong nền hành chính quốc gia, Nhà nước ta
ban hành Pháp lệnh cán bộ công chức và đã được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
thông qua, Chủ tịch nước ký Lệnh công bố ngày 09 tháng 3 năm 1998. Kể từ khi
được ban hành năm 1998, Pháp lệnh cán bộ, công chức đã được sửa đổi, bổ sung
một số điều vào năm 2000, 2003.
Luật Cán bộ, công chức hiện hành của nước ta được Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII thông qua tại kỳ họp thứ 4
(ngày 13 tháng 11 năm 2008). Theo Luật này, cán bộ, công chức là người
được tuyển dụng, bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo, quản lý, vào ngạch, bậc
khác nhau để thực hiện công việc mang tính chuyên môn, nghiệp vụ; yêu cầu
tiên quyết là họ phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với các chức
vụ, ngạch bậc, vị trí làm việc. Khoản 2 Điều 4 Luật cán bộ, công chức năm
2008 quy định: "Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ
nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện,
trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam mà không phải là sĩ
quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng, trong cơ quan, đơn vị
thuộc Công an nhân dân Việt Nam mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan
33
chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công
lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (gọi
chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân
sách nhà nước, đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị
sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp
công lập theo quy định của pháp luật" [90, tr.10-11].
Như vậy, có thể thấy rằng, công chức là bộ phận quan trọng của hệ thống
chính trị bao gồm những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào các chức vụ,
chức danh, ngạch, bậc trong biên chế nhà nước hoặc được giao giữ một công
việc thường xuyên, làm trong cơ quan hành chính nhà nước các cấp, đảm bảo
chức năng quản lý hành chính và được hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Khác với nhiều nước trên thế giới, công chức Việt Nam làm việc trong cơ
quan nhà nước trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp, ngoài ra họ còn
làm việc trong các tổ chức chính trị - xã hội với những nhiệm vụ, công việc rất khác
nhau nhưng đều có chung mục đích là phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội. Vì vậy
những hoạt động của họ tác động rất lớn đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Chính vì lẽ đó, xây dựng đạo đức cho đội ngũ công chức có ý nghĩa quan trong đối
với việc nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa
phương. Với mục tiêu hướng tới nhằm phục vụ lợi ích công, nền hành chính công
do vậy phải xây dựng đạo đức cho đội ngũ công chức để hướng tới người công
chức vừa hồng, vừa chuyên đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước, thể
hiện đúng chủ trương của Đảng về việc xây dựng nền hành chính phục vụ nhân dân.
Trong luận án do giới hạn của đề tài nghiên cứu , luận án tập trung nghiên cứu khảo
sát đội ngũ công chức trong lĩnh vực hành chính nhà nước.
Đạo đức công chức là một vấn đề được các quốc gia trên thế giới đặc biệt
quan tâm, bởi đạo đức công chức có vai trò quyết định đến hiệu lực, hiệu quả
của hoạt động công vụ. Do vậy, các quốc gia hiện nay đang rất nỗ lực trong việc
xây dựng và hoàn thiện các giá trị và chuẩn mực đạo đức công chức.
Đạo đức công chức là một dạng đặc biệt của đạo đức nghề nghiệp. Ở đây
đạo đức nghề nghiệp là dạng đặc thù của đạo đức xã hội, nó ra đời cùng với sự
34
phát triển của một nghề nhất định. Đạo đức nghề nghiệp là hệ thống các nguyên
tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức của một nghề cụ thể, trên cơ sở đó mà các
thành viên của ngành nghề đó tự đánh giá, điều chỉnh hành vi của bản thân cho
phù hợp với nhu cầu của lợi ích, mục đích của sự tiến bộ xã hội.
Thật vậy, trong xã hội có bao nhiêu nghề thì ở đó có bấy nhiêu đạo đức
nghề nghiệp. Chẳng hạn, đạo đức nghề y (y đức) từ thời cổ đại đến nay đã có
những chuẩn mực chung, lấy việc cứu người làm điều thiện. Ngày nay, dưới chế
độ xã hội chủ nghĩa đạo đức của người thầy thuốc là những giá trị đạo đức trên
đã được nâng lên phù hợp với đạo đức của con người xã hội chủ nghĩa.
Đạo đức nghề nghiệp có vai trò to lớn, nó không chỉ là một nhánh đặc sắc
trong đạo đức xã hội mà còn là một cấp độ đạo đức tiêu biểu, một loại đạo đức
đã được thực tiễn hóa. Chẳng hạn, trong quá trình xây dựng đạo đức xã hội chủ
nghĩa, đạo đức cách mạng, mỗi cán bộ công chức phải luôn yêu cương vị công
tác, yêu nghề, chân thành, giữ chữ tín, làm việc có hiệu quả, năng suất cao,
không ngừng rèn luyện đạo đức cách mạng phải hết lòng hết sức phục vụ sự
nghiệp cách mạng của đảng, của nhân dân, tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Từ đây có thể đưa ra định nghĩa đạo đức công chức: Đạo đức công chức
bao gồm những chuẩn mực đạo đức, những nguyên tắc đạo đức nhằm đánh giá
điều chỉnh thái độ, hành vi, cách xử sự - thực hiện bổn phận của công chức
trong thực thi công vụ.
Ở đây, cần chú ý là: công chức là người đặc biệt trong xã hội, bởi lẽ họ là
những người được sử dụng quyền lực nhà nước trên cơ sở các quy định của pháp
luật để phục vụ nhân dân, phục vụ tổ quốc. Những phẩm chất đạo đức đó là một
trong những tiêu chí quan trọng không thể thiếu khi đánh giá về công chức trong
mỗi giai đoạn lịch sử nhất định.
Xây dựng đạo đức là quá trình tác động có tính tích cực, có mục tiêu, có
kế hoạch với hình thức đa dạng bằng nhiều con đường của chủ thể tới đối tượng
nhằm giúp họ thấm nhuần tự giác một cách toàn bộ phẩm chất đạo đức, hướng
tới các quá trình hoàn thiện xã hội và con người mang tính dân tộc và nhân văn.
Từ đây có thể hiểu đạo đức công chức cũng là quá trình tác động tích cực
có mục tiêu có kế vơi hình thức đa dạng bằng nhiều con đường của chủ thể tới
35
công chức nhằm giúp họ thấm nhuần tự giác một cách toàn bộ phẩm chất đạo
đức công chức trong thực thi công vụ hướng tới các quá trình hoàn thiện xã hội
và con người mang tính dân tộc và nhân văn.
Xây dựng đạo đức cho đội ngũ công chức là quá trình bao gồm nhiều yếu
nội tại chúng tác động biện chứng nhau. Tổng hòa đặc trưng của các yếu tố nội
tại chỉ là biểu hiện bản chất của quá trình này, cụ thể là:
Một là: mục tiêu xây dựng đạo đức công chức cho đội ngũ cán bộ công
chức nhằm hướng các quan niệm đạo đức từ trạng thái tự phát sang tự giác. Đó
là nâng cao trình độ nhận thức đạo đức và đưa đến cho công chức những tri thức
đạo đức, tình cảm đạo đức, lý tưởng đạo đức đúng đắn làm cơ sở cho niềm tin và
hành vi đạo đức trong quá trình thực hiện nhiệm vụ cũng như trong cuộc sống
của người công chức.
Hai là: chủ thể xây dựng đạo đức công chức tác động tích cực, tự giác đến
đội ngũ này. Chủ thể xây dựng trước hết phải kể đến Đảng, Nhà nước, các tổ
chức chính trị xã hội từ nhận thức chuyển thành hành động bằng việc đề xuất, ban
hành những chủ trương, chiến lược xây dựng đạo đức công chức cũng như cơ chế
chính sách xây dựng công chức. Các chủ thể này tạo môi trường thuận lợi, động lực
chính trị, tinh thần, vật chất thúc đẩy nâng cao hiệu quả cho đội ngũ này.
Cấp ủy Đảng, chính quyền cơ quan, đơn vị, cán bộ quản lý cơ sở, nhân
dân giữ vai trò quan trọng trong việc lãnh đạo xây dựng đạo đức công chức cho
cán bộ công chức. Ở đây cũng phải kể đến vai trò của nhà trường trong việc
giáo dục đào tạo đội ngũ công chức theo hướng phát triển toàn diện để hoàn
thành tốt việc thực thi công vụ.
Như vậy sự tạo dựng, định hướng thường xuyên, tác động tích cực của các
chủ thể xây dựng đã chủ quan hóa cái khách quan trong quá trình nhận thức,
chuyển hóa ở đối tượng xây dựng, đảm bảo được mục đích theo các chuẩn mực
đề ra.
Ba là: Cán bộ công chức vừa là đối tượng xây dựng, vừa với tư cách là
chủ thể trong việc tự giác học tập, rèn luyện theo các chuẩn mực đạo đức công
chức để xây dựng đạo đức cho mình.
36
2.1.3. Đạo đức công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh không dùng thuật ngữ "đạo đức cán bộ, công chức"
mà sử dụng thuật ngữ đạo đức cách mạng, "đạo đức cách mạng" để chỉ đạo đức
của người đi làm cách mạng. Đạo đức cách mạng thực chất là đạo đức của thời
đại mới, đạo đức của những người phụng sự cho sự nghiệp cách mạng. Đạo đức
cách mạng của người cán bộ chỉ được biểu hiện thông qua hành vi hoạt động của họ
vì sự nghiệp chung của nhà nước, của quốc gia, dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, "Người làm cách mạng phải có đạo đức cách mạng
làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ vẻ vang" [71, tr.601]. Điều đó
không có nghĩa là Hồ Chí Minh coi nhẹ phẩm chất chính trị, phẩm chất chuyên
môn của người cách mạng, mà đây là những tiêu chí phải có ở người cách mạng,
phải vừa hồng vừa chuyên. Người đã từng nói: có đức mà không có tài thì làm
việc gì cũng khó, có tài mà không có đức thì vô dụng. Đạo đức công chức có ảnh
hưởng lớn tới đạo đức của các đối tượng khác trong xã hội, tới mọi mặt đời sống
của xã hội, cơ quan, tổ chức. Đạo đức công chức là tấm gương phản chiếu đời
sống nhà nước, chế độ công vụ của một quốc gia trong những thời đại nhất định.
Đạo đức công chức là những giá trị cốt lõi, chuẩn mực giá trị đạo đức và
hành vi người công chức, những phẩm chất được thể hiện ở mục tiêu, lý tưởng,
đạo đức, lối sống, tinh thần, thái độ đối với xã hội, đối với con người. Đối với
công chức, những phẩm chất ấy không chỉ được xã hội đánh giá trên cơ sở các
tiêu chuẩn đạo đức do địa phương họ sinh sống đặt ra mà còn được pháp luật quy
định cụ thể và bản thân họ bắt buộc phải thực hiện.
Đạo đức công chức phản ánh mối quan hệ giữa các công chức với nhau,
quan hệ giữa công chức với các tổ chức, cá nhân trong thực thi công vụ. Ở Việt
Nam, đạo đức công chức được thể hiện thông qua phẩm chất đạo đức của họ,
thông qua việc thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước vào công việc cụ thể của họ. Những phẩm chất đó được thể hiện bằng việc
tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, sẵn sàng hy sinh vì lợi ích của quốc gia, dân
tộc vì độc lập, tự do và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Đạo đức công chức còn biểu hiện trong quan hệ giữa các công chức với
nhau, trong quan hệ giữa công chức với nhân dân, trong thực hiện mục tiêu lý
37
tưởng của bản thân mỗi công chức. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì người công
chức có phẩm chất đạo đức tốt phải luôn là tấm gương về lòng trung thực, dũng
cảm, liêm chính, phải đặt lợi ích của quốc gia, của nhân dân trên lợi ích của cá
nhân. Người công chức phải luôn đặt mục tiêu, lý tưởng, sống, làm việc, học tập
để phụng sự nhân dân, phụng sự tổ quốc, luôn phấn đấu vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Người kêu gọi tất cả các tầng lớp nhân dân trong xã hội Việt Nam ra sức
phấn đấu xây dựng một nền đạo đức mới trong xã hội. Khi nói đến đạo đức mới
thường là nói đến đạo đức cách mạng và những yêu cầu, chuẩn mực mà mỗi
người ở mỗi vị trí, công việc khác nhau đều phải cố gắng, tu dưỡng, rèn luyện.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đặc biệt chú trọng đến sự nghiệp xây dựng và rèn luyện đạo đức cách
mạng cho mỗi người. Đầu năm 1947, trong tác phẩm hỏi đáp về "Đời sống mới",
để giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân thực hiện lối sống mới, đạo đức
mới nói chung, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, nói riêng. Tháng 10 - 1947,
Người viết tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc", trong đó phần quan trọng là căn dặn
mọi người, nhất là cán bộ, đảng viên phải thường xuyên ra sức rèn luyện đạo đức
cách mạng và cùng nhau quyết tâm chống lại những thói hư tật xấu.
Tháng 12 - 1958, Người cho in một chuyên luận trên Tạp chí Học tập (bút
danh Trần Lực) với tựa đề "Đạo đức cách mạng". Trong tác phẩm này Người đã
nêu một cách đầy đủ, hoàn thiện, chính xác nhất về đạo đức cách mạng. Người
viết: có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại cũng không
sợ sệt, rụt rè, lùi bước.
Người luôn giáo dục cán bộ, đảng viên: "Cán bộ Đảng, cán bộ chính quyền
không phải làm quan cách mạng, ăn trên ngồi trốc. Cán bộ Đảng cũng như cán bộ
chính quyền, ngay cả Bác là cán bộ cao nhất đều là đầy tớ của nhân dân, phải hết lòng
hết sức phục vụ nhân dân, phải cần, kiệm, liêm, chính" [71, tr.113]. Trong quan niệm
của Người thì đạo đức chính là những phẩm chất đòi hỏi con người cần phải có
để tham gia vào cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người
đã đề ra những yêu cầu đạo đức cách mạng hợp với mọi đối tượng để phấn đấu,
38
rèn luyện nhằm hoàn thành nhiệm vụ khó khăn, phức tạp từ đó giành thắng lợi
to lớn cho sự nghiệp cách mạng. Tư tưởng đạo đức của Người còn là đạo đức
trong hành động, lấy hiệu quả thực tế làm thước đo. Cho nên, Người luôn đặt
đạo đức bên cạnh tài năng, gắn đức với tài, lời nói đi đôi với hành động và hiệu
quả thực tế. Đạo đức công chức không chỉ là những giá trị, chuẩn mực, quy tắc
do xã hội đặt ra đối với công chức mà còn là sự đánh giá, thừa nhận của xã hội
về những giá trị, chuẩn mực tốt đẹp của công chức, nó là kết quả của quá trình
tu dưỡng, rèn luyện của công chức.
Từ cơ sở những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức cán bộ,
đạo đức mới, có thể rút ra kết luận về đạo đức của công chức theo tư tưởng Hồ Chí
Minh như sau: Đạo đức công chức là dạng đặc biệt của đạo đức nghề nghiệp bao
gồm những chuẩn mực, những nguyên tắc nhằm đánh giá, điều chỉnh thái độ, hành
vi, cách xử sự, thực hiện chức trách, bổn phận của công chức đối với xã hội, đối với
Tổ quốc và nhân dân.
Từ định nghĩa trên có thể chú ý mấy điểm sau:
Thứ nhất, ở Việt Nam đạo đức của công chức được thể hiện trong nhận
thức, hoặc có thể được thể chế hóa thành những quy tắc trong các văn bản của
Nhà nước, của Đảng, của tổ chức chính trị -xã hội. Đây chính là cơ sở vững chắc
để xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Hồ Chí Minh coi
đạo đức cách mạng là cái gốc, cái nền tảng của người cách mạng, là nguồn nước
làm cho tinh thần cách mạng không bao giờ cạn. Người thường nói: đối với con
người, có sức mạnh mới gánh được nặng và đi được xa, người cách mạng phải
có đạo đức cách mạng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng, vì sự nghiệp
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đòi hỏi sự phấn đấu không ngừng của mỗi
người và của nhiều thế hệ nối tiếp nhau. Mỗi bước thắng lợi của sự nghiệp xây
dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa là mỗi bước khẳng định địa vị thống
trị về chính trị của giai cấp công nhân về kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa,
trong đó có đạo đức của nó. Đạo đức cộng sản dần dần khẳng định địa vị thống
trị của mình trong đời sống đạo đức xã hội, và là vũ khí tinh thần của giai cấp
công nhân trong quá trình xây dựng xã hội mới. Nói cách khác, theo Hồ Chí
39
Minh, đạo đức mới là đạo đức cộng sản chủ nghĩa, cụ thể là: các lý tưởng và
nguyên tắc đạo đức cộng sản là cơ sở để các đảng mácxit và chính quyền nhà
nước vô sản hoạch định chiến lược, sách lược, chính sách kinh tế, chính trị và
văn hóa - tư tưởng. Ở đây, đạo đức và chính trị đều có chung mục đích là khẳng
định lợi ích của giai cấp công nhân. Kết quả là đạo đức cộng sản, theo một ý
nghĩa nhất định, vừa mang tính chính trị, vừa mang tính pháp quyền.
Đạo đức cộng sản đã nhân đạo hóa một cách phổ biến mọi quan hệ xã hội
nhờ tính phổ biến của các giá trị nhân đạo của mình. Dù trong thời kỳ đấu tranh
giành chính quyền hay trong thời kỳ xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ
nghĩa, hành vi của giai cấp vô sản đều nhằm mục đích cao cả là giải phóng mình
và giải phóng cả loài người. Bởi vì, với giai cấp vô sản, muốn giải phóng mình
phải giải phóng cả nhân loại; muốn một người được tự do thì mọi người phải
được tự do. Ở đây, nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, sự thống nhất về chính trị, tinh
thần và đạo đức trong các giai cấp và tầng lớp xã hội là cơ sở quy định tính phổ
biến của các giá trị nhân đạo trong xã hội. Mặt khác, nội dung nhân đạo của đạo
đức cộng sản còn là tư tưởng về con đường và phương thức của sự khẳng định
sự tồn tại, hạnh phúc và phát triển tự do của con người.
Thứ hai, đạo đức công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh là gốc của tài
trong quan hệ đức và tài. Đạo đức là gốc, là nền tảng, nhưng đức tài phải kết hợp
với nhau, phải đi đôi với nhau. Hồ Chí Minh xem xét đạo đức một cách toàn
diện đối với mọi người, trên mọi lĩnh vực hoạt động của con người và trong ba
mối quan hệ cơ bản của con người là: mình đối với mình; mình đối với người và
mình đối với công việc. Đạo đức cách mạng hay đạo đức của người cách mạng
nếu trước kia đã trở thành vũ khí sắc bén trong đấu tranh giành độc lập, tự do, thì
ngày nay là động lực mạnh mẽ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và vai trò
của đạo đức cách mạng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội hiện nay lại mang
tính thời sự cấp bách.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - tấm gương tiêu biểu về đạo đức, Người viết:
Tuy năng lực và công việc của mỗi người có khác nhau, người làm việc to,
người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức đều là người cao thượng. Con
40
người sống trong xã hội vừa tiếp thu những giá trị của xã hội, biến nó thành
những phẩm chất cá nhân, vừa in dấu ấn của cá nhân mình lên xã hội thông
qua những phẩm chất năng lực và đạo đức. Năng lực và đạo đức là hai yếu tố
cơ bản để tạo nên uy tín của mình đối với những người xung quanh. Con
người càng mở rộng phạm vi hoạt động ra bao nhiêu, càng đòi hỏi việc nâng
cao đạo đức bấy nhiêu.
Người cán bộ cách mạng là người tình nguyện hy sinh hạnh phúc riêng
của mình để phấn đấu vì một sự nghiệp lớn lao của nhân loại là giải phóng con
người, loài người khỏi áp bức bóc lột. Bản thân sự tình nguyện hy sinh đó đã là
một hành vi đạo đức, nhưng chỉ thế thôi thì chưa đủ. Muốn thực hiện được sự
nghiệp vẻ vang của mình, người cán bộ cách mạng phải không ngừng rèn luyện
tu dưỡng đạo đức cách mạng. Có đạo đức cách mạng vững chắc mới chiến thắng
được chủ nghĩa cá nhân trong mỗi con người. Chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù luôn
rình rập, ẩn náu trong mỗi người cách mạng. Chừng nào mà người cách mạng để
cho chủ nghĩa cá nhân chiến thắng và lấn lướt thì chừng đó đạo đức của người
cách mạng là đạo đức giả, giả danh cách mạng để thu vén lợi ích cá nhân. Hồ
Chí Minh là một nhà đạo đức mẫu mực, một tấm gương sáng ngời về đạo đức
cách mạng. Người nhấn mạnh "Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo
đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân" [67, tr.292].
Đạo đức cách mạng là cơ sở, là nền tảng của nhân cách, là điều kiện cơ bản để
người cán bộ thực hiện mục tiêu lý tưởng của mình. Có đạo đức cách mạng, người
cán bộ cách mạng mới kiên định, vững vàng trong mọi hoàn cảnh, lúc gian khổ khó
khăn, thất bại cũng không sờn lòng, lúc thắng lợi thành công cũng không tự mãn,
kiêu căng. Phẩm chất và năng lực, đạo đức và tài năng phải luôn thống nhất trong
nhân cách của người cách mạng.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng là kết quả của sự
kết hợp bởi nhiều yếu tố. Trong đó, những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc Việt Nam là cội nguồn để hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
cách mạng. Xuất phát từ lòng nhân ái bao la và tình yêu quê hương đất nước sâu
41
nặng, Người đã tìm đến với những nguyên lý về đạo đức cộng sản của chủ nghĩa
Mác- Lênin, nơi đặt nền móng và sự hình thành vững chắc cho tư tưởng về "đạo
đức mới" - đạo đức cộng sản. Bằng một nhân cách hoàn hảo và phong cách sống
giản dị, Người đã kiên quyết lên án và ra sức đấu tranh chống lại mọi biểu hiện
của chủ nghĩa cá nhân. Chính vì lẽ đó mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành một
tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng - trọn đời tận tụy với nước và tận
hiếu với nhân dân.
2.2. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức
2.2.1. Cơ sở thực tiễn
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: cán bộ là gốc của mọi công việc, công việc
thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém, trong tiến trình xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, việc chăm lo xây dựng đội ngũ
công chức có đủ trình độ, năng lực, phẩm chất để hoàn thành nhiệm vụ là một
yêu cầu tất yếu. Đội ngũ này phải vừa có chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp
cao, vừa giác ngộ chính trị và có tinh thần trách nhiệm, tận tụy, công tâm, có đạo
đức liêm khiết khi thi hành công vụ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chăm lo đến lợi ích của giai cấp công nhân,
nông dân và các tầng lớp lao động, nhưng bao trùm hơn cả là vấn đề về dân tộc
và đại đoàn kết dân tộc. Trong khi xác định cơ sở xã hội của nhà nước mới,
Người đặc biệt chú trọng đến lớp trẻ, lớp thanh niên, coi họ là rường cột của
nước nhà và đưa nước ta đến đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc
năm châu. Tiếp đến là trí thức, những người đã và đang làm việc, sinh sống ở
trong hay ngoài nước. Hiến pháp năm 1946 do Người chủ trì soạn thảo đã được
Quốc Hội nhất trí thông qua, làm nức lòng các tầng lớp nhân dân trong cả nước,
bởi lần đầu tiên trong lịch sử mấy ngàn năm của dân tộc, nay mới có một văn
bản pháp lý cao nhất trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân đồng bào và trước thế
giới: "Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa, tất cả quyền bính trong
nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai,
giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo" (Điều 1, Hiến pháp 1946).
42
"Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham
gia chính quyền và công cuộc kiến thiết tùy theo tài năng và đức hạnh của mình"
(Điều 7, Hiến pháp 1946).
Một khối đại đoàn kết dân tộc như trên là cơ sở sức mạnh vững chắc của
Nhà nước. Đương nhiên, khối đại đoàn kết dân tộc ấy phải được đặt trong một
không gian lãnh thổ như cha ông ta từng tuyên bố "Nam quốc sơn hà, Nam đế
cư". Tư tưởng đoàn kết, thống nhất dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh như sợi
chỉ đỏ xuyên suốt quá trình sáng lập, xây dựng và lãnh đạo đất nước. Đó là sức
mạnh và niềm tin mãnh liệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và sự bền vững của nhà
nước bởi Người tin rằng, hễ là người Việt Nam thì ai cũng có "một lòng nồng
nàn yêu nước", Đảng và Nhà nước ta phải biết phát triển, phát huy lòng nồng nàn
yêu nước ấy.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thấu hiểu sâu sắc về học thuyết Nhà nước
pháp quyền. Người trân trọng tư tưởng: Tự do, bình đẳng, bác ái của cuộc cách
mạng tư sản Pháp. Người đã cùng với những người yêu nước Việt Nam ở Paris
đề ra "Yêu sách của nhân dân An Nam" gửi Hội nghị Véc -xây (tháng 6 - 1919).
Trong đó đã đòi hỏi về một nền pháp quyền cho xứ Đông Dương như: cải cách
nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được quyền hưởng
những bảo đảm về mặt pháp luật như người châu Âu, xóa bỏ hoàn toàn các tòa
án đặc biệt...ban bố các quyền tự do. Năm 1926, trong bản yêu sách gửi Hội Vạn
quốc, nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc đã gắn tư tưởng về một nhà nước pháp
quyền với việc giải phóng dân tộc. Người đòi "phải trả quyền tự quyết cho dân
Việt Nam" và tuyên bố: "Nếu được độc lập ngay thì nước chúng tôi...sẽ đặt một
nền hiến pháp theo những lý tưởng dân quyền".
Hiến pháp là linh hồn của độc lập, tự do, bảo vệ cho độc lập, tự do và đặt
khuôn khổ pháp lý cho đời sống dân chủ, cho cuộc sống độc lập, tự do của người
dân. Hiến pháp mở lối cho phương thức quản lý bằng pháp luật, cho việc hình
thành các tổ chức của các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội; cho việc hình
thành đội ngũ quan chức, viên chức và quy định họ được làm và chỉ được làm
43
những điều mà pháp luật cho phép; cho một xã hội mà công dân được hưởng các
quyền lợi gì, phải làm nghĩa vụ gì đều do pháp luật quy định. Chính vì thế mà
ngay sau khi đọc bản Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị
Chính phủ quyết định tổ chức Tổng quyển cử bầu Quốc Hội, lập Ban soạn thảo
Hiến pháp do đích thân Người chủ trì. Và điều này, trước đây ít nói tới là trước
khi có Hiến pháp năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh giữ lại nhiều
luật lệ của chế độ cũ, chỉ trừ những điều trái với độc lập, tự do. Người đã giải
thích: "Một xã hội không thể sống một ngày không có pháp luật". Liền đó Người
đã ký một loạt Sắc lệnh cấp bách: sắc lệnh tổ chức tòa án "độc lập với hành
chính", "các vị thẩm phán chỉ xử trong vòng pháp luật và công lý". Các cơ quan
khác không được can thiệp vào việc tư pháp.
Tư tưởng pháp quyền của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn thể hiện trong các
quy định của tổ chức bộ máy nhà nước, trong hoạt động hành chính mà từ buổi
đầu 1945 đến 1959, Người vừa là nguyên thủ quốc gia vừa là người đứng đầu
Chính phủ, là lãnh tụ của Đảng từ năm 1951, đã rất nghiêm khắc đòi hỏi mọi tổ
chức Đảng, Chính phủ, các đoàn thể, mọi đảng viên, cán bộ, nhân viên nhà nước,
tướng sỹ, sỹ quan và binh sỹ trong quân đội, trong các lực lượng vũ trang đều
phải tuân thủ pháp luật, không ai được đứng trên hay đứng ngoài pháp luật. Với
cơ quan tư pháp, Người đã chỉ rõ: "Phụ công thủ pháp, chí công vô tư", tư pháp
phải bảo vệ pháp luật, bảo vệ nhân dân... Hai mươi tư năm làm Chủ tịch nước,
Người đã dốc toàn bộ trí tuệ, tinh thần và sức lực vào lãnh đạo hai cuộc chiến
tranh gay go, khốc liệt nhất trong lịch sử dân tộc, trực tiếp chỉ đạo xây dựng hai
bản hiến pháp của nước ta, xây dựng mười sáu đạo luật, ký trên 1300 Sắc lệnh và
văn bản Luật. Đó là nền tảng vô cùng vững chắc cho xây dựng một nhà nước
pháp quyền của chúng ta ngày ngay, mặc dù khi sinh thời Người không nhắc tới
khái niệm "Nhà nước pháp quyền".
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của người cán bộ
cấp trên. Người đã nhiều lần nhắc nhở đảng viên, cán bộ cấp trên phải làm mực
thước cho cán bộ cấp dưới và người ngoài Đảng "Thượng bất chính, hạ tắc
44
loạn", nếu cán bộ cấp trên không gương mẫu thì làm sao có thể bảo ban, hướng
dẫn cấp dưới, làm sao duy trì được kỷ luật Đảng và trật tự kỷ cương phép nước.
Người có yêu cầu rất cao đối với đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước nhằm xây
dựng một Chính phủ liêm khiết, một nền hành chính kiểu mới, mạnh mẽ, trong
sạch, làm công bộc cho nhân dân. Người đã ký hai Sắc lệnh xây dựng đội ngũ
công chức: Sắc lệnh số 188/SL ngày 29/5/1948 Sửa đổi chế độ công chức và đặt
các thang lương cho công chức; Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 của Chủ tịch
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành Quy chế công chức.
Nội dung của Quy chế công chức đã thể hiện rõ tư tưởng chỉ đạo của Chủ
tịch Hồ Chí Minh về sự tôn trọng tài năng của công chức và đòi hỏi họ phải có
đủ lòng trung thành với Tổ quốc, đạo đức và khả năng để hoàn thành các công
vụ được giao. Tư tưởng đó đã thể hiện ngắn gọn, súc tích trong lời nói đầu bản
quy chế nêu trên: Công chức Việt Nam là những công dân giữ nhiệm vụ trong bộ
máy nhà nước của chính quyền nhân dân, dưới sự lãnh đạo tối cao của Chính
phủ. Đi đôi với nhiệm vụ đó, công chức Việt Nam cần có một vị trí xứng đáng
với tài năng của mình. Người đồng nhất đạo đức cách mạng với đạo đức công
chức, bởi người coi hoạt động trong các cơ quan nhà nước, trong hệ thống hành
chính các cấp cũng là làm cách mạng. Tất cả các loại cán bộ, dù công tác Đảng
hay công tác ở chính quyền, dù chiến đấu ở tiền phương hay lao động trên các
công trường, nhà máy đều là làm cách mạng đều do yêu cầu của công việc và tổ
chức phân công.
Có thể nói toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Người gắn liền với quá trình
phát triển tư tưởng đạo đức cách mạng mà Người vừa là tác giả sáng tạo lý
thuyết, vừa là nhà thực hành mẫu mực. Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng
ngời về đạo đức cách mạng, Người viết: Có đạo đức cách mạng thì gặp khó
khăn, gian khổ, thất bại cũng không rụt rè, lùi bước. Có đạo đức cách mạng, thì
gặp thuận lợi vẫn giữ vững được tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, lo
trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, lo hoàn thành tốt nhiệm vụ, chứ không kèn cựa
về mặt hưởng thụ; không công thần, không quan liêu, không hủ hóa. Trong nhiều
bài viết và nói của Người với những đối tượng khác nhau, nhưng tựu chung lại,
45
đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh bao gồm: cần, kiêm, liêm, chính, chí công, vô
tư, nhân, nghĩa, trí, dũng, tín, trung, hiếu.
Những phạm trù đạo đức nói trên được hình thành rất sớm gắn với tư
tưởng chính trị của nhà nước Trung Hoa cổ đại, nó được xác lập thành hệ thống
lý luận của Nho giáo và các nhà Nho Việt Nam đã tiếp thu, vận dụng và trở
thành khuôn mẫu đạo đức trong xã hội Việt Nam trong nhiều thế kỷ cho đến
trước năm 1945. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu những tinh hoa của tư tưởng
đạo đức Nho giáo, loại bỏ những tư tưởng lạc hậu và đưa vào nội hàm các phạm
trù nói trên những nội dung hoàn toàn mới phù hợp với thời đại cách mạng do
giai cấp vô sản lãnh đạo. Như vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, bất cứ ai cũng
phải có đạo đức công dân - đạo đức làm người trong một nhà nước dân chủ. Đạo
đức cách mạng đồng nhất với đạo đức công chức, bất kỳ cán bộ, công chức nào
cũng phải xác định mình là người đứng đầu trong hàng ngũ cách mạng, làm cách
mạng và phải có đạo đức cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất đề cao vị thế xã hội của công chức nhà nước
thông qua việc đề cao vị thế của bộ máy nhà nước, của Chính phủ, đó là những
người "dẫn đường" cho nhân dân, cho xã hội. Trong bức thư gửi Uỷ ban nhân
dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng ngày 17-10-1945, Người viết: "Nếu không có nhân
dân thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có Chính phủ thì nhân dân
không có ai dẫn đường". Vị thế của người dẫn đường trong đời sống xã hội là vị thế
cao quý, vị thế đó chỉ dành cho người có những phẩm chất hơn người và do vậy rất
đáng được tôn vinh. Người cầm quyền, người dẫn đường theo Hồ Chí Minh cũng
chính là "công bộc" của nhân dân. Công bộc là người phục vụ, người "đầy tớ" của
nhân dân. Đó vừa là trách nhiệm, vừa là danh dự cao quý, bởi phục vụ nhân dân,
phụng sự cho lợi ích chung của cộng đồng, của xã hội là phẩm giá mang tính tộc
loại chỉ có ở con người (loài người). Còn chỉ biết đến lợi ích, nhu cầu bản thân mỗi
cá thể (hay mỗi cá nhân) thì ở các loài động vật bản năng ấy mạnh hơn con người.
Để xứng đáng với vị thế xã hội của người lãnh đạo, người đầy tớ của nhân
dân thì người cán bộ công chức phải biết tự ý thức giữ gìn địa vị và nâng cao
phẩm giá của mình tức là phải biết tu dưỡng đạo đức cá nhân. Muốn tu dưỡng
46
đạo đức cá nhân cần phải biết liêm sỉ. Biết liêm sỉ là tự biết xấu hổ, biết hổ thẹn
trước những hành động sai trái không đúng với lương tâm, không đúng với vị thế
của mình và sự kỳ vọng của xã hội. Vì liêm sỉ, người cán bộ, công chức phải biết
vượt qua khát vọng quyền lực hoặc từ bỏ địa vị, quyền lực nếu không xứng
đáng. Người cán bộ, công chức, đề cao liêm sỉ là phải biết đề cao giá trị nhân
cách, đặt phẩm chất tinh thần cao hơn nhu cầu vật chất, coi danh dự như là linh
hồn, như phẩm giá cá nhân. Địa vị xã hội càng cao, phẩm chất đó càng phải
tương xứng. Cách đây hơn bảy trăm năm, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc
Tuấn trong Hịch tướng sỹ đã viết: "Chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục mà
tiếng xấu ngàn năm sau khôn rửa; Chẳng những thanh danh của ta kiếp này được
sáng rõ mà tiếng thơm còn lưu đến muôn đời". Ông là tấm gương hi sinh lợi ích
gia đình, lợi ích bản thân để phụng sự đất nước, đoàn kết quân dân nhà Trần bảo
vệ độc lập dân tộc. Ông là một nhân cách lớn vượt thời đại vì ông đã biết tự ý
thức về danh dự của một vương gia, một danh tướng và trước hết là của một con
người. Người cán bộ, công chức biết liêm sỉ là người phải nói đi đôi với làm, nói
thì phải làm, không nói một đằng làm một nẻo, nói nhiều làm ít và đặc biệt là
không lẩn tránh trách nhiệm, không tư biện, không ngụy biện trước những sai
lầm khuyết điểm của mình.
2.2.2. Tiền đề lý luận
Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng, danh nhân văn hóa thế giới, là tấm gương
đạo đức trong sáng của dân tộc ta. Do đó, nghiên cứu tư tưởng đạo đức của
Người không chỉ thông qua các tác phẩm mà phải thông qua chính những hoạt
động thực tiễn của Người. Sự thống nhất giữa tư tưởng đạo đức và hành vi cách
mạng, giữa lý luận nhận thức và thực tiễn đã trở thành nét đặc trưng nổi bật của
Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thứ nhất: tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo
đức của dân tộc Việt Nam đã hình thành qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước
và giữ nước của dân tộc, đồng thời là sự kế thừa truyền thống đạo đức phương
Đông như Nho giáo, Lão giáo, Phật giáo; những tinh hoa đạo đức nhân loại, đặc
biệt là những tư tưởng đạo đức cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
47
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng nhiều phạm trù, khái niệm đạo đức vốn
đã xuất hiện lâu trong lịch sử tư tưởng nhân loại, đặc biệt là trong Nho giáo.
Nhưng điều đó không có nghĩa là đồng nhất tư tưởng đạo đức trong Nho giáo
với tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Những phạm trù, khái niệm này đã được Hồ
Chí Minh nâng lên một tầm cao mới, nội dung mới, đạo đức của người cách
mạng trong sự nghiệp đấu tranh và giải phóng dân tộc, giải phóng con người,
chống mọi áp bức bóc lột, xây dựng xã hội mới tốt đẹp hơn.
Những tiêu chuẩn của đạo đức Nho giáo như: Nhân, lễ, nghĩa, trí , tín ,
dũng, cần, kiệm, liêm, chính, học đi đôi với hành, đều được Hồ Chí Minh kế
thừa và vận dụng một cách sáng tạo để xây dựng đạo đức "cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư" cho đội ngũ cán bộ, công chức và quần chúng nhân dân.
Người viết: "Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống, nó do đấu tranh,
rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài
càng sáng, vàng càng luyện càng trong" [71, tr.612]. Người cũng đã kế thừa một
cách sáng tạo những tư tưởng như: "Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh",
"Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ", "giáo dục làm gương", "đào tạo con
người có đạo đức cho xã hội"...những tư tưởng đó được Hồ Chí Minh phát triển
thành tư tưởng "lấy dân làm gốc", "dân là vốn quý nhất", "đạo đức là cái gốc, là
phẩm chất quan trọng nhất" của người cách mạng.
Nếu như Nho giáo hạ thấp vai trò của người phụ nữ, đặt ra những quy
định hà khắc đối với phụ nữ thì Hồ Chí Minh phê phán những quan điểm ấy,
khôi phục lại vị trí, vai trò của người phụ nữ và thực hiện quyền bình đẳng giữa
nam và nữ trong xã hội. Người viết: "Phụ nữ chiếm một nửa tổng số nhân dân.
Để xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải thực sự giải phóng phụ nữ và tôn trọng
quyền lợi của phụ nữ" [72, tr.705]. Có thể thấy, những tư tưởng này của Người
mang đậm tính nhân văn nhân đạo.
Hồ Chí Minh còn kế thừa những tư tưởng của Phật giáo về giáo hóa con
người. Nếu như Phật giáo lấy lòng từ bi, vị tha giúp đỡ người khác, chăm làm
việc thiện thì tư tưởng Hồ Chí Minh xuất phát từ tấm lòng khoan dung, độ lượng
48
đối với con người. Phật giáo rất chú ý đến số phận con người và vấn đề giải thoát
con người khỏi bể khổ trần gian. Hồ Chí Minh cũng quan tâm đến thân phận và
nỗi khổ của con người nhưng khác với Phật giáo, Hồ Chí Minh đã tìm nguyên
nhân nỗi khổ bên trong của chính bản thân con người.
Thứ hai: Hồ Chí Minh không chỉ thấm nhuần tư tưởng phương Đông mà
còn tiếp xúc với nhiều tư tưởng tiến bộ ở phương Tây, trong đó chủ yếu là tư
tưởng nhân ái thời kỳ phục hưng, tư tưởng của các nhà khai sáng Pháp với khẩu
hiệu: "Tự do - Bình đẳng - Bác ái" và những tư tưởng về dân quyền, dân ước,
dân chủ, dân sinh. Ngay từ thuở thiếu thời, Người đã tiếp xúc với nền văn hóa
phương Tây qua sách báo. Chính tư tưởng "Tự do - Bình đẳng - Bác ái" đã thôi
thúc Người hướng về phương Tây để xem xét, tìm con đường cứu nước cho dân
tộc. Người bôn ba ở các châu lục như châu Á, châu Âu, châu Mỹ La tinh và châu
Phi. Đặc biệt, có một số nước tư bản như Mỹ, Anh, Pháp và các thuộc địa của
chúng. Người đã rút ra được những nhận định hết sức sâu sắc, Người đọc Tuyên
ngôn độc lập của nước Mỹ 1776 và đã nhắc lại: "Giời sinh ra, ai cũng có quyền
tự do, quyền giữ tính mệnh của mình, quyền làm ăn cho sung sướng... Hễ Chính
phủ nào mà có hại cho dân chúng thì dân chúng đập đổ Chính phủ ấy đi và gây
nên Chính phủ khác..." [63, tr.291]. Người cũng phát hiện ra những mâu thuẫn
đằng sau những từ hoa mỹ về tự dọ, bình đẳng là sự bất bình đẳng, nghèo đói
của hàng triệu người lao động, là điều kiện sống khủng khiếp của người da đen,
là nạn phân biệt chủng tộc ghê gớm. Người có ấn tượng khá sâu sắc với chủ
nghĩa nhân văn, tư tưởng tự do, tư tưởng bình đẳng của các đại văn hào nổi tiếng
như Vôn-te, Điđơrô, Rútxô, Môngtexkiơ và đặc biệt ở bản tuyên ngôn nhân
quyền và dân quyền của nước Pháp. Vì vậy, Người đã vận dụng, phát triển, sáng
tạo những tư tưởng đạo đức tiến bộ đó phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt
Nam và Người đã chỉ ra những hạn chế của nó. Trong tác phẩm Đường Cách
mệnh, Người nhận xét về cuộc cách mạng Mỹ là cuộc cách mạng không triệt để,
cách mạng chưa đến nơi: "Mỹ tuy rằng cách mệnh đã thành công 150 năm nay,
nhưng công nông vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính cách mệnh lần thứ hai. Ấy là vì
49
cách mệnh Mỹ là cách mệnh tư bản, mà cách mệnh tư bản là cách mệnh chưa
đến nơi" [63, tr.291-292]. Người chỉ ra rằng: "Cách mệnh Pháp cũng như cách
mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng
hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức
thuộc địa. Cách mệnh đã bốn lần rồi, mà nay công nông Pháp hẵng còn mưu
cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức. Cách mệnh An Nam nên
nhớ những điều ấy" [63, tr.291-296].
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng còn bắt nguồn từ sự tiếp
thu tư tương "nhân ái" cao cả của đức chúa Giêsu, với nội dung cốt lõi là dạy cho
con người có lòng bác ái, yêu thương người khác như yêu thương chính bản thân
mình, phải thật công bằng trong đối xử giữa những con người với nhau. Người
nói: "Đức Giêsu đã nói, ta phải yêu mến các kẻ thù của chúng ta" và kêu gọi
"phải thực hành bác ái". Với tinh thần ấy, Hồ Chí Minh cho rằng: "Trước lòng
bác ái thì máu người Pháp hay máu người Việt cũng đều là máu, người Việt hay
người Pháp cũng đều là người". Vì vậy, Người khẳng định: "Đức Giêsu hi sinh
vì muốn loài người được tự do hạnh phúc, đồng bào ta cả lương cả giáo cũng vì
tự do hạnh phúc cho toàn dân mà hi sinh phấn đấu" [66, tr.56]. Hay nói khác đi,
"phụng sự Thượng đế" và "phụng sự Tổ quốc" là một, vì kính Chúa song hành
với yêu nước đều hướng tới mục đích là tự do và hạnh phúc của nhân loại.
Thứ ba: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu các nguyên lý của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tấm gương đạo đức của các ông để lại, đó là nền móng vững
chắc cho sự hình thành, phát triển tư tưởng về "đạo đức mới" - đạo đức cộng sản.
Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Lênin không chỉ là lãnh tụ cách mạng thế giới
mà còn là tấm gương sáng về đạo đức. Lênin đã tiếp tục sự nghiệp của Mác và
Ăngghen, đã đề ra đường lối cách mạng của giai cấp công nhân và các dân tộc bị
áp bức thích hợp với điều kiện lịch sử lúc bấy giờ. Lênin nêu cao vai trò quan
trọng của những chuyên gia, những cán bộ lãnh đạo giỏi, những người taì trong
sự nghiệp cách mạng. Lênin yêu cầu: "Nhiệm vụ của chúng ta là qua thí nghiệm mà
thu hút nhiều chuyên gia, bồi dưỡng lớp cán bộ lãnh đạo mới, lớp chuyên gia mới
50
để học cho bằng được công tác quản lý, một công tác mới hết sức khó khăn phức
tạp" [56, tr.489]. Lênin rất quan tâm đến khâu lựa chọn và sử dụng cán bộ. Việc lựa
chọn và sử dụng ấy phải thực sự khoa học, đúng vị trí và xuất phát từ nhiệm vụ cách
mạng. Lênin yêu cầu khi lựa chọn cán bộ phải xem: "có lợi cho sự nghiệp không, và
những người được chọn có xứng đáng với chức vụ mà người ấy sẽ đảm nhiệm
không" [55, tr.359].
Cũng như Lênin, Hồ Chí Minh đòi hỏi người cách mạng phải có đạo đức.
Đạo đức là yêu cầu đầu tiên của cán bộ và nhân dân Việt Nam trên con đường
cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ trở
thành xã hội mới, là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là nhiệm vụ rất
nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới
gánh được nặng và đi xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền
tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ vẻ vang.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bổ sung cho lý luận về đạo đức cộng sản của
chủ nghĩa Mác - Lênin bằng cách nhìn mới, nhìn từ phía các dân tộc thuộc địa
đang bị áp bức, bóc lột bởi chủ nghĩa đế quốc thực dân. Hồ Chí Minh viết: chính
Lênin chỉ cho chúng ta thấy rằng một trong những phẩm chất cơ bản của con
người cộng sản là phải luôn luôn tin tưởng vào quần chúng; rằng lòng yêu mến
quần chúng một cách sâu sắc phải là tình cảm thúc đẩy mọi hành động, mọi suy
nghĩ của nhũng người cộng sản. Người luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên: càng
khó khăn, gian khổ, càng phải thật thà bàn bạc với quần chúng, phải tin vào khả
năng cách mạng và sức sáng tạo của quần chúng.
Từ việc kế thừa các giá trị đạo đức phương Đông và phương Tây, đặc biệt
là những tư tưởng đạo đức của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin. Hồ Chí Minh
bổ sung vào đó những nội dung mới và sáng tạo ra những khái niệm, phạm trù
đạo đức mới như: đời sống mới, lối sống mới, nếp sống mới,...
Đạo đức mới là đạo đức mang bản chất giai cấp công nhân, phản ánh
những yêu cầu của sự nghiệp đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc và xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
51
Đạo đức mới là đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân, là đạo đức
cộng sản. Đạo đức cộng sản phản ánh những lợi ích căn bản của giai cấp này
trong cách mạng vô sản, nó cũng là vũ khí tinh thần mạnh mẽ của giai cấp
công nhân sử dụng để xóa bỏ xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Đây là lần đầu
tiên và là lần cuối cùng đạo đức của một giai cấp lao động trở thành đạo đức
cách mạng và chiếm địa vị thống trị trong đời sống đạo đức của xã hội. Nó
thực hiện bước phủ định của phủ định; hình thành một vòng khâu phát triển
làm nên bước tiến bộ toàn diện của đạo đức. Như vậy, khái niệm đạo đức
cộng sản là hoàn toàn mới trong lịch sử xã hội, nó đối lập với đạo đức của
giai cấp tư sản và các giai cấp bóc lột khác. Nó cũng khác với đạo đức của
những người sản xuất nhỏ, xét về bản chất và theo Lênin, đạo đức mới là
những gì góp phần đoàn kết tất cả những người lao động xung quanh giai cấp
vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới cộng sản chủ nghĩa.
Ở đây, cần chú ý là, lịch sử nhân loại đã chứng minh, năng lực xuất
chúng của tất cả các bậc vĩ nhân bao giờ cũng biểu hiện hai mặt: một là, khả
năng kế thừa những tinh hoa của nhân loại. Hai là khả năng vượt qua những
thành kiến tư tưởng đang là xiềng xích vô hình trói buộc con người, khám phá
một lối đi mới cho dân tộc, cho nhân loại. Hồ Chí Minh thuộc lớp người như
thế. Người tự chọn con đường đi cho mình đi tới đất nước của kẻ thù đang
dày xéo đến chính đất nước mình để tìm con đường giải phóng cho dân tộc,
cho đất nước và chính từ đây tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh nói riêng từng bước hình thành và phát triển. Vì thế, tìm
hiểu cơ sở thực tiễn lý luận của đạo đức Hồ Chí Minh không chỉ chú ý đến
nhân tố khách quan mà còn chú ý đến vai trò của nhân tố chủ quan. Bằng sự
uyên bác với thiên tài trí tuệ và phẩm chất của mình, Người đã tiếp thu một
cách nhuần nhuyễn những giá trị tốt đẹp của dân tộc với tinh hoa triết học và
văn hóa nhân loại mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác - Lênin. Các tri thức ấy được
người nhào luyện sáng tạo trong tư tưởng cách mạng Việt Nam và biến thành
một điều thực sự độc đáo mang tên Hồ Chí Minh, trở thành tư tưởng đạo đức
52
Hồ Chí Minh. Từ đây có thể khẳng định rằng sự ra đời tư tưởng Hồ Chí Minh
nói chung, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh nói riêng là sự thống nhất giữa điều
kiện khách quan và nhân tố chủ quan
Từ tư tưởng của Hồ Chí Minh, nền đạo đức Việt Nam đã từng bước xây
dựng và mang bản chất mới, đạo đức mới xóa bỏ những chuẩn mực của đạo đức
phong kiến vốn luôn trói buộc nhân dân lao động vào những lễ giáo, phục vụ chế
độ đẳng cấp, nô dịch của xã hội phong kiến. Đạo đức mới do Chủ tịch Hồ Chí
Minh đề xướng cùng với Đảng ta dày công xây dựng, bồi đắp là đạo đức cách
mạng mang bản chất giai cấp công nhân, kết hợp những truyền thống tốt đẹp của
dân tộc và những tinh hoa đạo đức của nhân loại. Nền đạo đức ấy ngày càng phát
triển cùng với sự vận động của thực tiễn cách mạng Việt Nam. Nó trở thành vũ
khí mạnh mẽ của Đảng và của dân tộc ta trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do vì
hòa bình, hợp tác và hữu nghị với các dân tộc khác trên thế giới.
2.3. Nội dung cơ bản về đạo đức công chức và những nguyên tắc xây
dựng đạo đức công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh
2.3.1. Nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức
Từ năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời những giá trị
đạo đức công vụ mới - đạo đức công vụ phục vụ nhân dân được chú trọng xây
dựng, h́ình thành và phát triển. Những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức mới đã
góp phần điều chỉnh hành vi của công chức trong thi hành công vụ và đáp ứng
ngày càng tốt hơn nhu cầu xây dựng một nền công vụ mới phù hợp với bản chất
nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Cho đến nay, tuy chưa có Luật Đạo đức công chức nhưng có thể tìm thấy
các nguyên tắc đạo đức của công chức Việt Nam trong các bộ luật, đạo luật và
các văn bản mang tính pháp lý khác. Ngay từ khi đang tiến hành cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp vào giai đoạn cam go, ác liệt nhất, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã quan tâm đến vấn đề xây dựng đội ngũ công chức của nước Việt Nam
mới. Ngày 20 - 05 - 1950, Người ký Sắc lệnh 76/SL ban hành Quy chế công
chức. Trong quy chế này, vấn đề đạo đức công vụ đã được thể hiện. Chẳng hạn,
Điều 2, Sắc lệnh 76/SL ghi: "Công chức Việt Nam phải phục vụ nhân dân, trung
53
thành với chính phủ, tôn trọng kỷ luật, có tinh thần trách nhiệm và tránh làm
những việc có hại đến thanh danh công chức hay đến sự hoạt động của bộ máy
nhà nước. Công chức Việt Nam phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư".
Đến nay, những quy định trên vẫn còn nguyên giá trị
Những quy định nêu trên chưa đề cập trực diện là những nguyên tắc đạo
đức mà chỉ là những quy định công chức phải làm. Sự cần thiết phải nâng lên
thành ý thức và nghĩa vụ đạo đức để dư luận và lương tâm điều chỉnh hành vi
của mỗi công chức. Từ quan điểm đó, theo chúng tôi, những chuẩn mực cơ bản
xây dựng đạo đức công chức ở nước ta theo tư tưởng Hồ Chí Minh gồm:
Một là, trung với nước, hiếu với dân.
Tư tưởng Trung với nước, hiếu với dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh
không những kế thừa giá trị của chủ nghĩa yêu nước, truyền thống của dân tộc
mà nó còn vượt qua những hạn chế của truyền thống đó. Người chỉ rõ, trung
là trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với nhân dân, với cách mạng, với Đảng.
"Trung" là yêu cầu đạo đức hàng đầu đối với cán bộ, công chức. "Trung" là
trung thành với tổ quốc, với chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Trung với nước, với chủ nghĩa xã hội mang lại cho cán
bộ, công chức một tinh thần kiên định, một ý chí mạnh mẽ vượt qua khó khăn
thử thách, có tinh thần lạc quan cống hiến hết mình cho sự nghiệp cách mạng.
Trung với Đảng, với nước không chỉ bằng tình cảm, bằng lý tưởng đạo đức
cách mạng mà phải bằng cả hành động cách mạng, đó là hiện thực đầy đủ, có
hiệu quả mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, chống
mọi biểu hiện giao động, phai nhạt lý tưởng xã hội chủ nghĩa. "Trung với
nước đòi hỏi mỗi cán bộ, công chức, mỗi Đảng viên cần phải tuyệt đối trung
thành với sự nghiệp dựng nước, giữ nước, trung thành với sự nghiệp xây dựng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta; xây dựng một nhà nước pháp quyền thực sự của
dân, do dân và vì dân; đặt lợi ích của dân tộc, nhân dân lên trên lợi ích cục bộ,
địa phương, tổ chức, cá nhân" [95, tr.266].
Trung thành với Tổ quốc, với chế độ chính trị đương thời, bảo vệ danh dự
quốc thể và lợi ích quốc gia. Nội dung này, gần như là yêu cầu về mặt đạo đức
54
công vụ ở tất cả các nước đều đặt ra. Ở nước ta, trung thành với Tổ quốc là trung
thành với Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đó là yêu cầu cơ bản
về đạo đức của giai cấp công nhân, trung thành với sự nghiệp cách mạng giải
phóng giai cấp, giải phóng nhân loại và phát triển dân tộc.
Trung thành với Đảng với nhân dân, Người khẳng định: "Nước ta là nước
dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì nhân dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến
kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương
do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại,
quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân." [68, tr.232]. Do vậy, khó khăn đến
mức nào cũng kiên quyết làm đúng chính sách và Nghị quyết của Đảng, luôn
gương mẫu cho quần chúng, phải nâng cao tinh thần trách nhiệm trước nhân dân,
trước Đảng, phải ngăn ngừa và kiên quyết chống lại chủ nghĩa cá nhân. Hiếu với
dân không còn dừng lại ở chỗ thương dân với tính chất là những đối tượng cần
phải dạy dỗ, mà vấn đề cần phải gần dân, gắn bó với dân, lấy dân làm gốc. Theo
tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, công chức cần phải nắm vững
dân tình, hiểu rõ dân tâm, thường xuyên quan tâm đến việc cải thiện dân sinh,
nâng cao dân trí để nhân dân biết sử dụng quyền làm chủ. Có được cái đức ấy thì
người cách mạng, người lãnh đạo mới được dân tin yêu, quý mến, kính trọng,
nhất định sẽ tạo ra được sức mạnh to lớn cho cách mạng, cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ đất nước.
Hai là, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Hồ Chí Minh đã sử dụng những khái niệm cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư của đạo đức phương Đông và đạo đức truyền thống Việt Nam. Người
đã giữ lại những gì tốt đẹp của quá khứ, lọc bỏ những gì không còn phù hợp và
đưa vào những nội dung mới của sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư đòi hỏi mỗi người phải
lấy chính mình là đối tượng để tự điều chỉnh. Đây là vấn đề rất phức tạp và trong
55
cuộc sống thường hay vi phạm. Nó không chỉ đụng chạm đến lợi ích vật chất mà
còn những lợi ích khác như danh dự, chức quyền, do vậy nó thường đưa con
người đi đến những hành vi vô đạo đức.
"Cần" là chuyên cần, cần mẫn. Người cán bộ phải là người mẫn cán,
"đối với công việc phải tận tuỵ". Không nề hà gian khổ khó khăn cũng như
không chủ quan, ỷ lại vào điều kiện thuận lợi. Người cán bộ lãnh đạo quản lý
chuyên cần phải yêu công việc được nhân dân giao phó như việc của chính
gia đình mình. Chuyên cần phải toàn diện cả trong hoạt động lãnh đạo quản
lý, chuyên cần đi sâu đi sát vào quần chúng nhân dân, bám sát thực tiễn.
"Cần" còn là chuyên cần trong học tập, trong suy nghĩ, đổi mới tư duy, biết
phát hiện và nhân lên những sáng kiến, những kinh nghiệm hay của nhân dân
để vận dụng sáng tạo vào đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước vào
cơ quan đơn vị mình. Vì vậy, Đảng ta khẳng định: học tập là nghĩa vụ bắt
buộc đối với cán bộ, đảng viên… Lười học, lười suy nghĩ không thường
xuyên tiếp nhận những thông tin mới, những hiểu biết mới cũng là biểu hiện
của suy thoái đạo đức.
"Kiệm" có nghĩa là tiết kiệm, không xa xỉ, không bừa bãi. "Cần" với
"Kiệm" phải đi đôi với nhau, như hai chân của con người. "Cần" mà không
"kiệm" thì cũng như cái thùng không đáy, "Cần" và "Kiệm" là điều kiện để thực
hành liêm chính. Trong lời khuyên "Anh em viên chức", Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã viết: có cần, có kiệm không tiêu đến nhiều tiền, anh em viên chức mới có thể
trở nên liêm, chính được. Mục đích của tiết kiệm là nâng cao hiệu quả lao động
sản xuất. Người cán bộ, công chức phải là tấm gương, đi đầu thực hành tiết
kiệm. Tiết kiệm ở người cách mạng không chỉ vì cá nhân mình mà còn biết tiết
kiệm cho dân cho nước. Để thực hành tiết kiệm, người cán bộ không chỉ tự mình
tiết kiệm mà phải làm cho toàn dân biết tiết kiệm, không chỉ ủng hộ phong trào
tiết kiệm, coi tiết kiệm là quốc sách hàng đầu ở các cơ quan đơn vị mà còn phải
biết lên án mạnh mẽ những hiện tượng lãng phí đang gia tăng hiện nay. Quan
trọng hơn nữa người cán bộ phải biết tạo ra nhiều công ăn việc làm có hiệu quả
56
kinh tế - văn hoá - xã hội - môi trường để tránh lãng phí sức người và tiền của
trong nhân dân.
"Liêm" là trong sạch, không tham lam, không tham tiền, của, địa vị, danh
lợi. Bác dạy cán bộ luôn phải giữ lấy chữ liêm làm đầu. Ngày xưa, dưới chế độ
phong kiến, những người làm quan không đục khoét được gọi là "Liêm". Ngày
nay, chữ "Liêm" có nghĩa rộng hơn, là mọi người đều phải "Liêm". Khổng Tử
nói: "Ai cũng tham lợi, thì nước sẽ nguy". Để thực hiện chữ "Liêm" đó, cần phải
có sự tuyên truyền, phổ biến pháp luật từ trên xuống dưới. Trước là cán bộ các
cơ quan đoàn thể, vì cán bộ phải thực hiện chữ "Liêm" trước để làm kiểu mẫu
cho dân. Mỗi cán bộ, công chức phải nhận thức được rằng tham lam là một điều
rất xấu hổ, kẻ tham lam là kẻ có tội với nước, có tội với dân. Mỗi cán bộ, công
chức thi đua thực hành liêm khiết sẽ tạo nên tính liêm khiết trong toàn nhân dân.
Một dân tộc biết cần, kiệm, liêm là một dân tộc giàu về mặt chất, mạnh về tinh
thần, là một dân tộc văn minh, tiến bộ.
Người cán bộ phải ý thức sâu sắc, thường xuyên rèn luyện phẩm chất liêm
khiết trước Đảng, trước nhân dân. Trong mối quan hệ với Đảng với nhân dân,
đánh mất chữ "Liêm" người cán bộ đảng viên ngay lập tức trở thành kẻ thoái
hoá, biến chất, trở thành kẻ ăn cắp, kẻ chống lại Đảng, chống lại nhân dân bởi
trong quan hệ đó Đảng và nhân dân là những người bị hại.
Hiện nay trong điều kiện kinh tế thị trường còn non trẻ, vai trò quản lý kinh
tế của Nhà nước có lúc có nơi còn bị buông lỏng, những quy chế kiểm soát chưa
thật chặt chẽ… nên việc nêu cao chữ "Liêm" trong đạo đức cách mạng của người
cán bộ lãnh đạo quản lý đặc biệt quan trọng, nhờ đó hạn chế, ngăn chặn đẩy lùi căn
bệnh tham ô, móc ngoặc, hối lộ, tư lợi chạy chức, chạy quyền hiện nay. Người cán
bộ đảng viên phải giữ gìn phẩm chất liêm khiết như giữ gìn sinh mạng của mình.
"Chính" nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, "Chính" là chính trực,
quang minh chính đại - một yêu cầu quan trọng về đạo đức ở người cán bộ, công
chức. Người cán bộ thực hiện yêu cầu "Chính" phải toàn diện: không chỉ nỗ lực
tự rèn luyện mình theo chính nghĩa cách mạng mà còn phải đấu tranh chống các
57
biểu hiện tiêu cực, không chân chính trong xã hội; không chỉ tích cực phê bình
xây dựng đức "Chính" ở người khác mà còn phải thực sự tự phê bình cho mình
ngày càng thêm ngay thẳng, quang minh "phú quý bất năng dâm, bần tiện bất
năng di", uy vũ, cám dỗ của các thế lực đen tối là "bất năng khuất". Chủ tịch Hồ
Chí Minh cho rằng, cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính cơ bản của con người,
cũng như trời có bốn mùa xuân, hạ, thu đông, đất có bốn phương đông, tây, nam
bắc, thiếu một mùa thì không thành trời, thiếu một phương thì khôn thành đất,
thiếu một đức thì không thành người.
"Chí công vô tư", theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là ý nghĩa và hành động của
con người khi họ hết lòng vì sự nghiệp chung, sẵn sàng đặt lợi ích của Đảng và
của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích của cá nhân mình. Người yêu
cầu cán bộ cách mạng: vô luận trong hoàn cảnh nào, cũng phải đặt lợi ích của
Đảng lên trên hết. Nếu khi lợi ích của Đảng và lợi ích của cá nhân đi với nhau,
thì lợi ích cá nhân phải tuyết đối phục tùng lợi ích của Đảng. Với tấm lòng ấy thì
người cách mạng sẽ tiến đến "Chí công vô tư".
Thực hiện được đạo đức này theo Hồ Chí Minh cũng có nghĩa là đã thực
hiện được trách nhiệm mình vì mọi người, mọi người vì mình, thực hiện được
đạo đức này cũng chính là đã chối được chủ nghĩa cá nhân, đấy là kẻ thù nguy
hiểm nhất của đạo đức cách mạng, nó sẽ dẫn người ta đi đến những căn bệnh
tham lam, ích kỉ, quyền hành, tự kiêu, tự tại, coi thường tập thể. Từ đó thiếu ý
thức, thiếu tổ chức, tinh thần trách nhiệm không cao, tính kỷ luật kém làm hại
đến nhân dân, Đảng và Cách mạng.
Chống chủ nghĩa cá nhân và những biểu hiện tiêu cực của nó là cuộc đấu
tranh giữ gìn thành quả cách mạng đã giành được. Đây là cuộc đấu tranh cách
mạng sâu sắc, khó khăn, thường xuyên và lâu dài, nó ẩn nấp tiềm tàng như "cái
ác" trong mỗi người, không loại trừ ai, kể cả cán bộ trung cao cấp. Do đó, để đấu
tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cần có biện pháp đồng bộ. Trong cuộc đấu tranh
này, tính chất gay go, quyết liệt của nó diễn ra rất phức tạp, tinh vi và dai dẳng,
nó khác hẳn cuộc đấu tranh trước kẻ thù trước kia. Nó thoát ẩn, thoát hiện, lẫn
lộn giữa trắng và đen, thiện và ác, nó ở trong mỗi chúng ta, là bạn ta, là cấp trên
58
ta, cấp dưới ta, nó chính là "cái bả vinh hoa" lôi cuốn mỗi chúng ta làm cho ta
từng bước dấn thân vào vòng tội lỗi.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nói, đại bộ phận cán bộ Đảng viên là tốt và
"phần nhiều do giáo dục mà nên". Tuy nhiên trên thực tế, vẫn còn một số ít,
"phần nhỏ" khó giáo dục. Vậy nên, phải có những hình phạt thích đáng đối với
những kẻ ngoan cố, không chịu ăn năn, sửa chữa. Đồng thời với giáo dục và kỷ
luật, trừng phạt bọn ngoan cố và tuyên dương, bảo vệ người biết giữ gìn đạo đức
và dũng cảm đầu tranh chống chủ nghĩa cá nhân và các biểu hiện của nó. Để
chống được chủ nghĩa cá nhân thì phải phát động được phong trào quần chúng
đồng lòng và kiên quyết, để ai cũng thấy phải có bổn phận, trách nhiệm tham gia
vào cuộc đấu tranh cá nhân khó khăn, phức tạp ấy như là một tiêu chí đạo đức
của con người mới trong xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Cuộc đấu tranh
ấy đòi hỏi sự dũng cảm - có trí khí hơn cả cuộc đấu tranh ngoài chiến trường
chống kẻ thù xâm lược.
Bên cạnh những chuẩn mực đạo đức như cần, kiệm, liêm, chính chí công
vô tư. Hồ Chí Minh còn sử dụng một số phạm trù đạo đức nữa như nhân, nghĩa,
trí, dũng, tín để khái quát những phẩm chất cơ bản của đạo đức Cách mạng.
Ba là, có trách nhiệm cao với công việc và tinh thần thái độ làm việc đúng mực.
Thái độ trách nhiệm cao trong công việc là thể hiện đạo đức nhân cách
của công chức với tập thể, đơn vị, với Nhà nước và Nhân dân. Có trách nhiệm
cao mới cầu thị học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn, không ngần ngại khó
khăn, gian khổ, khắc phục khó khăn hoàn thành tốt nhiệm vụ. Trách nhiệm cao
là làm đúng trách nhiệm, làm hết trách nhiệm thể hiện rõ tính ưu việt của Nhà
nước trong các lĩnh vực dịch vụ phục vụ nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh, làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới
là sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng đó cũng là một nhiệm vụ nặng nề, một cuộc đấu
tranh phức tạp, lâu dài, gian khổ. Để làm được cuộc cách mạng đó, người cách
mạng phải có đầy đủ bản lĩnh cách mạng phải " Nhận rõ phải, trái. Giữ vững lập
trường. Tận trung với nước, tận hiếu với dân" [69, tr.354]. Chủ tịch Hồ Chí Minh
căn dặn: Đạo đức cách mạng là hoà mình với quần chúng thành một khối, tin
59
quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng. Do lời nói và
việc làm, đảng viên, đoàn viên và cán bộ làm cho dân tin, dân phục, dân yêu,
đoàn kết quần chúng chặt chẽ xung quanh Đảng, tổ chức tuyên truyền và động
viên quần chúng hăng hái thực hiện chính sách và nghị quyết của Đảng. Đạo đức
cách mạng Hồ Chí Minh đòi hỏi công chức phải là công bộc của dân, mọi hoạt
động đều lấy nhân dân làm mục đích phục vụ. Công chức phải hiếu với dân -
nghĩa là, tuyệt đối trung thành phục vụ nhân dân, "Lấy dân làm gốc" phát huy
quyền dân làm chủ.
Trong các cơ quan quản lý hành chính, công chức, trước hết, tham mưu
cho thủ trưởng đơn vị và các phòng ban chức năng xây dựng, ban hành các chính
sách, thể chế quản lý với tinh thần phục vụ nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi cho
nhân dân làm ăn sinh sống, bảo đảm thực hiện các quyền con người. Trong việc
cung cấp các dịch vụ hành chính cho dân phải thuận tiện, không sách nhiễu
phiền hà, tôn trọng dân tránh thái độ cửa quyền, ban ơn.
Đối với công chức ở các đơn vị, tổ chức sự nghiệp phục vụ các dịch vụ xã
hội, dân sinh như các tổ chức y tế chăm sóc sức khoẻ cho dân, các cơ sở giáo
dục, các cơ sở dịch vụ văn hoá tinh thần và các dịch vụ dân sinh khác, phải làm
hết trách nhiệm, nghĩa vụ với tinh thần tận tình, tôn trọng nhân cách của con
người, thương yêu con người, phấn đấu vì một xã hội tốt đẹp. Thái độ cửa
quyền, ban ơn, hách dịch hoặc thương mại hoá các hoạt động dịch vụ đó đều trái
với phẩm chất đạo đức của người công chức xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, giữ vững tính nguyên tắc và tuyệt đối chấp hành kỷ luật.
Tính nguyên tắc và ý thức tổ chức kỷ luật là điều kiện để công chức hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao theo quy định của pháp luật theo sự phân công của
tổ chức và của cấp trên. Người công chức có tính nguyên tắc và có ý thức kỷ luật
tốt trong công vụ là người chấp hành nghiêm các quy định, nội quy, chế độ làm
việc, không tuỳ tiện, tự do, không làm việc theo tuỳ thích và cảm tình cá nhân.
Đồng thời, tận tâm, tận lực hoàn thành nhiệm vụ với ý thức tổ chức kỷ luật và
tính tự giác cao của người công chức.
60
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người rất quan tâm đến công tác cán bộ và xây
dựng đội ngũ công chức. Người thường xuyên nhắc nhở, công chức Nhà nước
phải thấm nhuần và thực hiện đồng thời hai việc: tuân thủ pháp luật Nhà nước,
kỷ luật của tổ chức và giữ gìn đạo đức cách mạng. Đó là hai việc có quan hệ chặt
chẽ với nhau. Đạo đức cách mạng đòi hỏi người công chức nhà nước bất kỳ ở
lĩnh vực công tác nào, trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng không được vi phạm
pháp luật và coi thường kỷ luật của cơ quan. Trong bức thư gửi Uỷ ban nhân dân
các kỳ, tỉnh, huyện, làng tháng 10 - 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: Tôi vẫn
biết trong các bạn có nhiều người làm theo đúng chương trình của chính phủ và
rất được lòng nhân dân. Song cũng có nhiều người phạm những lỗi lầm nặng nề
như: trái phép, vì tư thù mà bắt bớ và tịch thu gia sản làm cho nhân dân oán thán.
Cậy thế, cậy mình trong ban này, ban nọ rồi ngang tàng phóng túng, muốn sao
làm vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ gì đến dân, quên rằng dân bầu mình ra để
làm việc cho dân chứ không phải để cậy thế với dân. Thậm chí lấy của công làm
việc tư, quên cả thanh liêm, đạo đức. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho đó là nguy cơ
"nội xâm", chính quyền có thể bị mất vì những sai phạm mang tính nguyên tắc
đó của cán bộ công chức.
Năm là, có tinh thần hợp tác với đồng nghiệp và những người có liên
quan trong thực thi công vụ.
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã chứng minh tinh
thần hợp tác, sự liên kết, ý thức cộng đồng của cộng đồng người Việt. Nếu
không có tính cộng đồng, người Việt Nam không thể tồn tại và phát triển như
ngày nay. Lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm, chống thiên tai khắc nghiệt
đã rèn đúc và thử thách tính cộng đồng của người Việt Nam. Không chỉ ở tầm vĩ
mô, khi vận mệnh của đất nước lâm nguy, đứng trước sự tồn vong của dân tộc,
người Việt Nam mới thể hiện tính cộng đồng mà ở cả tầm vi mô, trong công việc
hàng ngày ý thức cộng đồng cũng thể hiện, nhưng có thể do nếp sống của nền
sản xuất nhỏ chưa tạo ra phương pháp hợp tác đúng.
Đề cập đến sự đoàn kết, hợp tác trong công vụ, chúng ta nhớ lời Bác Hồ
trong Thư gửi Hội nghị tư pháp toàn quốc (2 - 1948): Tư pháp là cơ quan trọng yếu
61
của chính quyền, cho nên càng phải có tinh thần đoàn kết, hợp tác chặt chẽ với các
cơ quan khác, để tránh những mối xích mích lẫn nhau, nó có thể vì quyền lợi nhỏ và
riêng mà hại đến quyền lợi to và chung, cho cả tư pháp và hành chính...
Đoàn kết, hợp tác với đồng nghiệp trong cơ quan, với các cơ quan,
đoàn thể, các tổ chức có liên quan tới công vụ nhằm phát huy trí tuệ, phát
huy sức mạnh tổng hợp của tập thể, hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt nhất.
Người có tinh thần và thể hiện sự đoàn kết, hợp tác là người biết nhận khó
khăn về mình, gặp khó khăn, trở ngại trong công việc biết hợp tác cùng nhau
tìm cách giải quyết, không tranh công, đổ lỗi và sẵn sàng giúp đỡ đồng
nghiệp cùng hoàn thành nhiệm vụ. Không ganh tỵ, đố kỵ tạo cơ hội để đồng
nghiệp cùng phát triển, tiến bộ. Tinh thần đoàn kết, hợp tác đòi hỏi người
công chức phải vì tập thể, vì việc công, có ý thức xây dựng cơ quan tập thể
nơi mình công tác thành đơn vị vững mạnh.
Sáu là, làm việc với tinh thần sáng tạo.
Cùng với ý thức tổ chức kỷ luật, đạo đức công vụ đòi hỏi ở người công
chức phải làm việc có tinh thần sáng tạo, phát huy sáng kiến, hoàn thành nhiệm
vụ, không thụ động, máy móc. Có tư duy sáng tạo, có phương pháp làm việc tốt,
biết đề xuất sáng kiến để nâng cao năng xuất lao động, hoàn thành nhiệm vụ với
hiệu quả cao là những phẩm chất rất cơ bản và cần thiết của đạo đức công vụ
trong nền công vụ hiện đại. Tinh thần lao động sáng tạo, xuất phát từ bản chất và
lợi ích của giai cấp công nhân. Và cũng chính những đặc điểm đó quy định phẩm
chất đạo đức của người công chức xã hội chủ nghĩa.
2.3.2. Những nguyên tắc xây dựng đạo đức công chức theo tư tưởng Hồ
Chí Minh
Xây dựng đạo đức công chức thực chất là quá trình tác động có tính
hướng đích, có tính tích cực và có kế hoạch với hình thức đa dạng, phong phú
của chủ thể tới công chức giúp họ thấm nhuần một cách tự giác toàn bộ những
phẩm chất đạo đức công chức trong thực thi công vụ
Xây dựng đạo đức công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh là quá trình tác
động có tính hướng đích, tích cực với hình thức đa dạng, phong phú của chủ thể
62
tới công chức giúp họ thấm nhuần một cách tự giác toàn bộ những phẩm chất
đạo đức công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng đạo đức
nhằm phục vụ Đảng, Tổ quốc, nhân dân.
Từ quan điểm xây dựng đạo đức cách mạng, đạo đức công chức theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, có thể khái quát những nguyên tắc cơ bản đạo đức công
chức cho đội ngũ công chức như sau:
Một là, nói đi đôi với làm và phải nêu gương về đạo đức
Nói đi đôi với làm là một trong những nguyên tắc cơ bản xây dựng đạo
đức mới vì chỉ khi lời nói phải đi đôi với việc làm thì mới đem lại hiệu quả thiết
thực cho bản thân và có tác dụng đối với người khác.
Công chức các cấp từ trung ương đến cơ sở đều phải nói đi đôi với làm để
làm mực thước cho nhân dân thực hiện theo, như vậy mới có sức thuyết phục.
Bản thân Hồ Chí Minh cũng chính là một tấm gương nói đi đôi với làm. Người
vĩ đại khi nói về đạo đức, Người càng vĩ đại khi thực hành đạo đức. Hiện nay,
nếu chỉ nói hay về đạo đức Hồ Chí Minh mà không làm theo tấm gương đạo đức
của Người, không thực hiện đúng nói đi đôi với làm, thì thực chất là chưa thấm
nhuần tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Người cán bộ công chức phải gương mẫu về đạo đức. Sự gương mẫu về
đạo đức là một trong những chuẩn mực đặc trưng của đạo đức công vụ. Có
quyền lực càng lớn, địa vị càng cao thì càng phải thường xuyên tu dưỡng và làm
gương sáng về đạo đức. Hồ Chí Minh viết: Một điều rất quan trọng nữa là các
đồng chí Bộ trưởng, Thứ trưởng và cán bộ lãnh đạo phải luôn gương mẫu về mọi
mặt, phải nêu gương sáng về đạo đức cách mạng; cần kiệm liêm chính, chí công
vô tư phải giữ gìn tác phong gian khổ phấn đấu không ngừng nâng cao chí khí
cách mạng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc... nhân dân ta
rất tốt. Nếu chúng ta làm gương mẫu và biết lãnh đạo thì bất cứ công việc gì khó
khăn đến đâu cũng nhất định làm được.
Đạo đức của cán bộ, công chức theo quan điểm của Hồ Chí Minh còn có
nghĩa là Chính phủ, cán bộ phải lấy tinh thần công bộc của dân, đầy tớ của dân
63
mà đối xử với dân. Cách hiểu này có thể coi là một đặc trưng tiêu biểu của đạo
đức công vụ. Tinh thần đầy tớ của của dân không chỉ có ý nghĩa là tôn trọng
quyền dân chủ mà còn có ý nghĩa rằng người được giao trách nhiệm đại diện cho
nhân dân phải tận tâm, tận tụy với công việc, với dân, phụng sự nhân dân hết
mình như giữ đạo hiếu với cha mẹ vậy.
Hai là, xây đi đôi với chống và phải tạo thành phong trào quần chúng
rộng rãi
Trong đời sống những hiện tượng tốt - xấu, đúng - sai, cái đạo đức và cái
vô đạo đức vẫn thường đan xen nhau. Cái tốt vẫn là dòng chính, chủ đạo trong
cuộc sống, nhưng những cái xấu đang tồn tại, có hiện tượng, có nguy cơ lây lan,
phát triển. Do vậy, xây phải đi đôi với chống. Muốn xây phải thực hiện tuyên
truyền, giáo dục, khơi dậy ý thức lành mạnh ở mọi người để mọi người tự giác,
tự giáo dục, tự trau dồi đạo đức của mình, đồng thời phải chống lại cái xấu, cái
sai, cái vô đạo đức, chống chủ nghĩa cá nhân, chống giặc ở trong lòng. Để việc
xây và chống có kết quả, theo Hồ Chí Minh, phải tạo thành phong trào quần
chúng rộng rãi, thông qua phong trào quần chúng; mỗi cán bộ công chức phải có
bản lĩnh, trung thực, quyết tâm cao, thường xuyên cổ vũ, phấn đấu bồi đắp cho
cái đẹp, cái thiện, cái đúng; kiên quyết đấu tranh đẩy lùi cái ác, cái xấu, cái sai,
đưa phong trào cách mạng của quần chúng tiến lên.
Đồng thời với rèn luyện đạo đức, cần phải đấu tranh với những hành vi
phi đạo đức. Đó không phải hoàn toàn là điều dễ dàng. Nó không chỉ là việc
chống những hành vi phi đạo đức của người khác, mà khó khăn hơn, nó là sự tự
đấu tranh trong bản thân mỗi một con người nhằm chống lại lòng tham, sự vị kỷ,
óc tư lợi, cái mà Bác gọi là "lòng tà", là "kẻ thù trong mình". Chống chính là để
xây dựng và hoàn thiện đạo đức của mỗi con người. Không chống thì khó có thể
xây được.
Người công chức trong sạch là không tham nhũng, không tham ô tài sản
của Nhà nước và của nhân dân, thực hiện công vụ vô tư không đòi hỏi, sách
nhiễu, gây khó khăn cho tổ chức và nhân dân. Khi thi hành công vụ không lợi
dụng chức vụ, quyền hạn, vị trí công tác để vụ lợi và mưu cầu lợi ích cá nhân. Sử
64
dụng các phương tiện, cơ sở vật chất của cơ quan, Nhà nước phải tiết kiệm giữ
gìn và bảo vệ của công.
Ba là, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức suốt đời
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: "đã là người thì ai cũng có chỗ hay,
chỗ dở, chỗ xấu, chỗ tốt, ai cũng có thiện, có ác ở trong mình. Vấn đề quan trọng
là mỗi người phải biết tự nhận thức chính bản thân mình để từ đó khắc phục
điểm yếu, phát huy điểm mạnh. Đó chính là sự "tu thân" và tu thân là công việc
đầu tiên cần làm để trở thành người "quân tử". Nhưng tất cả những tốt, xấu, hiền,
dữ, thiện, ác đều lệ thuộc vào sự giáo dục và tự giáo dục mà nên. Quan điểm này
cho thấy tính biện chứng trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về con người. Rèn
luyện và tu dưỡng đạo đức là công việc cần thực hiện bền bỉ suốt đời, "như rửa
mặt hàng ngày". Người đã chỉ rõ: "Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa
xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố.
Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong" [71, tr.612].
Đối với mỗi người, việc tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện trong mọi
hoạt động thực tiễn của bản thân mình, trong sinh hoạt, học tập, lao động cũng
như trong chiến đấu. Trong cuộc sống, mỗi người có nhiều cương vị, nhiều vai
trò khác nhau đòi hỏi phải điều chỉnh hành vi của mình và phẩm chất đạo đức
của mỗi người được thể hiện rất cụ thể, phong phú, đa dạng.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, không có gì là bất biến. Mọi thứ, trong đó có
những phẩm chất của con người, đều có thể thay đổi, thông qua giáo dục và rèn
luyện. Do đó, giáo dục và rèn luyện chính là chìa khóa để hoàn thiện đạo đức
cho mỗi cá nhân. Nếu được giáo dục và rèn luyện tốt, thì từ dở, từ xấu, từ ác, có
thể trở thành con người tốt đẹp, lương thiện. Và ngược lại, nếu không bền bỉ, rèn
luyện, thì từ chỗ là con người tốt đẹp, người công chức có thể xao nhãng và dần
dần xa rời những chuẩn mực đạo đức. Đến một lúc nào đó, họ có thể sẽ dễ dàng
đánh đổi tư cách đạo đức của mình lấy chữ danh, chữ lợi, và đồng thời cũng đổi
lấy sự mất lòng tin của nhân dân và sự trả giá trước pháp luật. Nói cách khác, tu
dưỡng đạo đức là công việc suốt đời của mỗi con người chân chính nói chung,
của mỗi người công chức nói riêng.
65
2.4. Giá trị lý luận và ý nghĩa thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức công chức
Thứ nhất; tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức góp phần định
hướng trong quá trình xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay. Hồ
Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức cho cán bộ.
Một trong những bài giảng đầu tiên cho lớp thanh niên trí thức yêu nước năm
1920 là bài giảng về "tư cách của một người cách mạng". Đến khi viết Di chúc,
Người vẫn dành một phần quan trọng để bàn về vấn đề đạo đức, yêu cầu mỗi cán
bộ phải thấm nhuần đạo đức cách mạng. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, mỗi
người có công việc, tài năng và vị trí khác nhau nhưng ai giữ được đạo đức cách
mạng đều là người cao thượng. Có đạo đức cách mạng sẽ giúp cho mỗi cán bộ,
công chức khi gặp khó khăn, thất bại không lùi bước, chán nản, khi gặp thuận lợi
và thành công vẫn giữ tinh thần khiêm tốn, không kiêu ngạo....
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng đạo đức công chức,
Đảng ta đã xác định: "Xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng,
có đạo đức, lối sống lành mạnh, không quan liêu, tham nhũng, lãng phí, kiên
quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; có tư duy đổi mới, sáng
tạo, có kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa" [24, tr.292-293].
Như vậy, những tiêu chuẩn chung của người cán bộ, công chức được thể
hiện trên ba mặt cơ bản: phẩm chất chính trị tư tưởng; đạo đức, lối sống; trình
độ, năng lực và chuyên môn công tác. Ba mặt này có quan hệ chặt chẽ, hữu cơ
với nhau tạo thành "tư cách" của người công chức và cũng là những tiêu chí để
người công chức hướng tới trong quá trình xây dựng đạo đức, uy tín của mình
Thứ hai; tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức góp phần tạo động
lực tinh thần khuyến khích đội ngũ công chức rèn luyện, tu dưỡng, xây dựng đạo
đức cách mạng của mình. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh thì: người sức có
mạnh mới gánh được nặng, đi được xa, người đảng viên phải có đạo đức cách
mạng mới hoàn thành nhiệm vụ cách mạng vẻ vang. Do đó, có thể thấy, các
phẩm chất đạo đức có vị trí nền tảng và đóng vai trò quyết định trong đời sống tự
66
thân, đời sống xã hội và công việc của người cán bộ, công chức. Ở đây, vận
dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong xây dựng đạo đức công chức phải chú
trọng cả rèn đức luyện tài để họ vừa có đạo đức, vừa có tài, vừa có phẩm chất
vừa có năng lực. Vì vậy, mỗi cán bộ, công chức phải luôn luôn học tập, tu
dưỡng để hoàn thiện bản thân và việc làm thường xuyên, việc tu dưỡng đạo đức
phải gắn với thực tiễn công tác, lao động, học tập, rèn luyện mọi lúc, mọi nơi,
trong mọi hoàn cảnh.
Như vậy, có thể thấy vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đề cập một cách
toàn diện. Để vận dụng tư tưởng đạo đức của Người trong xây dựng đạo đức
công chức trong giai đoạn hiện nay cần thực hiện một số điểm sau:
Một là, không ngừng học tập, nhận thức sâu sắc hơn nữa những nội dung
cơ bản và những giá trị to lớn tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, làm cho tư tưởng
của Người thật sự thấm sâu vào công tác cán bộ, trở thành nền tảng, tinh thần
của mọi cán bộ, công chức. Cán bộ, công chức phải thấy được ý nghĩa và tầm
quan trọng của việc học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh gắn với công việc
của mỗi công chức trong bối cảnh hiện nay.
Hai là, bám sát nội dung tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, những giá trị cốt
lõi trong phong cách của Người được thể hiện sinh động, tự nhiên, độc đáo, có
sức thu hút, cảm hoá kỳ diệu trong hoạt động hằng ngày để vận dụng vào đời
sống, công tác và ứng xử xã hội….Từ đó, cụ thể hóa và xác định những yêu cầu
cơ bản về phong cách làm việc của từng loại công việc, từng đối tượng cán bộ
cho phù hợp, tránh giáo điều, rập khuôn máy móc.
Ba là, từ tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, soi rọi vào những việc làm hiện
nay của mỗi cán bộ, công chức vừa để "sửa mình", "sửa đổi lối làm việc", chống
lại các quan điểm sai trái. Cần phải nhận thức rõ hơn những giá trị lớn lao trong
tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là phong cách của một nhà khoa học chân chính,
luôn thống nhất giữa tính đảng, tính khoa học trong mỗi lời nói, việc làm và
quan hệ công tác.
Thứ ba; tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức là cơ sở giúp đội
ngũ công chức đứng vững trước tác động mặt trái của kinh tế thị trường, hội
67
nhập quốc tế và sự chống phá của các thế lực thù địch. Trong giai đoạn hiện nay,
trước những vấn đề phức tạp trong và ngoài nước, công chức cần phải thể hiện
được bản lĩnh "dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm" để gây dựng lòng tin
trong quần chúng, đồng thời đứng vững trước những tác động nhiều chiều của
cuộc sống; đương đầu với những thách thức, cám dỗ của cuộc sống. …
Nói tới đạo đức là nói tới luân thường đạo lý của mỗi con người, cũng
như những chuẩn mực xã hội mà mỗi người phải tuân theo. Đạo đức chính là
cái cốt bên trong, là khuynh hướng tốt trong tâm của mỗi người, chi phối suy
nghĩ và hành vi của chủ thể. Đạo đức của công chức được thể hiện qua mối
quan hệ và cách ứng xử với chính mình, với cấp dưới, với công việc và với
quần chúng nhân dân.
Trong quan hệ với chính mình, công chức phải cần cù chịu khó, không ngại
khó, không ngại khổ; tiết kiệm, không xa hoa lãng phí; liêm khiết, trong sạch,
không tham nhũng, không lợi dụng chức vụ quyền hạn của mình để mưu cầu lợi
ích riêng, sách nhiễu nhân dân; chính trực, ngay thẳng, công tâm. Với công việc
phải nhiệt tình, say mê, trung thực, có trách nhiệm và bản lĩnh trong công việc; thể
hiện ở tinh thần dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm. cán bộ, công chức
phải suy nghĩ cho kỹ, cân nhắc thành công trước mắt và tác động lâu dài. Phải chủ
động và sáng tạo trong công việc, biết những điều phải làm, phương pháp phù
hợp, biết trù liệu trước những thành quả và rủi ro để lúc nào cũng giữ được bản
lĩnh và thế chủ động. Với cấp dưới phải khoan dung, độ lượng, luôn nhìn thấy
những nhân tố tích cực, tiến bộ ở người khác; nhiệt tình giúp đỡ, chân thành. Đối
với nhân dân, người công chức phải tận tụy phục vụ người dân, hiểu rằng "Dân
nghe theo là mình mạnh" phải hiểu nguyện vọng, tâm lí của dân. Có như vậy mới
giúp dân hoàn thành những nhiệm vụ của Đảng và chính phủ giao phó.
Kết luận chương 2
Đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, vĩ đại khi Người bàn về đạo
đức và càng vĩ đại khi Người thực hành về đạo đức. Tư tưởng đạo đức và tấm
gương trong sáng của Người là tài sản vô giá để các thế hệ người Việt Nam học
tập và noi gương.
68
Trong giai đoạn hiện nay, do đòi hỏi của yêu cầu của thực tiễn nên mỗi
cán bộ, công chức không chỉ tu dưỡng và rèn luyện đạo đức cách mạng mà cần
xây dựng đạo đức nghề nghiệp. Trong quá trình xây dựng đạo đức nghề nghiệp
đòi hỏi phải gắn với rèn luyện phẩm chất chính trị, tri thức cũng như các năng
lực nghề nghiệp cần thiết khác. Thấm nhuần tư tưởng, tấm gương đạo đức của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, vận dụng tư tưởng của Người về đạo đức công chức mỗi
cán bộ, công chức vì nhiệm vụ của mình với quốc gia, dân tộc, với chính bản
thân mình phải học tập và tu dưỡng suốt đời, phải hàng ngày học tập và tích lũy
tri thức và kinh nghiệm, không ngừng nâng cao đạo đức cách mạng. Học tập và
rèn luyện thường xuyên, phải bền bỉ, kiên trì và học tập trên mọi lĩnh vực phải có
đạo đức, có lương tâm nghề nghiệp, phải thực sự trung thực, tôn trọng pháp luật
và kỷ luật lao động trong nghề nghiệp.
Thực tiễn đã chững minh, do không tu dưỡng, rèn luyện lâu dài bền bỉ nên
có những người trong lúc đấu tranh thì hăng hái, trung thành, không sơ nguy
hiểm, không sợ khổ cực, không sợ quân địch, nhưng đến khi có ít quyền hạn
trong tay lại kiêu căng, xa xỉ phạm vào tham ô, lãng phí thậm chí còn biến mình
thành người có tội với đảng với nhân dân. Chính vì lẽ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đòi hỏi việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng phải trên tinh thần tự giác,
tự nguyện, dựa vào lương tâm, trách nhiệm của mỗi người cán bộ, công chức.
Để thực hiện đạo đức công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh mỗi cán bộ
công chức nói phải đi đôi với làm, đã nói đến việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức
cách mạng thì bản thân không được tự cao, tự đại, tự mãn hay kiêu ngạo mà phải
luôn học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa chữa điều
chưa tốt ở bản thân... còn đối với người khác phải luôn giữ thái độ chân thành,
khiêm tốn, đoàn kết, không dối trá, lừa lọc. Thực hiện tốt phê bình và tự phê
bình, đây là vũ khí sắc bén nhất trong xây dựng và rèn luyện đạo đức của người
cán bộ, công chức. Thông qua việc phê bình chúng ta nhận được đâu là ưu điểm,
khuyết điểm của mình, cũng như của người khác để từ đó mỗi người cố gắng sửa
chữa thì khuyết điểm ngày càng bớt đi, ưu điểm ngày càng nhiều thêm, đảng
viên và cán bộ ngày càng trở nên chân chính cách mạng.
69
Công cuộc đổi mới ngày nay của chúng ta không chỉ làm ra và đem lại
cho con người những điều mong muốn, mà chủ yếu là khơi dậy trong con người
lòng tự hào, niềm tin, ý chí, bản lĩnh chính trị, nhiệt tình cách mạng, tài năng để
tự mình làm ra tất cả. Chính việc không ngừng học tập rèn luyện đạo đức cách
mạng, đạo đức công chức của người cán bộ công chức theo tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh sẽ góp phần không nhỏ trong quá trình này và tự khẳng định mình
trong công cuộc đổi mới hiện nay.
70
Chương 3
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÔNG CHỨC
TRONG XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CÔNG CHỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY-
THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN
3.1. Những nhân tố chủ yếu tác động đến việc vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công chức hiện nay
Quá trình sống của con người là quá trình không ngừng chinh phục thế
giới khách quan, không ngừng thích ứng với hoàn cảnh bên ngoài bằng cách tạo
hoàn cảnh theo yêu cầu của mình. Sự hình thành và phát triển đạo đức của con
người là quá trình thống nhất giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan.
Việc vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong xây dựng đạo đức đội ngũ
công chức cũng như vậy. Sự thống nhất giữa điều kiện khách quan và nhân tố
chủ quan là cơ sở cho việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công
chức và xây dựng đạo đức công chức đạt hiệu quả cao. Vì thế, luận án sẽ đề cập
đến một số điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan cơ bản tác động đến việc
vận dụng này ở Việt Nam hiện nay.
3.1.1. Nhân tố khách quan
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng là giai
đoạn của thời kỳ quá độ. Thời kỳ này có đan xen, tác động lẫn nhau rất phức
tạp giữa yếu tố cũ và yếu tố mới, tiến bộ và lạc hậu. Trong quá trình chuyển
đổi nền kinh tế ở nước ta cũng phát sinh nhiều mặt trong đó có sự chuyển biến về
mặt đạo đức xã hội nói chung và đạo đức công chức nói riêng. Tác động của kinh tế
thị trường đến đạo đức công chức là một hiện tượng phức tạp với nhiều biểu hiện khác
nhau, vừa mang tính tích cực vừa mang tính tiêu cực.
Tác động tích cực của kinh tế thị trường đến việc vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh trong xây dựng đạo đức công chức.
Thứ nhất; nước ta cũng đang trong quá trình hoàn thiện các thể chế của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hoàn thiện các thể chế của
kinh tế thị trường đang tạo ra những áp lực mới đối với tính năng động,
71
sáng tạo và các phẩm chất chính trị của đội ngũ công chức. Những yêu cầu,
đòi hỏi từ cuộc sống đối với các cơ quan quyền lực nhà nước đòi hỏi công chức
phải có đủ năng lực và phẩm chất để đáp ứng được với đòi hỏi về tự do trong hoạt
động kinh tế, dân chủ trong đời sống xã hội, nhất là yêu cầu dân chủ trong đời
sống chính trị. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường thúc đẩy kinh tế xã hội
phát triển, đời sống kinh tế của từng cán bộ công chức được nâng lên. Từ đó,
khiến cho công chức có cuộc sống thực tế, bớt đi tính chủ quan, ảo tưởng. Sự
tác động này thể hiện qua tác phong, lề lối làm việc của cán bộ công chức, theo
hướng chuyên nghiệp hơn nhằm đáp ứng được hiệu quả trong thực thi công vụ.
Ngoài ra còn thấy được sự tiến bộ không ngừng của đội ngũ công chức trong
việc nâng cao trình độ, cập nhật kiến thức, kỹ năng làm việc, trình độ ngoại ngữ,
trau dồi bản thân để bắt kịp với sự phát triển của thế giới.
Sự phân phối lao động trong nền kinh tế thị trường đã gắn quyền lợi với
trách nhiệm của công chức nên đã kích thích tính năng động sáng tạo, họ phải
làm việc cụ thể, sát thực có hiệu quả với công việc nên không thể chung chung,
tùy tiện. Kinh tế thị trường tạo ra tính cạnh tranh cao vì vậy mỗi công chức luôn
phấn đấu vươn lên để hoàn thành nhiệm vụ của mình, họ phải khẳng được vai trò
của cá nhân trước tập thể. Do đó để khẳng định được vai trò của mình thì mỗi
công chức phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, năng lực
của mình nếu không muốn bị sa thải. Đây là điều kiện thuận lợi trong giáo dục tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho đội ngũ công chức. Ở đây, tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức công chức là cơ sở định hướng cho việc rèn luyện tu dưỡng của
người cán bộ công chức.
Thứ hai; kinh tế thị trường hướng hoạt động của công chức đến lợi ích
cộng đồng. Với đặc trưng của nền kinh tế thị trường là sản xuất để trao đổi, để
bán, tạo nên những người sản xuất, kinh doanh phải thường xuyên quan tâm tới
lợi ích của khách hàng, của xã hội. Cũng trong nền kinh tế thị trường, vấn đề đạo
đức kinh doanh được chú trọng, vấn đề nhân cách, phẩm chất của những người
sản xuất được đề cao. Hoạt động của cán bộ, công chức liên quan đến cuộc sống
vật chất và tinh thần của người lao động. Xuất phát từ đặc điểm của kinh tế thị
72
trường, từ nhu cầu của người lao động, đặt ra những yêu cầu về phẩm chất đạo
đức, năng lực của cán bộ, công chức để tạo điều kiện tốt nhất cho người lao động
làm tốt công việc của mình.
Ở Việt Nam, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản đã đạt được nhiều thành tựu có ý nghĩa quan trọng trong phát
triển kinh tế - xã hội. Việt Nam đã trở thành thành viên của nhiều tổ chức
quốc tế và khu vực. Đặc biệt, khi trở thành thành viên của tổ chức Thương
mại thế giới (WTO) vào năm 2007, cải cách hành chính là một yêu cầu bắt
buộc, trong đó, việc nâng cao đạo đức công chức được xem như là sự cam kết
của Việt Nam nhằm xây dựng nền hành chính với những chuẩn mực thống
nhất, dân chủ, đảm bảo tính công khai, minh bạch, dễ tiếp cận và bình đẳng
đối với tất cả các thành viên của các tổ chức này trong quá trình toàn cầu hóa.
Đó cũng là động lực quan trọng trong góp phần phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Thứ ba; chúng ta thừa nhận toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là một tất
yếu khách quan thì trước hết, đạo đức công chức trong quá trình thực thi công vụ
của mình là việc cung cấp các dịch vụ công phải làm sao đem lại lợi ích cho
người dân nhiều nhất. Đạo đức công chức trong thực thi công vụ phải thể hiện ở
tính cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, ở việc hoạch định chính sách công sao
cho phù hợp của Nhà nước. Việc nâng cao đạo đức công chức phải gắn với phát
hiện và kịp thời ngăn ngừa những khuyết điểm, tác động tiêu cực của toàn cầu
hóa, để không chạy theo tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá. Nâng cao đạo đức
công chức là để hóa giải được sự mất cân bằng trong phân phối lợi ích do toàn
cầu hóa; sự mất cân bằng trong những chính sách phúc lợi, an sinh xã hội, giáo
dục, y tế... hướng đến phục vụ nhân dân được hiệu quả hơn.
Nền công vụ của mọi quốc gia luôn đề cao vấn đề đạo đức công chức, mà
mấu chốt của vấn đề này xét đến cùng, chính là nằm ở chất lượng nhân tố con
người, mà cụ thể là đội ngũ công chức. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2011- 2020 của nước ta chỉ rõ: "Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
73
có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị, có năng lực, có tính chuyên
nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân dân" [25, tr.143].
Đạo đức công chức là yếu tố bản chất trong vai trò quản lý xã hội của nhà
nước. Có thể nói, sau khi xây dựng được hệ thống chính sách đúng đắn và phù
hợp với yêu cầu của thực tiễn, chức năng quản lý xã hội của nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thể hiện như thế nào, mức độ hiệu quả,
hiệu lực đến đâu phụ thuộc đáng kể vào đội ngũ công chức nhà nước trong các
cơ quan công quyền. Vì vậy, nâng cao đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay
là một nhiệm vụ cấp bách trong quá trình thực thi công vụ.
Sự vận động theo hướng tiến bộ của đạo đức công chức là yếu tố phản ánh
xu thế phát triển nội tại, tích cực và khách quan của các chế độ nhà nước trong
lịch sử. Nhà nước Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân, do đó mục tiêu
không gì khác hơn là phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn, có đạo đức hơn. Để
thực hiện được mục tiêu đó, trước hết, đội ngũ công chức nhà nước phải thực sự
là người có đạo đức trong thực thi công vụ phục vụ nhân dân. Mặt khác, sự phát
triển mạnh mẽ các quan hệ kinh tế quốc tế cũng đòi hỏi phải nâng cao đạo đức
công chức phù hợp với thông lệ quốc tế khi Việt Nam hội nhập ngày càng sâu
rộng với thế giới.
Tác động tiêu cực của kinh tế thị trường đến việc vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh trong xây dựng đạo đức công chức.
Thứ nhất; kinh tế thị trường tạo ra xu hướng nhấn mạnh đến khía cạnh
kinh tế, nhấn mạnh nhu cầu phát triển kinh tế bằng mọi giá mà bỏ qua những
mặt khác của đời sống. Kinh tế thị trường là môi trường để cho công chức
hình thành thói quen sai lầm rằng từ chỗ chỉ là người thừa hành quyền lực họ
lại tưởng họ là người có quyền, dẫn đến tình trạng lạm quyền và nảy sinh nhu cầu
muốn thỏa mãn lợi ích kinh tế bằng mọi giá, nhất là lợi dụng quyền lực chính
trị để thỏa mãn những nhu cầu về kinh tế. Hiện tượng tham nhũng xảy ra ở
những người có chức quyền trong bộ máy nhà nước cũng là một phần quan trọng
do cách nghĩ đó. Nền kinh tế đất nước có những khởi sắc đã xuất hiện lối sống
74
hưởng thụ, "sống gấp", chủ nghĩa cá nhân, vị kỷ, coi thường lợi ích tập thể,
xã hội, chỉ lo vun vén cho lợi ích cá nhân của công chức.
Do đặc điểm nền kinh tế thị trường ở nước ta đang trong quá trình hình
thành, với cơ chế hoạt động và hệ thống pháp luật chưa được hoàn thiện, thì kinh
tế thị trường cũng có những tác động tiêu cực đến đến đạo đức của một bộ phận
công chức. Đây là rào cản lớn trong quá trình học tập, rèn luyện, tu dưỡng đạo
đức cách mạng của đội ngũ công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ hai; kinh tế thị trường tạo ra sự bất bình đẳng về thu nhập, địa vị xã
hội giữa các tầng lớp. Không những thế, khi phát triển kinh tế thị trường sẽ dẫn
đến sự phân tầng ngay trong một giai cấp, gây nên sự phân hoá giàu nghèo, chênh
lệch mức sống, dễ dẫn đến mâu thuẫn giữa những công chức với nhau. Công chức
ở những ngành, lĩnh vực liên quan đến doanh nghiệp và kinh tế thường giàu có
hơn công chức ở những lĩnh vực khác. Sự giàu có hơn của họ, đôi khi không
phải ở tài năng, ở đóng góp của họ mà là do họ có khả năng và điều kiện để vòi
vĩnh, sách nhiễu doanh nghiệp và người dân.
Bên cạnh sự phát triển kinh tế mạnh mẽ, kinh tế thị trường cũng tạo ra hệ
lụy là lối sống hưởng thụ. Lối sống này ảnh hưởng đến toàn xã hội ở những mức
độ khác nhau, trong đó có công chức nhà nước. Khi nhu cầu tiêu dùng vượt quá
khả năng kinh tế, vượt quá đồng lương của khu vực nhà nước, dễ dẫn đến tình
trạng công chức vì lợi ích cá nhân mà vi phạm pháp luật, vi phạm các giá trị đạo
đức, thực hiện những hành vi tiêu cực như hách dịch, cửa quyền nhằm tìm kiếm
lợi ích kinh tế cho bản thân, dẫn tới làm ăn phi pháp, biển thủ công quỹ, tham ô,
tham nhũng...
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, giá trị của con người thường được
đo bằng hiệu quả của hoạt động kinh tế nên trong quá trình thực thi công vụ đội
ngũ công chức dễ bị ảnh hưởng đến nhân cách theo hướng tư lợi. Trong cơ chế
này, giá trị truyền thống bị xem nhẹ, bị lãng quên, thói kiêu căng, hợm mình và
những thói xấu khác dễ xuất hiện. Khi đạo đức của công chức xuống cấp thì sẽ
làm giảm chất lượng của các cơ quan nhà nước, làm mất lòng tin của nhân dân
vào hoạt động quản lý nhà nước.
75
Thứ ba; trước những tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường, hội
nhập quốc tế cùng với những hạn chế yếu kém trong quản lý, điều hành, trong
việc giáo dục và rèn luyện cán bộ đảng viên, đâu đó đã xuất hiện những giá trị
vật chất lấn lướt những giá trị tinh thần, tư tưởng hưởng thụ, lợi ích nhóm, thu
vén cá nhân, ích kỷ bè phái, chạy chức, chạy quyền, đó là những biểu hiện của
chủ nghĩa cá nhân đang làm ảnh hưởng xấu đến những giá trị cao cả của người
cán bộ, đảng viên đã được hình thành, tôi luyện qua bao thăng trầm của cách
mạng, làm phương hại đến phẩm chất, uy tín của Đảng ta.
Cũng trong nền kinh tế thị trường, khi mà toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế ngày càng phát triển, thì các lực lượng thù địch, lực lượng phản động,
lưu vong ở nước ngoài dễ lợi dụng tìm cách mua chuộc, khống chế, dụ dỗ, lôi
kéo một bộ phận cán bộ, công chức vào con đường ăn chơi sa đọa, biến chất
về đạo đức để chúng dễ bề thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình" phá hoại
cách mạng xã hội xã hội chủ nghĩa từ trong tổ chức Đảng và Nhà nước của
chúng ta.
Phát triển kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan, tuy nhiên nó cũng
có những tác động tiêu cực đến đạo đức của một bộ phận cán bộ, công chức.
Chính vì vậy, cùng với sự phát triển của nền kinh tế chúng ta cần xây dựng và
hoàn thiện đạo đức của đội ngũ công chức để đáp ứng với yêu cầu của thực tiễn.
Thực tiễn xã hội cho thấy, bên cạnh những thành tựu mà công cuộc đổi
mới đạt được thì chúng ta đang đứng trước những thách thức không nhỏ, trong
đó tình trạng suy thoái về phẩm chất đạo đức, thiếu ý thức trách nhiệm trong
thực thi công vụ của một bộ phận công chức nhà nước. Đại hội XII, Đảng ta đã
thẳng thắn chỉ ra rằng: "Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng,
lãng phí chưa được bị đẩy lùi. Tội phạm và tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp;
đạo đức xã hội có mặt xuống cấp nghiêm trọng" [29, tr.61].
- Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
Toàn cầu hóa là một xu thế khách quan và ngày càng mở rộng, các quốc
gia dù muốn hay không, cũng đều chịu sự tác động của nó. Việt Nam là nước
76
đang phát triển, quá trình toàn cầu hóa tạo cho chúng ta những thời cơ thuận lợi
để phát triển, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức. Chúng ta có điều kiện thuận
lợi để mở rộng thương mại quốc tế, thu hút đầu tư và nguồn lực bên ngoài
nhằm phát triển các ngành sản xuất mà ta có lợi thế, qua đó, thúc đẩy sự tăng
trưởng kinh tế. Ngoài những tác động về kinh tế, toàn cầu hóa còn tác động tích
cực đến sự phát triển văn hóa. Nhờ tiếp thu những thành tựu công nghệ thông
tin, chúng ta có thể tiếp cập nhật được nhiều thông tin mới về tình hình thế
giới. Cũng qua đó, ý thức chính trị về các vấn đề trong nước và trên thế giới
cũng được nâng cao. Ở đây, các giá trị văn hóa nói chung, tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức công chức nói riêng được phát triển trong điều kiện mới và
cũng từ đây các quan niệm về đạo đức và đạo đức công chức, lối sống được bổ
sung, phát triển cho phù hợp với thời đại, vừa đậm đà truyền thống dân tộc vừa
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Điều này có tác dụng tích cực đến tư duy, lối
sống, đạo đức của người cán bộ công chức.
Những thay đổi trong đời sống kinh tế văn hóa, tinh thần theo hướng ngày
càng tất đẹp hơn làm người dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội, thấy rõ đường lối, chính sách đổi mới của
Đảng đề ra là đúng đắn, theo kịp trào lưu của thời đại, phù hợp với nguyện
vọng của nhân dân tạo ra sự tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân,
đưa nước ta lên một vị trí xứng đáng trên trường quốc tế. Tuy nhiên, toàn cầu
hóa một mặt, tạo cơ hội cho những tổ chức, cá nhân có năng lực phát huy
được tiềm năng của mình, đem lại lợi ích cho cá nhân và cho cả xã hội.
Nhưng mặt khác, toàn cầu hóa cũng đem đến tác động tiêu cực trong phát
triển kinh tế. Đó là việc đặt mục tiêu kinh tế lợi nhuận lên trên hết, do đó mà
một số tổ chức, cá nhân làm giàu bất chính bằng bất cứ giá nào. Điều đó góp
phần làm băng họai nền đạo đức xã hội, làm cho quan hệ giữa người với
người trở nên lạnh lùng, xa lạ, đây là một trong những nguyên nhân của sự
suy thóai đạo đức, lối sống của một số cán bộ, công chức. Toàn cầu hóa các
quan hệ kinh tế sẽ đưa lại sự hưởng thụ vật chất và tinh thần rẻ hơn, tiện nghi
phong phú hơn. Song mặt khác, chính sự giao thoa về văn hóa, sự tràn ngập
77
của hàng hóa đó đã tạo ra khả năng về sự tha hóa nhân cách, đạo đức, làm rối
loạn các giá trị truyền thống của dân tộc.
Một trong những tác động tích cực của toàn cầu hóa là việc soi chiếu các
giá trị đạo đức dưới góc độ cá nhân, phẩm chất cá nhân. Nhưng cũng chính mặt
tích cực này khi bị con người đẩy lên quá mức sẽ trở thành tiêu cực. Điều đó dẫn
đến việc đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích xã hội, coi lợi ích cá nhân là trên hết,
lúc đó, lợi ích tập thể sẽ bị lấn át, thậm chí bị phế bỏ, từ đó mà tham nhũng, lãng
phí ngày càng có cơ hội gia tăng, tham nhũng, lãng phí làm tha hóa phẩm chất
đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, công chức, làm nảy sinh nhiều vấn đề
xã hội bức xúc, làm cho nhân dân lo lắng, bất bình và nguy hiểm hơn, đó là làm
giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Nhà nước và chế độ
Như vậy, khi những chuẩn mực đạo đức truyền thống không được giữ vững
như là định hướng trong họat động của con người thì sự suy thoái là điều không
tránh khỏi. Vì vậy, việc giữ vững định hướng chính trị và định hướng giá trị tinh
thần trong thực tiễn xây dựng đất nước, cũng như trong họat động thực tiễn đạo đức
là yêu cầu cấp thiết để góp phần ngăn chặn sự suy thóai và nguy cơ suy thóai đạo
đức của một bộ phận cán bộ, công chức trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
3.1.2. Nhân tố chủ quan
Một là, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với việc vận dụng
tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng đạo đức công chức
Một trong bốn nhóm giải pháp mà Nghị quyết số 12/NQ-TW về Một số
vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay được Hội nghị lần thứ tư Ban chấp
hành Trung ương khóa XI thông qua xác định: "Đẩy mạnh học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một trong những giải pháp quan trọng để
thực hiện Nghị quyết". Nhằm kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng
suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên, ngăn chặn tình trạng cán bộ đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện,
giảm sút ý chí chiến đấu, quên đi trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước nhân
dân, bên cạnh những giải pháp về phê bình và tự phê bình; công tác tổ chức cán
bộ; về cơ chế chính sách; cần tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng
78
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo tinh thần Chỉ thị 05/CT-TW của Bộ
Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh.
Những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới đất nước thời gian qua
luôn gắn liền với vai trò của đội ngũ cán bộ, đảng viên; gắn với việc rèn luyện
phong cách làm việc mới theo gương đạo đức Hồ Chí Minh. Trong công cuộc
đổi mới đó, đa số cán bộ, đảng viên đã thực hiện tốt phương châm "nói đi đôi với
làm", nêu gương trước cấp dưới. Tuy vậy, vẫn còn một bộ phận cán bộ, đảng
viên, kể cả cán bộ lãnh đạo, quản lý nói không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít,
nói hay làm dở, nói mặt đằng làm một nẻo… Một số cán bộ, đảng viên là cấp ủy
viên, cán bộ giữ vị trí lãnh đạo, quản lý còn có những biểu hiện thiếu tinh thần
trách nhiệm, cố ý làm trái đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, quan liêu, tham nhũng, chuyên quyền, độc đoán, hống hách với
nhân dân… Tình trạng này không những làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối
với Đảng, mà còn làm cho kỷ cương, phép nước bị coi thường. Thực tế này vừa
phản ánh phong cách làm việc chưa đáp ứng được yêu cầu mới, vừa phản ánh sự
yếu kém về năng lực, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của
một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Để khắc phục những hạn chế, yếu kém trong phong cách làm việc, thực
hiện có hiệu quả nói đi đôi với làm, góp phần xây dựng phong cách làm việc của
cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của sự nghiệp đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế hiện nay, các cấp ủy, chính
quyền, các tổ chức đoàn thể cần tiếp tục đổi mới giáo dục, nâng cao nhận thức cho
cán bộ, đảng viên về tư tưởng, tấm gương đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, tinh giảm biên chế, khắc phục sự suy thoái đạo
đức Đảng. Xây dựng môi trường xã hội lành mạnh điều kiện thuận lợi cho công
tác giáo dục đạo đức, xây dựng đạo đức cho người công chức hiện nay.
Hai là, việc xây dựng đạo đức công chức phụ thuộc vào nỗ lực của chính
đội ngũ công chức trong rèn luyện, phấn đấu xây dựng đạo đức công vụ.
Đây là yếu tố có vai trò đặc biệt quan trọng, tác động đến việc hình thành
và nâng cao đạo đức công vụ. Nâng cao đạo đức công vụ. Nó giữ vai trò quết
79
định trực tiếp vì sự tác động tích cực của các chủ thể đến đội ngũ công chức chỉ
có ý nghĩa khi bản thân công chức biết tự giác học tập và rèn luyện đạo đức công
chức theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh trong
Sủa đổi lối làm việc đã từng căn dặn: "việc học phải lấy tự học làm cốt". Vì thế
việc tự giác học tập và rèn luyện tiếp thu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công
chức trong xây dựng đạo đức công chức của chính đội ngũ này là không thể
thiếu. Người công chức nếu không chú tâm tới việc tự rèn luyện, tu dưỡng đạo
đức cách mạng thì sẽ không thể thực hiện tốt nghĩa vụ của mình trước Đảng,
Nhà nước và nhân dân, thậm chí còn bị tha hóa, biến chất trước sự tác động đa
chiều của đời sống xã hội.
Đội ngũ công chức nước ta mang trong mình truyền thống, đạo đức tốt
đẹp của dân tộc Việt Nam sẵn sàng phục vụ nhân dân, Tổ quốc một cách vô điều
kiện. Mặc dù vậy, trong xã hội vẫn tồn tại nhiều thói quen, tâm lý cần sớm được
loại bỏ, như: dùng vật chất (tiền, quà biếu…) để chi phối người khác; hành vi
"chạy chức, chạy quyền"; tâm lý thích khoa trương tiền bạc, thế lực… vẫn đang
hàng ngày, hàng giờ tác động đến đội ngũ công chức nhà nước và đã "đốn ngã"
không ít cán bộ, công chức, làm cho đạo đức công chức ít nhiều bị suy giảm.
3.2. Thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công
chức trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay
3.2.1. Những thành tựu đạt được trong việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh trong xây dựng đạo đức công chức và nguyên nhân của nó
3.2.1.1. Thành tựu trong nhận thức và xác định các chương trình học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
Tại Đại hội lần thứ II (1951), Đảng ta khẳng định: Toàn Đảng hãy ra sức
học tập đường lối chính trị, tác phong và đạo đức của Hồ Chủ tịch; sự học tập ấy
là điều kiện tiên quyết làm cho Đảng mạnh, và làm cho cách mạng đi mau đến
thắng lợi hoàn toàn. Thực hiện Nghị quyết Đại hội, toàn Đảng ra sức học tập tư
tưởng, đạo đức của Người, lãnh đạo xây dựng khối đoàn kết dân tộc, đưa cuộc
kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi.
Nghị quyết 195-NQ/TW của Bộ Chính trị Khóa III (6 - 3 - 1970)
mở Cuộc vận động nâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp đảng viên lớp Hồ
80
Chí Minh. Nghị quyết yêu cầu: "Tất cả các đảng viên phải tham gia lớp nghiên
cứu các tác phẩm của Hồ Chủ tịch". Lần đầu tiên trong Nghị quyết của mình,
Đảng ta yêu cầu mọi đảng viên phải nghiên cứu các tác phẩm của Hồ Chí Minh
và coi đây là biện pháp có ý nghĩa quyết định đối với việc nâng cao năng lực
nhận thức, tư duy, là phẩm chất đạo đức của người đảng viên.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do Tổng Bí thư
Trường Chinh trình bày tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng
(1986) nhấn mạnh: Muốn đổi mới tư duy, Đảng ta phải nắm vững bản chất cách
mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa di sản quý báu về tư
tưởng và lý luận cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đại hội VII (1991), vấn đề nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh từng bước
được đẩy lên một bước mới, tuy chưa thật hệ thống và sâu sắc, nhưng những kết
quả bước đầu đã tạo tiền đề cho các nhà khoa học, cán bộ, đảng viên và nhân dân
nghiên cứu, tìm hiểu ở những giai đoạn tiếp sau. Cương lĩnh và Báo cáo chính
trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng thông qua tại Đại hội VII khẳng định:
Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động.
Sau Đại hội VII, Đảng ta tiếp tục có các nghị quyết trực tiếp hoặc gián
tiếp đề cập tới công tác nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, nổi bật là Nghị quyết
09-NQ/TW (2-1995) của Bộ Chính trị Về một số định hướng lớn trong công tác
tư tưởng hiện nay khẳng định lại: Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và của cách mạng
Việt Nam.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996), Đảng ta rút ra một số
bài học chủ yếu: "Trong quá trình đổi mới, phải giữ vững mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh" [22, tr.14].
Nghị quyết Đại hội cũng khẳng định lại nhiều vấn đề tư tưởng Hồ Chí Minh đã
được nêu ở các Nghị quyết trước đây của Đảng và nhấn mạnh việc thường xuyên
81
bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên các vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh; coi việc học tập là nghĩa vụ bắt buộc đối với cán bộ,
đảng viên; đồng thời coi trọng việc bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho thế hệ trẻ.
So với các Đại hội trước, Đại hội VIII đã có những định hướng nghiên
cứu, bồi dưỡng, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh tương đối cụ thể. Nghị quyết
trung ương 2 (khóa VIII) tiếp tục quan điểm đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào
giảng dạy trong hệ thống nhà trường: Tăng cường giáo dục công dân, giáo dục tư
tưởng, đạo đức, lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác - Lênin, đưa việc giảng dạy tư
tưởng Hồ Chí Minh vào nhà trường phù với lứa tuổi và từng bậc học, bước đầu
hình thành được khái niệm và hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh; góp phần quan
trọng vào cuộc đấu tranh, phê phán, bác bỏ sự xuyên tạc của các thế lực thù địch
trên lĩnh vực tư tưởng - lý luận và tạo cơ sở dữ liệu, nội dung, phương pháp
nghiên cứu cho sự ra đời một chuyên ngành khoa học mới - chuyên ngành Hồ
Chí Minh học.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4-2001) đưa ra khái
niệm tương đối hoàn chỉnh về tư tưởng Hồ Chí Minh và nhấn mạnh: "Tư
tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa
phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại" [23, tr.20]. Ðể thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng Việt
Nam trong thời kỳ phát triển mới, Đảng chỉ rõ: cần thấm nhuần sâu sắc, vận
dụng sáng tạo những nguyên lý và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để giải quyết những vấn đề nóng bỏng mà thực
tiễn đang đặt ra; nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh
phải trở thành một nhiệm vụ mấu chốt của công tác tư tưởng của Ðảng, cần
được toàn Ðảng thực hiện chặt chẽ, có chất lượng và hiệu quả.
Với tinh thần và ý nghĩa đó, ngày 27-3-2003, Ban Bí thư đã ra Chỉ thị
số 23-CT/TW "về đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ
82
Chí Minh trong giai đoạn mới" và nhân dịp kỷ niệm 113 năm Ngày sinh của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã phát động tổ chức đợt tuyên truyền, giáo dục sâu
rộng tư tưởng Hồ Chí Minh. Chỉ thị còn đề ra mục đích, yêu cầu, đối tượng
tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới, vạch ra nội
dung, nhiệm vụ công tác tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ CHí Minh và
việc tổ chức thực hiện.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006) tiếp tục khẳng định:
"Sự nghiệp cách mạng của Đảng và của nhân dân ta 76 năm qua đã khẳng định
rằng, tư tưởng vĩ đại của Người cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin mãi mãi là nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam, là
tài sản tình thần vô giá của Đảng và dân tộc ta" [24, tr.6].
Ngày 3 - 2 - 2007, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 06 - CT/TW về tổ chức Cuộc
vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" trong toàn
Đảng, toàn dân. Chỉ thị ra đời nhằm làm cho toàn Đảng, toàn dân nhận thức sâu
sắc về những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng đạo đức và tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh; tạo sự chuyển biển mạnh mẽ về ý thức tu dưỡng,
rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh sâu rộng trong toàn xã
hội, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng. Đây là một
chủ trương lớn vừa mang tính cấp bách trong bối cảnh tình hình hiện nay, vừa có
ý nghĩa lâu dài đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trước tình hình thế giới và khu vực vẫn diễn biến phức tạp, khó lường,
bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn còn tồn tại, nhất là nguy cơ chệch hướng
xã hội chủ nghĩa, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn diễn biến phức tạp, Đại
hội XII của Đảng đã đặt nhiệm vụ "tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh" ở vị trí hàng đầu trong mục tiêu tổng quát của Đại hội. Nội dung xây
dựng Đảng về đạo đức đã được đã được bổ sung thành một thành tố trong "xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức".
Đại hội cũng đặt ra yêu cầu tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh; coi đó là công việc thường xuyên của các tổ chức
Đảng, các cấp chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội, địa phương, đơn vị,
83
gắn với chống suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu
hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng,
phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục những hạn chế trong việc thực
hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị khoá XI về "Tiếp tục đẩy mạnh học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ
thị 05-CT/TW ngày 15/5/2016 về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh. Theo đó, Bộ Chính trị yêu cầu toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành
động trong Đảng, hệ thống chính trị và nhân dân, đưa việc học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thành công việc tự giác,
thường xuyên của cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và tổ chức chính trị - xã hội các cấp, của từng địa phương, cơ quan, đơn
vị, trước hết là của người đứng đầu, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên
chức, đoàn viên, hội viên.
Những thành tựu nghiên cứu, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
công chức những năm qua có thể khái quát lại như sau:
Một là, từ những đổi mới nhận thức của Đảng và hoạt động thực tiễn công
tác nghiên cứu, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức thời gian
qua, đa số cán bộ công chức đã nhận thức rõ hơn về ý nghĩa, tầm quan trọng của
đạo đức công chức; trách nhiệm tu dưỡng, rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức
công chức và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Nhận thức về các nội
dung cơ bản của tư tưởng đạo đức cán bộ công chức Hồ Chí Minh cũng như tấm
gương đạo đức trong sáng của Người được nâng lên rõ rệt. Những giá trị to lớn
của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, như: "Trung với nước, hiếu với dân", "Cần
kiệm, liêm chính, chí công, vô tư", "Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ
nghĩa cá nhân"; tấm gương sáng ngời "Hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục
vụ nhân dân"; "Xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh, là đạo đức, là văn
minh"... của Người được tuyên truyền và thực hiện.
84
Qua thực tế triển khai cuộc vận động, đa số cán bộ, công chức nhận thức
rõ hơn việc học tập thấm nhuần và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là
công việc thiết thực với mỗi người, đem lại lợi ích cho mình, cho gia đình, quê
hương, đất nước... Nhiều người đã thấy rõ việc nghiên cứu, học tập và làm theo
tư tưởng đạo đức cán bộ công chức của Hồ Chí Minh không thể là một phong
trào, làm một lần là xong mà phải kiên trì, tiến hành lâu dài, phát huy sức mạnh
của toàn Đảng, toàn hệ thống chính trị, trước hết là trong Đảng, trong đội ngũ
cán bộ công chức. Từ đó, khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của tư tưởng về
đạo đức cán bộ, công chức của Hồ Chí Minh và giá trị hiện thời của nó.
Hai là, nội dung giáo dục xây dựng đạo đức công chức đã từng bước bám
sát tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Ở đây, các chủ thể giáo dục đã vận dụng
sáng tạo trong sự định hướng những phẩm chất mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh
về đạo đức công chức trong điều kiện cụ thể phải gắn với từng lĩnh vực, từng cán
bộ các cấp, các ngành khác nhau. Những khái niệm trung hiếu, cần, kiệm, liêm,
chính , chí công vô tư, yêu thương con người, tinh thần đoàn kết, ý chí phục vụ
nhân dân đã dần dần đi vào cuộc sống hàng ngày của người cán bộ công chức
Việt Nam. Chẳng hạn, giáo dục trung với nước, hiếu với dân cho cán bộ công
chức là giáo dục lòng yêu nước, yêu tổ quốc, yêu nhân dân, quý trọng nhân dân, học
tập và phục vụ lợi ích chính đáng của nhân dân, vừa là người lãnh đạo, vừa là người
đầy tớ, công bộc của dân. Thành quả nâng cao nhận thức trong cán bộ, công chức
còn đã góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của toàn Đảng và từng cơ
quan, đơn vị, góp phần vào việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết các Đại hội Đảng.
Trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ công chức, vấn đề đạo đức, giáo dục, rèn
luyện đạo đức được quan tâm hơn; nội dung cuộc vận động đã được quán triệt trong
đơn vị, cơ quan, tác động thường xuyên đối với cán bộ, đảng viên.
Ba là, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức hướng vào
việc hình thành người công chức phát triển toàn diện, phong phú, giúp họ đứng
vững trước tác động tiêu cực của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Quá
trình nghiên cứu, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức từ trung
ương đến địa phương, đã có nhiều hình thức phong phú, với những việc làm cụ
85
thể, thiết thực. Nhờ đó, những năm qua, đội ngũ cán bộ công chức đã có những
chuyển biến tích cực về đạo đức công vụ, lối sống, phong cách làm việc với nhân
dân. Cũng từ đó, xuất hiện nhiều tập thể, cá nhân cán bộ công chức có thành tích
xuất sắc trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh được phát
hiện, biểu dương và được xã hội ghi nhận.
3.2.1.2. Thành tựu vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức
được thể hiện trong các văn bản pháp luật về cán bộ, công chức
Ngay từ ngày đầu thành lập nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng, Nhà
nước ta đã quan tâm sâu sắc đến hoạt động công vụ và đội ngũ cán bộ, công
chức. Pháp lệnh cán bộ, công chức được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông
qua ngày 26-2-1998, Chủ tịch nước ký Lệnh công bố số 02/L-CTN ngày 9-3-
1998 và có hiệu lực từ ngày 1-5-1998 là sự thể chế hóa đường lối, chính sách
cán bộ của Đảng trong tình hình mới, là cơ sở pháp lý để xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức có phẩm chất đạo đức tốt, có tài năng, hết lòng phục vụ
nhân dân. Trải qua nhiều thời kỳ khác nhau, đội ngũ cán bộ, công chức đã từng
bước trưởng thành, công tác quản lý đã dần đi vào nền nếp, góp phần tích cực
vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Năm 1998, Nhà nước đã ban hành
Pháp lệnh cán bộ, công chức (được sửa đổi, bổ sung năm 2000 và năm 2003) là
cột mốc pháp lý quan trọng để tổ chức và quản lý các hoạt động công vụ và đội
ngũ cán bộ, công chức, xây dựng nền hành chính phục vụ nhân dân, từng bước
đổi mới cơ chế quản lý cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát
triển đất nước. Qua thời gian thực hiện, cùng với những thành tựu phát triển kinh
tế- xã hội, việc thực hiện Pháp lệnh cán bộ, công chức và hệ thống các văn bản
quy phạm pháp luật của Chính phủ đã góp phần làm thay đổi diện mạo của nền
hành chính, tạo tiền đề cho nước ta hội nhập sâu, rộng trên các lĩnh vực kinh tế -
văn hóa - xã hội với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Từ năm 1998 đến nay, các quy định về chế độ công vụ và quản lý cán bộ,
công chức trong giai đoạn này so với giai đoạn trước năm 1998 đã được đổi mới
và triển khai có hiệu quả.
86
Luật cán bộ, công chức hiện hành của nước ta được Quốc hội khóa XII
thông qua tại kỳ họp thứ 4 (tháng 11 năm 2008). Theo Luật này, cán bộ, công
chức được bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo, quản lý, vào các ngạch bậc khác
nhau để thực hiện công việc mang tính chuyên môn, nghiệp vụ vừa bảo đảm
được tính ổn định, vừa bảo đảm được sự phát triển của đội ngũ cán bộ, công
chức, phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Đó là việc phân định cán bộ, công chức
làm việc trong khu vực hành chính, khu vực sự nghiệp với những người làm việc
trong các tổ chức kinh tế; xác định cụ thể các nhóm cán bộ, công chức phù hợp
với đặc thù của thể chế chính trị ở Việt Nam và mô hình tổ chức bộ máy nhà
nước; nghĩa vụ, quyền lợi và những việc cán bộ, công chức không được làm đã
được quy định.
Thực tiễn đặt ra yêu cầu cải cách nền công vụ, mà cụ thể là nâng cao trách
nhiệm công vụ và đạo đức công chức nhằm phục vụ sự phát triển kinh tế - xã
hội, phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn được đặt ra một cách cấp thiết. Quyết
tâm chính trị nhằm nâng cao trách nhiệm công vụ và đạo đức công chức của
Đảng và Nhà nước thể hiện qua việc Chính phủ ban hành Nghị định số
103/2007/NĐ-CP ngày 14/6/2007 về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan,
tổ chức, đơn vị và trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí; Nghị định số 107/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006
về xử lý trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra
tham nhũng trong cơ quan, tổ chức; Quyết định 129/2007/QĐ-TTg ngày
2/8/2007 của Thủ tướng về quy chế văn hóa công sở tại các cơ quan hành chính
nhà nước; các văn bản pháp luật liên quan (Luật phòng chống tham nhũng, Luật
thực hành tiết kiệm, chống tham ô lãng phí; các quy định trong Điều lệ Đảng...)
đều là những văn bản mang tính quy phạm pháp luật về nội dung và hình thức
nhằm xây dựng đạo đức, phẩm chất, lối sống cho cán bộ, công chức ngày càng
hoàn thiện, phù hợp với sự phát triển đất nước...
Có thể nói, trong những năm vừa qua, các Nghị định trên của Chính phủ
được thực thi trên thực tế đã góp phần xác định rõ ràng và công khai trách nhiệm
của công chức khi để xảy ra những vụ tiêu cực, tham nhũng, lãng phí lớn trong
87
cơ quan mình phụ trách, đảm bảo tính kỷ cương trong quản lý nhà nước, trách
nhiệm công vụ, tạo niềm tin trong nhân dân.
Quy định số 101-QĐ/TW ngày 7-6-2012 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo
chủ chốt các cấp yêu cầu cán bộ có chức vụ càng cao thì càng phải gương mẫu.
Một trong những nội dung phải gương mẫu là tác phong sâu sát thực tế, gần gũi
để thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng chính đáng của quần chúng nhân dân. Có ý
thức phục vụ nhân dân; làm việc với thái độ khách quan, công tâm, tập trung sức
giải quyết những lợi ích chính đáng của nhân dân; lắng nghe tâm tư, nguyện
vọng của nhân dân, chủ động đối thoại với nhân dân và cán bộ dưới quyền. Kiên
quyết đấu tranh với những biểu hiện vô cảm, quan liêu, cửa quyền, hách dịch và
các hành vi nhũng nhiễu, gây phiền hà nhân dân.
Hiện nay, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã tổ chức, chỉ đạo các Bộ,
ngành, địa phương, các cơ quan truyền thông khẩn trương triển khai việc tuyên
truyền, phổ biến pháp luật về phòng chống tham nhũng gắn với việc thực hiện
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng và việc: Đẩy mạnh
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, có sự liên hệ
chặt chẽ với thực tiễn nhằm nâng cao nhận thức chính trị, ý thức tự phê bình và
phê bình, đức tính cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư… "Năm 2016, hơn 2,8
triệu lượt cán bộ, công chức, viên chức, người dân được phổ biến, giới thiệu,
giáo dục pháp luật về phòng chống tham nhũng với hơn 23 nghìn lớp tuyên
truyền, quán triệt pháp luật về phòng chống tham nhũng được tổ chức và trên
250 nghìn cuốn sách, tài liệu về phòng cống tham nhũng được phát hành. Thanh
tra Chính phủ đã tổ chức Hội nghị toàn quốc sơ kết 2 năm thực hiện Chỉ thị số
10/CT-TTg ngày 12/6/2013 về việc đưa nội dung phòng chống tham nhũng vào
giảng dạy tại các cơ sở giáo dục đào tạo từ năm học 2013-2014. Bộ Tư pháp đã
ban hành hướng dẫn thực hiện Đề án tuyên truyền, phổ biến pháp luật về phòng
chống tham nhũng năm 2016" [13].
Để thực hiện tốt những văn bản pháp luật về cán bộ, công chức, mỗi cán
bộ, công chức đều thường xuyên phải xem xét lại mình, xem xét cái gì đúng, cái
88
gì sai, nguyên nhân vì đâu và suy nghĩ, tìm cách sửa chữa để làm việc tốt hơn,
sống đẹp hơn. Người cán bộ, công chức cần khiêm tốn lắng nghe, tiếp thu ý kiến
phê bình của đồng nghiệp để từ đó, chuyển thành nhận thức và hành động tự
giác. Đây là vấn đề rất quan trọng đối với việc rèn luyện phong cách người cán
bộ cách mạng. Chính phong cách đó là cơ sở để cho hoạt động của người cán bộ
ngày càng hiệu quả, và là tấm gương đối với quần chúng nhân dân, góp phần
củng cố lòng tin của họ vào sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng.
3.2.1.3. Thành tựu việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công
chức trong việc tạo động lực, khuyến khích cán bộ, công chức
Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và chính
quyền địa phương các cấp để khắc phục tình trạng chồng chéo, trùng lắp về chức
năng, nhiệm vụ trong hoạt động của bộ máy nhà nước. Chức năng của các bộ, cơ
quan ngang bộ đã được bổ sung và hoàn thiện theo hướng chủ yếu là xây dựng,
hướng dẫn và kiểm tra thực hiện pháp luật, chính sách; tập trung vào hoạt động
quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực. Việc triển khai thực thi phương án đơn
giản hóa thủ tục hành chính theo 25 Nghị quyết chuyên đề của Chính phủ đã
được các bộ, ngành thực hiện cơ bản hoàn thành với việc đã đơn giản hóa
4.525/4.723 thủ tục hành chính, đạt tỷ lệ 95,8% (tính đến hết Quý I năm 2016).
Thủ tục hành chính quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật đã được tăng
cường kiểm soát, cơ bản bảo đảm chỉ ban hành các thủ tục hành chính đáp ứng
tiêu chí về sự cần thiết, hợp lý, hợp pháp và có chi phí tuân thủ thấp nhất [6,
tr.26]. Tuy nhiên, đây mới là con số tự báo cáo của các bộ, ngành, địa phương.
Cơ chế một cửa tiếp tục được đẩy mạnh triển khai tại các địa phương với
nhiều cách làm mới, tạo sự chuyển biến tích cực trong giải quyết thủ tục hành
chính cho người dân, doanh nghiệp theo hướng công khai, minh bạch, thuận tiện.
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 09/2015/QĐ-TTg ngày
25/3/2015 về Quy chế thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông tại cơ
quan hành chính nhà nước ở địa phương thay thế Quyết định số 93/2007/QĐ-
TTg ngày 22/6/2007. Đến nay, trên phạm vi cả nước đã có 10.960/11.164 (đạt
89
tỷ lệ 98,2%) số đơn vị hành chính cấp xã, 704/713 (đạt tỷ lệ 98,7%) số đơn vị
hành chính cấp huyện và 1.114/1.204 (đạt tỷ lệ 92,5%) số cơ quan chuyên
môn cấp tỉnh đã triển khai thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên
thông; có 343/713 (đạt tỷ lệ 48,1%) số quận, huyện, thị xã, thành phố tại các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã triển khai mô hình một cửa liên
thông hiện đại cấp huyện. Việc thực hiện cơ chế một cửa đã làm thay đổi mối
quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với các tổ chức, công dân theo
hướng phục vụ, nâng cao chất lượng hiện đại hóa công sở hành chính theo
chủ trương của Chính phủ.
Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan trong nền công vụ được điều chỉnh
từng bước phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước trong điều kiện phát triển kinh
tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu tổ chức bộ máy hành
chính nhà nước từ Trung ương đến địa phương được điều chỉnh, sắp xếp theo
hướng ngày càng tinh gọn, hợp lý hơn. Đồng thời với quá trình chuyển đổi cơ
chế kinh tế, từng bước làm rõ phạm vi và nội dung chức năng quản lý nhà nước
trên các lĩnh vực, trong những năm qua, chúng ta đã tiến hành điều chỉnh lại tổ
chức bộ máy các cơ quan hành chính nhà nước.
Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức, đặc biệt là Quyết định số
1557/QĐ-TTg ngày 18/10/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án "Đẩy
mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức" triển khai nhằm xây dựng một nền
công vụ "chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động, minh bạch, hiệu quả" với
những kết quả tích cực trên các nội dung cụ thể như:
Thứ nhất; về xây dựng vị trí việc làm và cơ cấu công chức, viên chức:
Tính đến hết năm 2015, Bộ Nội vụ đã thẩm định và phê duyệt danh mục vị trí
việc làm của 63/63 địa phương và các bộ, ngành, như: Bộ Lao động, Thương
binh và Xã hội; Thanh tra Chính phủ; Bộ Khoa học và Công nghệ; Văn phòng
Chính phủ; Bộ Nội vụ; Ủy ban Dân tộc…
Thứ hai; về việc hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, chức danh công chức,
viên chức: Đến hết năm 2015, Bộ Nội vụ đã cùng các bộ quản lý công chức
chuyên ngành ban hành được 59 tiêu chuẩn chức danh ngạch công chức.
90
Thứ ba; về việc nâng cao chất lượng thi tuyển, thi nâng ngạch công chức:
Bộ Nội vụ và một số bộ, ngành, địa phương đã ứng dụng phần mềm trực tuyến
vào thi tuyển công chức. Theo đề xuất của Bộ Nội vụ, Thủ tướng Chính phủ yêu
cầu các bộ, ngành Trung ương và 05 thành phố trực thuộc Trung ương khi tổ
chức tuyển dụng công chức phải thực hiện việc tổ chức thi trên máy tính và giao
Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng ngân hàng câu
hỏi để sử dụng cho các môn thi trên máy vi tính trong kỳ thi tuyển công chức.
Hàng năm, Bộ Nội vụ đã ban hành và triển khai kế hoạch tổ chức thi nâng ngạch
công chức theo nguyên tắc cạnh tranh; chú trọng nâng cao chất lượng đề thi,
công tác tổ chức thi, bảo đảm khách quan, công bằng, không còn tình trạng nợ
điều kiện, tiêu chuẩn dự thi và áp dụng nhiều biện pháp phòng, chống tiêu cực
trong thi nâng ngạch công chức.
Thứ tư; về đổi mới phương thức tuyển chọn lãnh đạo cấp vụ, cấp sở, cấp
phòng; quy định chế độ thực tập, tập sự lãnh đạo, quản lý: Đã có 06 bộ, ngành
và 36 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện thí điểm việc thi tuyển
lãnh đạo, quản lý cấp vụ, cấp sở, cấp phòng, bước đầu tạo được môi trường cạnh
tranh, thu hút người có phẩm chất, năng lực tốt tham dự vào quá trình tuyển
chọn, được dư luận ủng hộ.
Thứ năm; về việc hoàn thiện cơ chế đánh giá, phân loại công chức, viên
chức: Công tác đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, viên chức hàng năm
đang thực hiện theo các quy định của Đảng và Nhà nước. Bộ Nội vụ đã trình
Chính phủ ban hành Nghị định số 56/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 về đánh
giá và phân loại cán bộ, công chức, viên chức, trong đó quy định về nguyên
tắc, căn cứ, nội dung, trình tự, thủ tục, tiêu chí, thẩm quyền đánh giá và phân
loại cán bộ, công chức, viên chức hàng năm theo quy định của Luật Cán bộ,
công chức và Luật Viên chức.
Thứ sáu; về quy định chế độ tiến cử và chính sách thu hút, phát hiện,
trọng dụng và đãi ngộ người có tài năng trong hoạt động công vụ: Để thu hút
những người có tài năng, kinh nghiệm công tác (kể cả khu vực ngoài nhà nước)
vào làm việc trong các cơ quan nhà nước, Chính phủ đã có quy định về việc xét
91
tuyển đặc cách đối với những người tốt nghiệp thủ khoa, tốt nghiệp loại giỏi,
xuất sắc ở nước ngoài hoặc có kinh nghiệm công tác từ 05 năm trở lên, đáp ứng
được ngay yêu cầu của vị trí việc làm cần tuyển dụng. Đồng thời, để thu hút
nguồn nhân lực chất lượng cao vào làm việc, Bộ Nội vụ đã xây dựng Đề án về
chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ
khoa học trẻ.
Thứ bảy; về việc chấn chỉnh công tác quản lý cán bộ, công chức, viên
chức: Để nâng cao kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động công vụ, Thủ tướng Chính
phủ ban hành Chỉ thị số 07/CT-TTg ngày 19/3/2014 về việc đẩy mạnh phòng,
chống tiêu cực trong công tác quản lý công chức, viên chức và thi đua khen
thưởng. Theo đó, Bộ trưởng Bộ Nội vụ đã ký Quyết định số 922/QĐ-BNV ngày
29/8/2014 ban hành Chương trình hành động để triển khai có hiệu quả Chỉ thị số
07/CT-TTg. Để giải quyết những bất cập và các vấn đề trong quản lý đội ngũ
cán bộ, công chức cấp xã do thực tế đặt ra, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
29/2013/NĐ-CP ngày 08/4/2013 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 về chức danh, số lượng và chế độ, chính sách
đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động
không chuyên trách ở cấp xã.
Thứ tám; về việc thực hiện chính sách tinh giản biên chế để nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức: Bộ Nội vụ đã chủ trì phối hợp với các cơ quan
có liên quan xây dựng Đề án tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức. Đề án đã được Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần
thứ 10. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quyết định số 2218/QĐ-TTg ngày
10/12/2015 về Kế hoạch của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 39/NQ-TW.
Các bộ, ngành, địa phương đang triển khai thực hiện Nghị định số 108/2014/NĐ-
CP ngày 20/11/2014 về chính sách tinh giản biên chế.
Thứ chín; về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức: Triển khai
Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05/3/2010 của Chính phủ về đào tạo, bồi
dưỡng công chức, Bộ Nội vụ đã phối hợp với các bộ, nghành, địa phương tổ
chức biên soạn và ban hành mới hệ thống chương trình, tài liệu đào tạo, bồi
92
dưỡng công chức. Thực hiện Quyết định số 1374/QĐ-TTg ngày 12/8/2011
của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức giai đoạn 2011-2015, thời gian qua, các bộ, ngành, địa phương
đã đẩy mạnh các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và đạt được
nhiều kết quả tích cực.
Trong giai đoạn 2011 - 2015, cải cách tiền lương và các chế độ chính sách
khác đối với đội ngũ cán bộ công chức, viên chức được thực hiện theo lộ trình.
Từ tháng 01/2015, đã tăng thêm tiền lương bằng 8% mức lương hiện hưởng của
cán bộ, công chức, viên chức có hệ số lương từ 2,34 trở xuống. Bên cạnh đó còn
hoàn thiện các chế độ bảo hiểm xã hội nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng
của các bên tham gia bảo hiểm xã hội, đảm bảo sự bình đẳng, công bằng hơn
trong thụ hưởng bảo hiểm xã hội, đảm bảo nguyên tắc đóng hưởng, sự bền vững
của hệ thống bảo hiểm xã hội... [6, tr.29-33].
Như vậy, có thể khái quát một số thành tựu chung đạt được trong việc vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức như sau:
Một là, thể chế của nền hành chính được cải cách và dần được hoàn thiện
cơ bản phù hợp với yêu cầu chủ trương quan trọng của Đảng và cơ chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hai là, chất lượng giải quyết thủ tục hành chính được nâng cao rõ rệt qua
công tác kiểm soát, ban hành mới, rà soát, đơn giản hóa thủ tục hành chính; mở
rộng hình thức, phạm vi công khai, minh bạch hóa thủ tục hành chính và các
thông tin quản lý nhà nước, tập trung cải thiện môi trường kinh doanh, nâng
cao sức cạnh tranh. Cơ chế một cửa tiếp tục được duy trì, mở rộng, nâng cao
chất lượng, hiệu quả giải quyết thủ tục hành chính cho người dân, tổ chức
theo hướng công khai, minh bạch, thuận tiện. Đã tăng cường đánh giá mức độ
hài lòng của công dân, tổ chức, lấy đó làm thước đo về chất lượng phục vụ
của cơ quan hành chính.
Ba là, bộ máy hành chính từ Trung ương đến địa phương đã phân định rõ
nhiệm vụ, quyền hạn, cơ bản khắc phục tình trạng chồng chéo, bỏ trống chức
năng, nhiệm vụ, phạm vi, đối tượng quản lý; cơ cấu bên trong đã có sự phân
93
định rõ hơn giữa cơ quan quản lý và đơn vị sự nghiệp. Hiệu lực, hiệu quả
quản lý hành chính nhà nước của hệ thống hành chính được nâng cao, tính
thống nhất, công khai, minh bạch của nền hành chính được cải thiện và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân. Vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các cơ
quan hành chính nhà nước đã có nhiều điều chỉnh cho phù hợp, bảo đảm quản
lý nhà nước và phục vụ xã hội. Phân công, phân cấp giữa cơ quan Trung ương
với địa phương và giữa các cấp ở địa phương với nhau đã có nhiều tiến bộ
vượt bậc, đặc biệt là phân cấp về quản lý tài chính, ngân sách, quản lý cán bộ,
công chức, viên chức…
Bốn là, công tác xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức có nhiều đổi mới; đã hoàn thành triển khai xác định vị trí việc
làm và cơ cấu công chức, viên chức; hệ thống quản lý công vụ được tổ chức theo
nguyên tắc lấy năng lực và tính chuyên nghiệp cao làm nền tảng để phát triển
Cải cách tài chính công đã đạt được kết quả tích cực; công tác quản lý tài chính,
ngân sách có nhiều chuyển biến rõ nét; việc giám sát chi tiêu bằng quy chế chi
tiêu nội bộ đã có nhiều chuyển biến tích cực, làm tăng tính hiệu quả của chi tiêu
công, hạn chế tham nhũng, lãng phí trong sử dụng ngân sách nhà nước, góp phần
tăng cường kỷ luật tài chính, từng bước tăng tính minh bạch trong thực hiện
ngân sách. Các khoản chi ưu tiên cho các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội
được bảo đảm; giảm thiểu các khoản chi mang tính bao cấp; các thủ tục cấp phát
ngân sách được đơn giản hóa; công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát tài chính
được tăng cường.
Năm là, ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan hành
chính được triển khai một cách đồng bộ từ Trung ương đến địa phương, từng
bước phấn đấu theo hướng "Chính phủ điện tử", "Chính quyền điện tử", nổi bật
là hệ thống một cửa hiện đại cấp quận, huyện, phường, xã, mô hình trung tâm
hành chính công; hệ thống xác thực hồ sơ điện tử của công dân, cán bộ, công
chức, viên chức trong việc thực hiện các giao dịch hành chính. Mạng lưới kết nối
thông tin giữa các cơ quan đơn vị đang ngày càng mở rộng, hình thành cơ sở dữ
liệu chung trong nhiều lĩnh vực quản lý. Chính phủ đã tích cực chuẩn bị dự thảo
94
để trình Quốc hội nhiều dự án luật, pháp lệnh cũng như đã ban hành nhiều văn
bản quy phạm pháp luật thuộc phạm vi trách nhiệm của Chính phủ, góp phần
tích cực vào việc bổ sung hoàn thiện hệ thống thể chế, từng bước tạo môi trường
hành lang pháp lý đồng bộ, thuận lợi cho các hoạt động kinh tế - xã hội của đất
nước trong điều kiện mới.
Sáu là; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa: công tác cải cách thủ tục hành
chính, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, phòng, chống quan liêu, tham
nhũng có bước chuyển biến tích cực.
Chính phủ đã xây dụng Đề án 30, chỉ đạo cải cách thủ tục hành chính
khẩn trương, quyết liệt. Các bộ, ban, ngành, đoàn thể, địa phương đều có những
chuyển biến khá roc trong cải cách thủ thục hành chính; rà soát, hủy bỏ nhiều
các thủ tục hành chính không cần thiết gây phiền nhiễu trong nhân dân đẩy
nhanh việc hoàn thành các giấy tờ, các thủ tục hành chính, dịch vụ công, như cấp
chứng minh thư, hộ chiếu, khai nộp thuế, khai hải quan, công chứng... được dư
luận xã hội ghi nhận.
Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về tăng cường sự lãnh
đạo của Ðảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí và Luật
Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được chỉ
đạo tích cực, đạt một số kết quả. Nhiều vụ án tham nhũng được đưa ra xét xử.
Trên một số lĩnh vực, lãng phí, tham nhũng được kiềm chế Trong những năm
qua, Ðảng và Nhà nước tiếp tục ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết, văn bản quy
phạm pháp luật nhằm phát huy hơn nữa quyền làm chủ, bảo đảm lợi ích của nhân
dân, vai trò giám sát của nhân dân đối với hoạt động của các tổ chức đảng, cơ quan
nhà nước, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật được coi trọng. Các
cấp uỷ đảng, chính quyền đã chú ý lắng nghe, tăng cường đối thoại với các tầng
lớp nhân dân, tôn trọng các loại ý kiến khác nhau.
Việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh
được chú trọng. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân phát
huy tốt hơn vai trò tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; củng
95
cố, mở rộng tổ chức, phát triển đoàn viên, hội viên, tổ chức nhiều phong trào
thi đua, nhiều cuộc vận động, như "Ngày vì người nghèo" của Mặt trận Tổ
quốc. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị đã cùng Nhà nước chăm lo,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, tham gia quản
lý nhà nước, quản lý xã hội, góp phần tích cực vào những thành tựu chung
của đất nước.
3.2.1.4. Những thành tựu trong việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức công chức trong thực thi công vụ của bản thân đội ngũ công chức
Những quan điểm trung với nước, hiếu với dân, cần, kiêm, liêm, chính,
chí công vô tư trong đạo đức công chức, đó là cơ sở giúp cho cán bộ công chức
thời gian qua đã có được những kết quả nhất định trong việc khơi dậy, phát huy
những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp, đấu tranh khắc phục sự suy thoái về
đạo đức, lối sống; chặn đứng, đẩy lùi quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tệ
nạn xã hội. Hình thành, phát triển các giá trị đạo đức, xây dựng con người Việt
Nam xã hội chủ nghĩa có nhân cách cao đẹp, bản lĩnh chính trị vững vàng, lối
sống văn minh. Như vậy, nội dung cốt lõi của cuộc vận động là giáo dục và rèn
luyện cho cán bộ, đảng viên và cho mọi thành viên trong xã hội là đạo đức cách
mạng, đạo đức của con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Kết quả điều tra dư luận xã hội của Ban Tuyên giáo Trung ương và Ban
Tuyên giáo một số tỉnh, thành phố đều cho thấy, dư luận thừa nhận qua những
năm triển khai cuộc vận động đã có sự chuyển biến khá rõ của cán bộ công chức
trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Về tác động của
cuộc vận động đến nhận thức, có 84% người được hỏi cho rằng đã có chuyển
biến, trong đó có 19% cho rằng đã tạo được sự chuyển biến sâu sắc, gắn liền với
ý chí tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên; 65% ý kiến cho rằng có
chuyển biến nhưng chưa sâu sắc... Về những chuyển biến trong việc làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh năm 2010 so với năm 2007, theo kết quả điều
tra dư luận xã hội của Ban Tuyên giáo Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, có
82,5% người được hỏi cho rằng đã có sự chuyển biến, trong đó có 39,3% cho
rằng có chuyển biến tốt và 43,2% cho rằng có chuyển biến. Về chuyển biến
96
trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, có 30,5% người được hỏi cho rằng có
chuyển biến tốt và 51,6 % cho rằng có chuyển biến. Về chống quan liêu, tham
nhũng, có 66,6% người được hỏi cho rằng có chuyển biến, trong đó có 22,8%
cho rằng có chuyển biến tốt [1].
Sự chuyển biến này được thể hiện ở một số nội dung cụ thể sau:
Thứ nhất; việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí đã có những chuyển
biến. Thực hiện làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí trong điều kiện suy giảm kinh tế càng có ý nghĩa quan
trọng và được các cấp ủy đảng, chính quyền quan tâm chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc.
Tại nhiều địa phương, cơ sở, tiết kiệm trở thành phong trào, có sự tham gia đông
đảo của cán bộ, đảng viên, các đoàn thể chính trị. Các giải pháp tiết kiệm tài sản
công, hạn chế hoặc tạm dừng xây dựng trụ sở cơ quan, mua sắm xe con được
quan tâm chỉ đạo và thực hiện kiên quyết.
Tiết kiệm đã thể hiện ngày càng rõ hơn trong việc tự giác giảm, loại bỏ
những chi phí không cần thiết, bất hợp lý trong cưới hỏi, tang ma, lễ hội... của
từng gia đình, dòng họ. Hành vi tiết kiệm chi tiêu công, từ cái nhỏ nhất như
trang giấy, mực in, ghim gài, đến ô tô, vé máy bay, đi công tác nước ngoài...
đã thể hiện khá rõ trong các cơ quan đảng, nhà nước, trong nhận thức của lãnh
đạo các cấp, thành thói quen của nhiều cán bộ, đảng viên, công chức. Qua báo
cáo cho thấy, có cơ quan bộ, ngành, tập đoàn kinh tế nhà nước... tiết kiệm
được hàng trăm tỷ đồng mỗi năm. Có nơi, tiền tiết kiệm trong chi phí thường
xuyên được công bố công khai và góp vào quỹ xây dựng nhà tình nghĩa ở các
địa phương.
Thứ hai; ý thức trách nhiệm của các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn
thể, cán bộ, đảng viên, công chức được nâng cao hơn, góp phần thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ chính trị. Nét nổi bật nhất là ý thức trách nhiệm của cán
bộ, đảng viên, quyết tâm vượt qua những khó khăn thách thức đã thể hiện khá
rõ trong điều kiện tình hình quốc tế và trong nước có nhiều diễn biến phức
tạp, qua đó thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của Đảng. Có thể thấy,
"đội ngũ cán bộ, công chức nước ta hiện nay được trưởng thành và rèn luyện
97
trong công cuộc đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước và xây dựng
chủ nghĩa xã hội nên hầu hết đều có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định
với mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, trung thành với Tổ quốc, với nhân
dân. Quan điểm, lập trường đúng đắn, có ý thức tôn trọng và biết phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, giữ được mối liên hệ tốt với nhân dân, có tinh
thần trách nhiệm và ý thức tổ chức kỷ luật, cố gắng thực hiện tốt nhiệm vụ
được phân công" [84, tr.96].
Mặc dù còn chưa được đào tạo, bồi dưỡng kịp thời một cách cơ bản và
đầy đủ những kiến thức quản lý nhà nước, quản lý kinh tế trong điều kiện
chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu sang cơ chế thị trường và hội nhập quốc
tế, nhưng đại đa số cán bộ, công chức cần cù, chịu khó, tích cực học hỏi, phấn
đấu vươn lên thực hiện có kết quả các nhiệm vụ chuyên môn, tạo bước chuyển
quan trọng về kinh tế - xã hội, góp phần ổn định chính trị và thúc đẩy sự nghiệp
đổi mới của đất nước.
Đặc biệt, trong hoàn cảnh đời sống còn khó khăn, tiền lương và thu
nhập thực tế còn thấp, lại chịu nhiều tác động tiêu cực của cơ chế thị trường,
nhưng số đông cán bộ công chức giữa được phẩm chất đạo đức, tư cách và lối
sống lành mạnh; khắc phục khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ. Đúng như Đảng
ta đã khẳng định: Phần lớn cán bộ, đảng viên nhất trí, tin tưởng, quyết tâm
thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng có sự đóng góp lớn cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đó là kết quả của tinh thần và ý chí quyết tâm vượt qua khó khăn thách
thức, chủ động, sáng tạo của mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi ngành, địa phương,
đoàn thể; trong đó có sự đóng góp của cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh".
3.2.1.5. Nguyên nhân của những thành tựu
Những thành tựu việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công
chức nước ta những năm qua có được do nhiều nguyên nhân khác nhau:
Một là, Bộ Chính trị, Ban Bí thư có sự thống nhất cao và quan tâm đến
công tác lãnh đạo, chỉ đạo triển khai cuộc vận động. Quá trình chuẩn bị triển
98
khai cuộc vận động đã qua nhiều bước, có sự thống nhất cao từ Trung ương đến
địa phương. Do tình trạng suy thoái đạo đức, lối sống trong xã hội nói chung và
trong đội ngũ cán bộ công chức nói riêng đã xuất hiện và có xu hướng tăng lên.
Để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đòi hỏi cần làm trong sạch các cơ quan nhà
nước và đội ngũ cán bộ công chức, việc nghiên cứu, giáo dục tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức công chức là yêu cầu tất yếu.
Hai là, sự tích cực, chủ động, sáng tạo của các ngành, địa phương, đoàn
thể trong việc giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức.
Ba là, sự tích cực, tự giác của cán bộ, công chức, đảng viên, nhân dân,
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội. Sự hưởng ứng sôi nổi, tích
cực của cán bộ công chức, đảng viên, các tổ chức chính trị - xã hội và các
tầng lớp nhân dân đã tạo lực lượng thúc đẩy việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức công chức diễn ra mạnh mẽ hơn trong các tổ chức đảng, cơ
quan nhà nước.
3.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân trong việc vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay
3.2.2.1. Một số hạn chế của vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
công chức trong công tác giáo dục đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay
Một là; hiện nay, từ diễn biến phức tạp của tình hình đất nước, khu vực và
trên thế giới, việc nghiên cứu, vận dụng lý luận chính trị và tư tưởng Hồ Chí
Minh gặp không ít khó khăn, trong chúng ta còn có biểu hiện nhận thức lệch lạc,
thiếu đúng đắn về vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt này. Văn kiện Đại hội XII
của Đảng đã đánh giá: "Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa đáp
ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới. Hệ thống, chương trình đào tạo, bồi dưỡng
lý luận chính trị còn nhiều bất hợp lý" [29, tr.193]. "tăng cường xây dựng, chỉnh
đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ" [29, tr.51].
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành T.Ư Đảng (khóa XII) chỉ ra một
số biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, trong đó có sự "hoài nghi, thiếu tin
tưởng vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh" và "nhận thức sai lệch
99
về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị; lười học tập
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị
quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Hậu quả của nhận thức sai lệch trong nghiên cứu, vận dụng lý luận
chính trị và tư tưởng Hồ Chí Minh nguy hiểm không kém loại quan điểm phản
bác, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh của các thế
lực thù địch, vì thế không thể xem thường và phải khắc phục một cách kiên
quyết, triệt để. Bởi nhận thức sai lệch có thể đẩy tới tình trạng từ hiểu sai dẫn
tới xa rời định hướng lý tưởng, đi ngược hoặc đi chệch con đường được Đảng
và Bác Hồ lựa chọn.
Một số biểu hiện cụ thể như: nghiên cứu lý luận thiếu tính thực tiễn; minh
họa đường lối, quan điểm một cách hời hợt, nông cạn, chưa cắt nghĩa đủ độ sâu
sắc với vấn đề thực tiễn đặt ra; một số nghiên cứu sử dụng luận điểm kinh điển
mà không phân tích bản chất sự vật, hiện tượng, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh bị xơ cứng, thiếu tính sáng tạo, sống động. Đây là điều
mà các thế lực thù địch lợi dụng để xuyên tạc, hạ thấp, đi đến chỗ phủ nhận tư
tưởng Hồ Chí Minh và nền tảng tư tưởng của Đảng. Cùng với đó, còn có nhận
thức đơn giản mà thực ra chưa đầy đủ, chưa chuẩn xác về tư tưởng Hồ Chí Minh
như cho rằng: "Tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa Mác - Lênin ở Việt Nam",
biểu hiện khá rõ nét khác trong nhận thức sai lệch là đề cao vai trò của kinh
nghiệm và các quan hệ trong lãnh đạo, quản lý mà coi nhẹ việc học tập, nghiên
cứu lý luận chính trị và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hai là; hiện nay, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa nhận
thức đầy đủ, đúng đắn về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc học lý luận. Do đó,
chưa tích cực, chủ động đầu tư thời gian thích đáng cho việc nghiên cứu lý luận
chính trị và tư tưởng Hồ Chí Minh. Mặt khác, nhiều người đi học chỉ để hoàn
thiện hệ thống văn bằng, chứng chỉ, chưa chú trọng chất lượng, hiệu quả thu
được về nhận thức lý luận. Một số người khi học tập lý luận chính trị, tư tưởng
Hồ Chí Minh lại không liên hệ vào công tác, tư tưởng để tự đổi mới bản thân về
lập trường, quan điểm, phương pháp, do đó không khắc phục được hạn chế,
100
không tiến bộ cả về phẩm chất và năng lực công tác. Cùng với các biểu hiện trên
là sự thiếu tính Đảng trong bảo vệ chân lý, sự thờ ơ, không chủ động tích cực
đấu tranh chống sự xuyên tạc, chống phá chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh của các thế lực xấu, thù địch, các phần tử chống đối chế độ. Đây đang
là một biểu hiện không thể coi nhẹ với cán bộ, công chức, đảng viên.
Hiện tượng coi nhẹ việc dạy và học, là bệnh hình thức trong nghiên cứu lý
luận chính trị nói chung, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh nói
riêng, đang diễn ra ở một số cơ sở giáo dục, một số cán bộ, giảng viên và học
viên, nhất là ở những tổ chức chính trị xã hội, những học viên không chuyên
ngành lý luận chính trị. Nội dung, hình thức, phương pháp giảng dạy lý luận
chính trị và tư tưởng Hồ Chí Minh chậm đổi mới, chưa chú trọng rèn luyện, hình
thành và phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực vận dụng lý luận của người
học. Việc đánh giá chất lượng học còn có biểu hiện nương nhẹ, hình thức, phiến
diện. Do vậy, chưa đánh giá đúng phẩm chất chính trị, lập trường và bản lĩnh của
người học. Tình hình đó dẫn đến tình trạng đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ bằng
cấp, chứng chỉ về lý luận chính trị nhưng vẫn có nhận thức sai lệch, vận dụng
không đúng trong lý luận và hoạt động thực tiễn.
Ba là; việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, học tập
và rèn luyện tư tưởng đaọ đức công chức trong xây dựng đạo đức công chức đã
đem lại nhiều hiệu quả, tuy nhiên nó chưa trở thành việc làm thường xuyên,
chưa thành ý thức tự giác của không ít tổ chức đảng, cơ quan, địa phương, đơn
vị và một bộ phận cán bộ, công chức, đảng viên. Không ít nơi vẫn coi đây như
một phong trào, một cuộc vận động; học nhiều nhưng kết quả làm theo đạo đức
của Bác còn nhiều hạn chế. Trách nhiệm nêu gương làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt, của cán bộ, đảng viên,
công chức, viên chức chưa cao. Việc cụ thể hóa và tổ chức thực hiện các chuẩn
mực đạo đức, đăng ký học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ở
nhiều nơi vẫn còn hình thức. Việc thực hiện Chỉ thị chưa đạt mục đích đẩy lùi
sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và các tệ nạn tham nhũng,
tiêu cực…
101
Các hạn chế về nhận thức là một trong những nguyên nhân của tình trạng
"lý luận vênh với thực tiễn", thậm chí sai mà không biết. Sự hiểu biết không đến
nơi, đến chốn và sự vận dụng máy móc, giáo điều đã làm cho lý luận trở nên xơ
cứng, méo mó, thiếu hấp dẫn. Đó là một điều kiện, một lý do quan trọng để các
thế lực thù địch lợi dụng công kích, phủ định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh. Đã đến lúc chúng ta cần nhìn nhận đúng mức tác hại và tìm cách
khắc phục những lệch lạc cả về nhận thức và hoạt động nghiên cứu, vận dụng lý
luận chính trị, tư tưởng Hồ Chí Minh một cách thực tế, thiết thực, hiệu quả hơn.
Bốn là; Việc cụ thể hóa những nội dung xây dựng đạo đức công chức theo
tư tưởng Hồ Chí Minh một số nơi chưa được thường xuyên và thiết thực, các
hình thức giáo dục còn hạn chế. Chẳng hạn, tại Hội nghị toàn quốc tổng kết 5
năm thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW về Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh, Đảng ta đã chỉ rõ những hạn chế, khuyết điểm như: Công tác lãnh
đạo, chỉ đạo còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến kết quả triển khai cuộc vận động;
nội dung học tập các chủ đề về tư tưởng đạo đức và tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh từng năm còn có chỗ trùng lặp, có lúc chưa kịp thời; việc tổ chức Hội thi
"Kể chuyện tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" ở các cấp cũng còn nhiều bất cập;
việc xây dựng các chuẩn mực đạo đức cụ thể ở một số nơi chưa đạt yêu cầu và
hiệu quả thiết thực; công tác tuyên truyền về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh,
về cuộc vận động và các gương điển hình học tập và làm theo Bác chưa được
thường xuyên, liên tục… Nội dung tuyên truyền chưa được cân đối và toàn diện.
Một số hoạt động tuyên truyền còn mang tính hình thức, thiếu hấp dẫn, không lôi
cuốn được đông người tham gia, theo dõi; trong việc chỉ đạo sơ kết, tổng kết, thi
đua, khen thưởng còn có sự lúng túng, bị động, chậm trễ nhất định, gây khó khăn
cho cơ sở...
Năm là; hạn chế trong việc nhận thức đạo đức công chức theo tư tưởng
Hồ Chí Minh và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của cán bộ công
chức. Nhìn chung, trong những năm qua, nhận thức của cán bộ, đảng viên, nhân
dân về đạo đức, rèn luyện đạo đức công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh được
nâng lên rõ rệt. Tuy nhiên, việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
102
Minh, học tập những nội dung đạo đức công chức chưa diễn ra mạnh mẽ trong
đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức. Số cán bộ, đảng viên tích cực, tâm huyết,
góp phần vào phong trào chung của cuộc vận động chủ yếu là ở cơ sở. Vai trò
nêu gương của cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh chưa được thể hiện rõ; mặc dù đây là nguyên tắc rất quan
trọng trong thực hành đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Sự gắn kết giữa nội
dung triển khai việc học tập và chấp hành đạo đức công chức, cuộc vận động với
công tác xây dựng Đảng nói chung chưa chặt chẽ. Nhiều nơi chưa đưa nội dung
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh vào sinh hoạt chi bộ đảng,
cấp uỷ đảng thường kỳ. Có nơi đã đề ra, nhưng thiếu kiểm tra, đôn đốc thực hiện
nên chỉ là hình thức.
3.2.2.2. Một số hạn chế việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
công chức thể hiện trong các văn bản pháp luật về cán bộ, công chức
Bên cạnh những kết quả và tiến bộ trong thực thi trách nhiệm công vụ và
đạo đức cán bộ, công chức, trong thời gian qua vẫn còn có một số hạn chế và yếu
kém. Biểu hiện dễ thấy là "số lượng văn bản được ban hành nhiều, nhưng chất
lượng chưa cao, chưa thể hiện nhất quán tinh thần cải cách hành chính" [12,
tr.6]. Hệ thống văn bản được ban hành còn thiếu tính toàn diện, tính cục bộ
ngành, lĩnh vực chậm được khắc phục. Thể chế quản lý quá trình thực thi công
vụ của công chức trong nền công vụ hiện vẫn đang trong quá trình xây dựng.
Mặc dù "hệ thống luật pháp đã được đổi mới và xây dựng lại một cách sâu rộng,
từ Hiến pháp đến hệ thống luật, nghị định, song còn thiếu đồng bộ, giữa các luật
được chuẩn bị bởi các bộ khác nhau, được ban hành vào các thời điểm khác nhau
còn không ít chồng chéo, mâu thuẫn với nhau. Việc thực thi pháp luật còn có
nhiều vấn đề phải đổi mới, khoảng cách giữa luật trên văn bản và luật thực tế còn
lớn" [19, tr.206]. Nền công vụ Việt Nam đang thiếu vắng những chuẩn mực cụ
thể làm thước đo đánh giá chất lượng thực thi công vụ phục vụ nhân dân của
công chức và của cả nền công vụ.
Ở nước ta, Luật Cán bộ, công chức, viên chức năm 2008 và các văn bản
từ Nghị định của Chính phủ đến các thông tư về điều chỉnh hành vi công chức có
103
đề cập đến chế định tuyển dựng, sát hạch công chức thường xuyên, nhưng còn
chung chung, thiếu định lượng. Mặc dù, các cơ quan hành chính hàng năm đều
có kiểm điểm đánh giá công chức vào dịp cuối năm nhưng vẫn còn sơ sài, thiếu
khoa học và có tính chất chiếu lệ. Những nhận xét, đánh giá công chức chưa đi
vào thực chất và vẫn còn chung chung, kết luận số đông hoàn thành nhiệm vụ.
Trong khi đó, trên thực tế nhân dân vẫn phàn nàn, không hài lòng với tư tưởng
và thái độ "dĩ hòa vi quí", ngại đụng chạm... của một bộ phận công chức. Chính
điều đó dẫn tới hệ lụy khôn lường, thậm chí sai lệch tới mức độ vô trách nhiệm
và người gánh chịu hậu quả là nhân dân, cụ thể là những người dân, tổ chức có
công việc liên quan đến các cơ quan hành chính nhà nước.
Một là; hoạt động công vụ, công tác quản lý cán bộ, công chức chưa đổi
mới và theo kịp với sự đổi mới về vai trò của Nhà nước trong quản lý đời sống
xã hội và tổ chức cung cấp các dịch vụ công cho người dân và doanh nghiệp.
Nhận thức về hoạt động công vụ, công chức vẫn mang dấu ấn của thời kỳ tập
trung bao cấp. Trong hoạt động công vụ, mối quan hệ giữa hành chính với
chính trị; hành chính với sự nghiệp công; giữa hoạt động quản lý nhà nước
mang tầm vĩ mô với hoạt động sản xuất kinh doanh chưa được phân định triệt
để và thực hiện có hiệu quả. Trên nhiều lĩnh vực, hoạt động công vụ thiếu
thống nhất, chưa đảm bảo thông suốt; kỷ luật, kỷ cương của cán bộ, công
chức chưa nghiêm; việc phân loại công chức chưa bảo đảm khoa học, khách
quan dẫn đến việc bố trí, sử dụng, quy hoạch, đánh giá và đào tạo, bồi dưỡng
công chức chưa phát huy hết hiệu quả, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của
Nhà nước đặt ra trong từng giai đoạn.
Hai là; về mặt pháp lý, chúng ta đã có Luật cán bộ, công chức và nhiều
văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ quy định về hoạt động của cán bộ,
công chức. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, các quy định của pháp luật
hiện hành chưa bao quát đầy đủ, toàn diện hoạt động công vụ, cán bộ, công
chức; chưa quy định rõ mục tiêu, nguyên tắc hoạt động công vụ trong quá
trình phục vụ nhân dân và xã hội; nghĩa vụ và trách nhiệm của công chức
trong thực thi công vụ chưa được quy định một cách hệ thống và bổ sung đầy
104
đủ thành các nhóm nghĩa vụ và trách nhiệm; chưa chú trọng đúng mức đến
quyền lợi đối với công chức như chính sách tiền lương, nhà ở và các chính
sách đãi ngộ khác; các chuẩn mực về đạo đức công vụ chưa được quy định rõ
ràng, cụ thể; chưa có quy định về thanh tra công vụ; việc điều động, thuyên
chuyển cán bộ, công chức giữa các cơ quan, tổ chức còn bất cập, thiếu sự phối
hợp chặt chẽ và ăn khớp giữa các cơ quan của tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị - xã hội với các cơ quan của nhà nước. Một số quy định về quản lý nhà
nước đối với công chức chưa tạo ra sự thống nhất trong cách hiểu và vận dụng
trong thực tiễn.
Ba là; trên thực tế, việc thực hiện tuyển dụng, sử dụng và quản lý công
chức hiện nay chủ yếu gắn với chỉ tiêu biên chế; cách thức tuyển dụng công chức
áp dụng theo chế độ làm việc lâu dài nhưng chưa phù hợp với yêu cầu xây dựng
nền hành chính hiện đại, năng động. Trong nhiều cơ quan, tổ chức, việc tuyển
dụng, bổ nhiệm, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức có xu hướng nặng về văn
bằng, chứng chỉ, chưa chú trọng nhiều đến năng lực thực thi công vụ của cán bộ,
công chức, dẫn đến tình trạng đào tạo chưa gắn với yêu cầu thực tiễn. Hiện
tượng này dẫn đến nhiều hạn chế trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ công
chức, làm suy giảm hiệu quả hoạt động công vụ và chưa thu hút nguồn nhân lực
có chất lượng cao bổ sung cho nền công vụ, trong khi xã hội đang có xu hướng
dịch chuyển lực lượng lao động sang khu vực tư.
Các hạn chế trên đã làm cho hoạt động công vụ chưa được quản lý và
kiểm soát chặt chẽ, phát sinh các tiêu cực ảnh hưởng đến đạo đức, tác phong,
lề lối làm việc của công chức, giảm sức sáng tạo trong hoạt động công vụ,
giảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan, tổ chức Nhà nước trong
quá trình phục vụ nhân dân. Các biểu hiện về thiếu tinh thần trách nhiệm, yếu
kém về năng lực, chuyên môn, kỹ năng hành chính, phong cách làm việc ở
một bộ phận cán bộ, công chức đã làm cho bộ máy hành chính trì trệ, kém
hiệu quả; các biểu hiện quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu nhân dân vẫn tồn
tại trong cán bộ, công chức làm ảnh hưởng đến lòng tin của người dân đối với
Đảng và Nhà nước.
105
3.2.2.3. Một số hạn chế trong việc cải cách hành chính
Việc cải cách thể chế hành chính mặc dù đã đạt được những kết quả tiến
bộ, quan trọng đáng ghi nhận nhưng hiện vẫn đang còn nhiều mặt hạn chế, yếu
kém, bất hợp lý, chưa đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của tiến trình phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước trong thời kỳ mới, cụ thể là:
Chưa tạo lập được một hệ thống thể chế quản lý kinh tế - xã hội một cách
toàn diện, đồng bộ, phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, dân chủ hóa đời sống xã hội trong điều kiện mở cửa hội
nhập quốc tế và tiến bộ khoa học công nghệ của thế giới hiện đại. Những hạn
chế, bất hợp lý trong mảng thể chế này là một nguyên nhân rất quan trọng của
những bức xúc, nổi cộm, nhức nhối trong đời sống xã hội hiện nay.
Thủ tục hành chính tuy đã có những tiến bộ nhất định nhưng nhìn
chung vẫn còn nhiều phức tạp, rườm rà, gây không ít phiền toái cho doanh
nghiệp và người dân; cơ chế "xin - cho" trong giải quyết các công việc của
người dân và doanh nghiệp vẫn đang tồn tại một cách khá phổ biến ở tất cả
các cấp, các cơ quan trong bộ máy hành chính. Hiện vẫn đang tồn tại nhiều
quy định ràng buộc một cách vô lý, làm trở ngại, chậm trễ cho các hoạt động
của doanh nghiệp cũng như gây khó khăn, phiền toái cho cuộc sống của người
dân. Cơ chế "một cửa" tuy được triển khai rất rộng rãi nhưng nhiều nơi, nhiều
chỗ còn mang nhiều tính hình thức, chưa đi vào thực chất, chưa có chuyển
biến thực sự về chất trong việc giải quyết công việc của người dân với tinh
thần phục vụ.
Thể chế về mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân đang còn nhiều vấn
đề quan trọng chưa được bổ sung, hoàn thiện, nhất là cơ chế dân chủ trực tiếp, cơ
chế bầu cử, cơ chế biểu đạt ý chí của người dân, cơ chế giám sát của nhân dân
đối với bộ máy nhà nước. Thể chế về tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước,
về thực thi công vụ của các cơ quan hành chính, và của mỗi cán bộ, công chức
vẫn chưa đủ rõ, có nhiều chỗ chưa cụ thể, còn chậm đổi mới theo tinh thần cải
cách, cụ thể là:
106
Thể chế về quản lý cán bộ, công chức, tuy có nhiều sửa đổi, bổ sung song
vẫn chưa có sự đổi mới cơ bản, mạnh mẽ mang tính cải cách, từ việc tuyển dụng,
sử dụng, bổ nhiệm, bãi miễn, đến đào tạo bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật, chính
sách đãi ngộ (tiền lương, thưởng), đánh giá cán bộ, công chức… Đáng chú ý là
việc triển khai thực hiện một số thể chế, chính sách mới trong quản lý cán bộ,
công chức vừa chậm, vừa không đảm bảo yêu cầu, chất lượng mà có phần mang
tính hình thức (chẳng hạn như chế độ thi tuyển, tiêu chuẩn bằng cấp, học vị…).
Sự bất cập về thể chế quản lý cán bộ công chức là nguyên nhân trực tiếp của
những yếu kém nhiều mặt của đội ngũ cán bộ công chức của nước ta so với mặt
bằng chung của công chức trong khu vực và trên thế giới. Hiện nay, chất lượng
đội ngũ cán bộ, công chức vẫn đang còn nhiều mặt yếu kém cả về năng lực và
phẩm chất, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới, phát triển đất nước và trước yêu
cầu cải cách, mở cửa, hội nhập hiện nay.
Việc cải cách thể chế tài chính công còn chậm, kết quả chưa nhiều, chưa
rõ. Một số cơ chế tài chính mới có thực hiện thí điểm nhưng chậm tổng kết, đánh
giá một cách đầy đủ, toàn diện để có kết luận cho sự thống nhất cao trong nhận
thức và nhân rộng trong thực tiễn. Cơ chế quản lý ngân sách, tài sản công còn
nhiều yếu kém, bất hợp lý, chưa khuyến khích tính chủ động và tự chịu trách
nhiệm của các đơn vị, cá nhân thụ hưởng ngân sách; chưa đổi mới cơ bản theo
hướng quản lý dựa trên kết quả đầu ra, đồng thời lại tạo nhiều kẽ hở cho tình
trạng lãng phí, tham nhũng phổ biến, tràn lan, chậm được khắc phục.
Bộ máy hành chính còn cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả. Công tác
kiểm tra sau phân cấp chưa thường xuyên. Việc tinh giản biên chế chưa đạt được
mục tiêu, yêu cầu đề ra. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức tuy đã được nâng
lên so với trước nhưng chưa đáp ứng yêu cầu quá trình phát triển. Chưa hoàn
thành việc xây dựng cơ cấu công chức, viên chức theo vị trí việc làm; công tác
cải cách tiền lương triển khai còn chậm, tiền lương chưa thực sự là động lực thúc
đẩy cán bộ, công chức thực thi công vụ.
Việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin, hiện đại hóa nền hành
chính ở một số bộ, tỉnh còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế. Tỷ lệ cán bộ, công
107
chức được cung cấp hộp thư điện tử chính thức còn ít, hệ thống thư điện tử và hệ
thống quản lý văn bản và điều hành chưa được kết nối trên diện rộng, chưa thực
sự khai thác hết những tính năng, chức năng của các hệ thống quản lý văn bản và
điều hành. Kết quả áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO
9001:2008 vào hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước còn hạn chế.
Việc hiện đại hóa công sở chưa đồng bộ, dẫn tới manh mún, phân tán. Kết quả
đầu tư xây dựng trụ sở xã, ứng dụng công nghệ thông tin vẫn chưa thực hiện
được như mục tiêu đề ra.
Công tác tuyên truyền, cung cấp thông tin tạo sự đồng thuận trong nhân
dân và xã hội chưa hiệu quả, chưa đạt yêu cầu, do đó trong dư luận vẫn cho rằng
cải cách hành chính còn chậm. Việc huy động sự tham gia, đóng góp ý kiến của
người dân, tổ chức, doanh nghiệp là những đối tượng thụ hưởng thành quả của
cải cách vào quá trình cải cách hành chính còn hạn chế.
Đặc biệt, một số khó khăn trong triển khai Nghị quyết 30C/NQ-CP Chương
trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 là do: cải cách
hành chính là nhiệm vụ rộng lớn, phức tạp, liên quan đến tất cả các lĩnh vực của nền
hành chính nên có tính liên ngành cao; vì vậy, công tác chỉ đạo, điều hành của các
cấp, các ngành ở Trung ương và địa phương gặp nhiều khó khăn.
Có thể thấy cải cách hành chính ở nước ta hiện nay còn một số hạn chế sau:
Một là, nhận thức và quan điểm của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các
cấp, các ngành cũng như của đội ngũ cán bộ, công chức có trách nhiệm trực tiếp
hoạch định phương hướng, nội dung cải cách, xây dựng thể chế mới đang còn
chịu ảnh hưởng nặng của thể chế cũ, chưa nhận thức đúng, đủ và sâu sắc sự cần
thiết phải đổi mới cơ bản, mạnh mẽ, khẩn trương về mặt thể chế để mở đường và
tạo hành lang pháp lý mới phù hợp với sự phát triển kinh tế thị trường và với xu
hướng hội nhập, mở cửa.
Hai là, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm
vụ cụ thể về cải cách thể chế của các cơ quan có trách nhiệm trong bộ máy nhà
nước, từ Quốc hội, Chính phủ đến các Bộ, Ngành chưa thật kiên quyết, nhất
108
quán, chưa thường xuyên, liên tục, chưa được coi trọng như là một nhiệm vụ
trọng tâm, cấp bách cần tập trung ưu tiên của mỗi cơ quan.
Ba là, cải cách thể chế nói riêng và cải cách hành chính nói chung chưa
gắn liền, gắn chặt, chưa đồng bộ với cải cách lập pháp, cải cách tư pháp và đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nên những cố gắng,
những đổi mới trong nền hành chính nhà nước gặp phải khó khăn, trở ngại và
thiếu tính khả thi cao trong thực tiễn.
Bốn là, chưa có các biện pháp, cơ chế tạo động lực thúc đẩy cán bộ, công
chức trong bộ máy hành chính tự cải cách chính bản thân họ, chính cơ quan họ;
chưa gắn sự tồn vong của mỗi cá nhân, mỗi cơ quan, đơn vị với công việc cải
cách hành chính.
Năm là, công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn chưa được quan
tâm đúng mức. Các vấn đề cơ bản có liên quan đến phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh toàn cầu hóa, đến xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân chưa được làm rõ
về mặt lý luận, dẫn đến sự lúng túng, chắp vá, dè dặt trong việc hoạch định các
chính sách mới cũng như trong triển khai thực hiện các nội dung chương trình
cải cách hành chính đã đề ra.
Sáu là, nhận thức về dân chủ trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân
dân còn nhiều hạn chế. Một số người đồng nhất hoàn toàn dân chủ hiện nay với
dân chủ xã hội chủ nghĩa theo nghĩa đầy đủ của nó. Tình trạng quan liêu của bộ
máy hành chính làm cho yêu cầu quản lý các quá trình kinh tế - xã hội và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân chưa nhanh nhạy và có hiệu quả cao.
3.2.2.4. Một số hạn chế của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức công chức trong bản thân mỗi cán bộ, công chức
Nhìn chung: "đội ngũ cán bộ công chức hiện nay, cả về số lượng, chất
lượng và cơ cấu có nhiều mặt chưa ngang tầm với đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới.
Trình độ và năng lực quản lý kinh tế - xã hội còn nhiều hạn chế, thiếu hụt kiến
thức về kinh tế thị trường, về quản lý nhà nước, về pháp luật, ngoại ngữ, tin học
và kỹ năng hành chính, cũng như tri thức khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại.
109
Do đó, năng suất và hiệu quả lao động còn thấp. Đội ngũ cán bộ, công chức ngày
càng tăng về số lượng nhưng vẫn còn tình trạng vừa thừa, vừa thiếu. Thiếu cán
bộ công chức hành chính chuyên ngành, cán bộ quản lý giỏi, thừa cán bộ, công
chức không đủ phẩm chất, năng lực yếu, không đáp ứng nhu cầu công việc. Đặc
biệt thiếu đội ngũ cán bộ công chức có kiến thức kinh doanh giỏi, thông thạo về
kinh tế đối ngoại, về pháp lý. Nhiều ngành và địa phương gặp khó khăn trong
lựa chọn cán bộ lãnh đạo chủ chốt, thiếu cán bộ hoạch định chính sách ở tầm
chiến lược. Tinh thần trách nhiệm, tinh thần hợp tác và phong cách làm việc của
đội ngũ cán bộ, công chức còn yếu và chậm đổi mới" [84, tr103].
Mặt khác, vẫn còn một bộ phận cán bộ, công chức bị sa sút về phẩm
chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm kém, còn quan liêu, hách dịch và tham
nhũng. Cán bộ, công chức phải là công bộc của dân, nhưng thực tế vẫn còn
một bộ phận không nhỏ trong đội ngũ cán bộ, công chức có biểu hiện hạch
sách, những nhiễu nhân dân, coi việc thực thi công vụ, phục vụ nhân dân như
là việc ban phát ân huệ của mình cho người dân. Tác phong làm việc quan
liêu, của quyền "vô cảm" trước những yêu cầu bức xúc chính đáng của người
dân, coi chức trách của mình là phương tiện để moi tiền dân, đòi hỏi đút lót,
hối lộ, quà cáp, biếu xén, thậm chí trù dập, ức hiếp quần chúng, gây bất bình
và phản ứng của dân. "Tình trạng sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi" [29, tr.15].
Một là; chất lượng của đội ngũ công chức vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu
quản lý nhà nước trong cơ chế mới.
Báo cáo tổng kết Chương trình Tổng thể cải cách hành chính nhà nước
giai đoạn 2001 - 2010 và Chương trình cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn
2011 - 2020 đánh giá, chúng ta "chưa có đội ngũ cán bộ, công chức hành chính
ổn định và chuyên nghiệp. Trình độ và năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức
chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ, còn bất cập, hẫng hụt về nhiều mặt, như
tri thức và năng lực quản lý nhà nước về xã hội, kinh tế thị trường, pháp luật,
hành chính, kỹ năng thực thi công vụ cũng như khả năng vận dụng khoa học -
110
công nghệ hiện đại trong công tác quản lý còn rất hạn chế. Tinh thần trách
nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật của một bộ phận cán bộ, công chức còn yếu, phong
cách làm việc chậm được đôi mới; tinh thần phục vụ nhân dân chưa cao; tệ quan
liêu, tham nhũng, sách nhiễu nhân dân chưa được ngăn chặn gây nên sự trì trệ,
trở ngại lớn cho công cuộc cải cách, làm giảm hiệu lực của bộ máy nhà nước"
[12, tr.1]. Một bộ phận công chức chưa thể hiện đúng vai trò "công bộc" của dân,
nền công vụ chưa thể hiện đầy đủ trách nhiệm với dân, "không ít công chức có
thái độ quan liêu, cửa quyền, hách dịch và chưa có tinh thần phục vụ nhân dân"
[12, tr.8]. Hầu như trong bất cứ công việc nào liên quan đến cơ quan hành chính
nhà nước, chúng ta cũng nhận thấy lề lối làm việc quan liêu, thủ tục hành chính
rườm rà, gây phiền toái cho nhân dân, thậm chí có hiện tượng vòi vĩnh của công
chức trong thực thi công vụ.
Hai là; đạo đức và thái độ phục vụ nhân dân của một bộ phận công chức
còn yếu kém.
Thực tế trên phản ánh, một bộ phận công chức trong thực thi công vụ
chưa có đạo đức liêm chính trong phục vụ nhân dân. "Một bộ phận cán bộ, công
chức suy thoái phẩm chất, đạo đức, tham nhũng, cửa quyền, thiếu ý thức trách
nhiệm và tinh thần phục vụ, vô cảm trước yêu cầu của nhân dân, của xã hội" [12,
tr.14]. Công chức chưa lấy việc phục vụ nhân dân làm thước đo chủ yếu nhất cho
mức độ và kết quả thực thi công vụ của mình. Chính điều này dẫn tới tình trạng
quan liêu, sách nhiễu, gây phiền hà đối với nhân dân, lợi dụng quyền hạn, chức
trách mà nhân dân uỷ thác để tham nhũng, làm biến dạng những chuẩn giá trị
của người công chức - phục vụ nhân dân.
Ba là; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí làm cản trở quá trình phát triển
của Việt Nam, đi ngược lại với mục tiêu nâng cao trách nhiệm công vụ và đạo
đức công chức.
Đảng ta thừa nhận, "Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến
những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước..." [25, tr.65]. Có thể
nói, tình trạng quan liêu ở nước ta ngày càng gia tăng và mang tính phổ biến, nó
không chỉ diễn ra trong bộ máy nhà nước, mà còn diễn ra trong các tổ chức chính
111
trị - xã hội. Tệ quan liêu trong các cơ quan thực thi quyền hành pháp biểu hiện ở
chỗ, nhiều văn bản, quyết định không nảy sinh từ thực tiễn cuộc sống; các văn
bản pháp luật còn chung chung, thậm chí chồng chéo; sự quan liêu trong việc
thẩm định, phê duyệt dự án phát triển kinh tế - xã hội; bộ máy cồng kềnh, kém
hiệu quả; thủ tục nhiêu khê, rườm rà; nhiêu tầng nấc, nhiều đầu mối mà chưa xác
định rõ trách nhiệm cụ thể; quy hoạch tràn lan, quy hoạch treo...; tình trạng có
luật rồi nhưng phải chờ thông tư hướng dẫn; tình trạng văn bản chỉ đạo thực hiện
trái luật, thậm chí trái Hiến pháp còn tồn tại; tình trạng cấm đoán tràn lan, thói
quan liêu giấy tờ, ngâm việc, vô trách nhiệm...
Theo Báo cáo của Chính phủ về công tác thi hành án, công tác phòng,
chống tham nhũng, công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2010, ngày
30/9/2010 tại phiên họp 35 trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội, toàn ngành
Thanh tra đã tiến hành 6.977 cuộc thanh tra kinh tế - xã hội, trên 1.200 cuộc
thanh tra trách nhiệm quản lý nhà nước, tập trung vào các lĩnh vực đất đai, thuế,
bảo hiểm xã hội. Các bộ, ngành và địa phương đã đẩy mạnh công tác giải quyết
khiếu nại, tố cáo, đạt tỷ lệ trên 84% số vụ việc thuộc thẩm quyền. Qua thanh tra,
giải quyết khiếu nại tố cáo, đã phát hiện nhiều vụ sai phạm, kiến nghị thu hồi
8.152,6 tỷ đồng, 2.108,5 ha đất; kiến nghị xử lý kỷ luật 562 tập thể, 2.035 cá
nhân... Các vụ việc được phát hiện và xử lý không chỉ có ở các cấp mà thuộc tất
cả các ngành, các lĩnh vực: Quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, bảo vệ pháp luật
và cả trong khu vực sản xuất kinh doanh, khu vực nông nghiệp, nông thôn.
Về tình trạng tham nhũng ở nước ta, có thể nói, mức độ tham nhũng ngày
càng nghiêm trọng, phổ biến, tính chất ngày càng phức tạp với những mưu mô
ngày càng tinh vi hơn và có quy mô lớn hơn. Báo cáo trước ủy ban Thường vụ
Quốc hội tháng 9/2016, Tổng thanh tra Chính phủ Phan Văn Sáu cho biết: "Qua
công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo ngành Thanh tra đã phát hiện 35
vụ, 71 đối tượng có hành vi tham nhũng và liên quan đến tham nhũng. Từ tháng
01/10/2015 đến tháng 31/7/2016 Cơ quan điều tra đã thụ lý điều tra 236 vụ án,
609 bị can phạm tội về tham nhũng, trong đó: Khởi tố mới 128 vụ, 272 bị can;
đã kết luận điều tra 103 vụ, 382 bị can; đình chỉ điều tra 05 vụ, 04 bị can; tạm
112
đình chỉ 06 vụ, 15 bị can; hiện đang điều tra 122 vụ, 208 bị can. Viện kiểm sát
các cấp đã truy tố 236 vụ, 548 bị can về các tội danh tham nhũng. Tòa án nhân
dân các cấp đã thụ lý theo thủ tục sơ thẩm 325 vụ với 873 bị cáo; đã xét xử sơ
thẩm 159 vụ, 402 bị cáo về các tội danh tham nhũng, trong đó tỷ lệ tội phạm
nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng chiếm 46,7% (tăng
5,1% so với cùng kỳ năm 2015); số bị cáo được hưởng án treo, cải tạo không
giam giữ chiếm 12% 17,3% (giảm 6,5% so với cùng kỳ năm 2015%). Đặc biệt
có 04 bị cáo bị tuyên phạt mức án tử hình, tù chung thân thể hiện sự quyết liệt,
nghiêm minh trong xử lý tội phạm về tham nhũng. Các vụ án, vụ việc tham
nhũng năm 2016 gây thiệt hại trên 240 tỷ đồng 838m2 đất, đã thu hồi 92 tỷ 460
triệu đồng và kê biên 07 bất động sản, đạt 38,3%. Tổng cục Thi hành án dân sự
đã thụ lý mới 65 vụ việc thuộc nhóm tội tham nhũng, tương ứng với số tiền 646
tỷ 616 triệu đồng, đã giải quyết xong 41 vụ việc, tương ứng với số tiền 45 tỷ 605
triệu đồng" [93].
Những số liệu trên, một mặt, nói lên tình trạng quan liêu, tham nhũng xảy
ra ở nhiều lĩnh vực, làm phương hại đến lợi ích hợp pháp của nhân dân; mặt
khác, phản ánh tình trạng đạo đức của một bộ phận công chức bị xuống cấp
nghiêm trọng. Ngoài những suy thoái về đạo đức trong hoạt động công vụ, một
số công chức có những hành vi vi phạm nghiêm trọng đạo đức, lối sống và pháp
luật của Nhà nước. Chính vì vậy mà trong khoảng năm năm gần đây, số lượng
cán bộ, công chức bị xử lý kỷ luật và trách nhiệm hình sự ngày càng tăng. Qua
nhiều vụ trọng án trong những năm gần đây không ít cán bộ, công chức có chức
vụ cao đã phải ra hầu tòa và phải nhận những bản án ở mức khung hình phạt cao.
Tình trạng khiếu nại, tố cáo ngày càng gia tăng và có nhiều diễn biến phức
tạp. Điều này thể hiện tính tích cực chính trị của nhân dân ngày càng cao, đồng
thời cũng phản ánh sự vi phạm pháp luật cũng như sự yếu kém của công chức
trong thực thi công vụ, giải quyết các công việc của cá nhân, tổ chức. Thực tiễn
cho thấy, có nhiều vụ việc khiếu nại kéo dài, giải quyết qua nhiều cấp mà người
dân vẫn khiếu nại. Điều đó, ở mức độ nhất định, nói lên sự thờ ơ, thiếu trách
nhiệm của công chức trong thực thi công vụ.
113
Tình trạng vi phạm kỷ luật và phạm tội của công chức cũng có xu hướng
gia tăng ngay cả ở công chức cấp cao, đã làm giảm lòng tin của nhân dân vào sự
lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, vào các cấp chính quyền. Có thể nói, hệ thống
các chuẩn mực đạo đức công chức ngày một nhiều hơn, hoàn chỉnh hơn, nhưng
tình trạng vi phạm đạo đức của công chức cũng không ngừng gia tăng. Điều này
tưởng chừng như một nghịch lý, nhưng nó lại có tính quy luật, khi có nhiều vi
phạm pháp luật, vi phạm đạo đức sẽ tất yếu đòi hỏi các chuẩn mực đạo đức ngày
phải hoàn thiện hơn để chống lại những vi phạm đó. Khi các quy phạm đạo đức
công chức không còn đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội thì phải sử dụng
pháp luật với các biện pháp xử lý nghiêm khắc nhất có thể, có tính răn đe mạnh để
trừng phạt những hành vi vi phạm pháp luật, đạo đức công chức; đồng thời, xây
dựng những chuẩn mực đạo đức mới phù hợp với yêu cầu của thực tiễn cuộc sống.
Một số biểu hiện hạn chế cụ thể của cán bộ, công chức:
Thứ nhất, năng lực thực thi công vụ chưa cao, một bộ phận không nhỏ
cán bộ, công chức làm việc đạt kết quả thấp. Theo đánh giá của một cán bộ
lãnh đạo của Vụ cải cách hành chính, Bộ Nội vụ cho thấy: "Qua trao đổi với
lãnh đạo của một số bộ, cho biết, trong các cơ quan hành chính chỉ có khoảng
30% cán bộ công chức làm việc có hiệu quả cao, khoảng 30% kết quả có mức
độ, còn lại là không có sản phẩm gì cả. Đối với cán bộ, công chức cấp xã, số
liệu thống kế cho thấy gần 40% cán bộ công chức cấp xã chưa đáp ứng được
tiêu chuẩn quy định. Thiếu các tiêu chuẩn theo yêu cầu của vị trí, chức danh
và đồng thời chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc" [11].
Thứ hai, kỹ năng làm việc chưa thành thạo, tính chuyên nghiệp chưa cao.
Một điều rất dễ nhận thấy, được nhiều người đánh giá là đội ngũ cán bộ công
chức còn thiếu kỹ năng làm việc, không hiểu quy trình làm việc, nếu hiểu quy
trình làm việc thì hay cắt xén quy trình vì vậy mà tính hiệu quả không cao. Đặc
biệt tính chuyên nghiệp rất thấp.
Thứ ba, chất lượng thực thi công vụ chưa cao: "kết quả hoạt động của một
bộ phận cán bộ, công chức, viên chức chưa cao và phạm nhiều lỗi, sai sót, ngay
cả các văn bản quy phạm chất lượng cũng chưa cao, còn phạm nhiều lỗi. Không
114
ít chính sách vừa được ban hành đã phải sửa đổi ngay vì chưa phù hợp thực tiễn,
cũng có những chính sách ban hành nhưng hiệu lực thi hành thấp, vì không đi
vào cuộc sống xã hội, có thể lấy ví dụ về việc ban hành Thông tư số 33/2012/TT-
BNN&PTNT ngày 20/7/2012 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy
định điều kiện vệ sinh, đảm bảo an toàn thực phẩm đối với cơ sở kinh doanh thịt
và phụ phẩm ăn được của động vật ở dạng tươi sống dùng làm thực phẩm có quy
định thịt và phụ phẩm tươi sống bảo quản ở nhiệt độ thường chỉ được bán trong
vòng 8 giờ kể từ khi giết mổ. Sau đó một tháng, ngày 31/8/2012, Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn phải có quyết định ngưng hiệu lực thi hành đối
với Thông tư trên. Tỉ lệ phát hiện các văn bản có dấu hiệu trái pháp luật những
năm gần đây không giảm: năm 2007: 21%, 2008: 24,9%, 2009: 33,54%, 2010:
19,24%, 2011: 29,31%. Theo thống kê, hiện tình trạng "9 không" đang tồn tại
trong không ít văn bản pháp luật hiện nay. Đó là: không đầy đủ, không rõ ràng,
không cụ thể, không tương thích, không minh bạch, không tiên liệu trước, không
hợp lý, không hiệu quả và không hiệu lực" [11].
Thứ tư, mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp về thái độ, tinh thần
phục vụ, kết quả làm việc của đội ngũ cán bộ công chức còn thấp.
Như vậy, có thể thấy, công tác xây dựng, nâng cao chất lượng của đội ngũ
công chức trong thời gian qua còn hạn chế, chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực
tiễn phát triển kinh tế - xã hội. Đây là tình trạng đáng lo ngại, nguyên nhân của
tình hình này chủ yếu là do bản thân người cán bộ, công chức không chịu rèn
luyện, tu dưỡng. Mặt khác, do cơ sở pháp lý để quản lý các hoạt động kinh tế -
xã hội còn nhiều lỏng lẻo, sơ hở, thiếu đồng bộ, tạo nhiều kẽ hở và điều kiện để
phát sinh những vi phạm về đạo đức, phẩm chất của người cán bộ, công chức.
Việc xử lý các vi phạm đạo đức cán bộ chưa nghiêm, chưa đồng bộ; công tác
giáo dục chính trị, tư tưởng chậm đổi mới, nội dung và phương pháp lạc hậu
thiếu tính thuyết phục.
3.2.2.5. Nguyên nhân của những hạn chế
Thực tế xã hội nước ta hiện nay còn có những nhân tố tác động không
thuận chiều đến việc học tập và làm theo đạo đức phong cách Hồ Chí Minh.
115
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay còn đan xen tư
tưởng, lợi ích và các quan niệm đạo đức khác nhau. Tuy nhiên, có thể khái quát
một số nguyên nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất; cơ chế kinh tế thị trường khách quan khuyến khích lợi ích vật
chất, lợi ích cá nhân, nên tác động mạnh đến đạo đức, lối sống trên nhiều lĩnh
vực, cả những lĩnh vực nhạy cảm, như y tế, giáo dục, quan hệ gia đình, thậm chí
cả hoạt động nhân đạo, từ thiện... Thực tế đó đang có tác động lớn đến kết quả
cuộc vận động. Điều đó đã thể hiện rõ, về khách quan, không thể coi cuộc vận
động về đạo đức như một phong trào và làm một lần, một lúc là xong.
Thứ hai; sự yếu kém của quản lý kinh tế, xã hội là nguyên nhân khách
quan dẫn tới hạn chế của cuộc vận động. Những sơ hở trong quản lý kinh tế, xã
hội, tài sản, ngân sách nhà nước… hiện nay là môi trường khách quan có thể làm
nảy sinh tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, nhũng nhiễu nhân dân trong cán bộ,
công chức, dẫn tới suy thoái về đạo đức, lối sống trong những người có chức, có
quyền. Khả năng đó có thể trở thành hiện thực khi không phát huy được dân chủ
trong hoạt động của tổ chức đảng và hệ thống chính trị; kết hợp chặt chẽ giữa
xây và chống; tôn trọng và nghiêm minh khi thực thi pháp luật...
Thứ ba; tác động khách quan của quá trình toàn cầu hoá và chiến lược
diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch. Hợp tác quốc tế được mở rộng, tạo
điều kiện để các quan niệm về đạo đức, văn hoá, lối sống bên ngoài tác động trực
tiếp đến các giá trị đạo đức, văn hoá đang tồn tại trong xã hội ta, trong đó có
những quan niệm đạo đức không phù hợp, thậm chí trái ngược, gây tác động
xấu. Chiến lược "diễn biến hoà bình" với nhiều thủ đoạn đa dạng, tinh vi đang
tác động vào việc xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam.
Thứ tư; công tác quản lý nhân sự chưa thực sự đổi mới. Điều này thể hiện
trong chế độ, chính sách chưa đồng bộ, chưa thực sự mạnh dạn tuyển chọn và
giữ chân những người giỏi, có tài năng trong công vụ. Trong tổ chức thực hiện
chính sách mới, cần mạnh dạn đưa ra khỏi nền công vụ những công chức không
đủ phẩm chất chính trị, năng lực làm việc hạn chế, thái độ thờ ơ trong thực thi
công việc. Chưa chú trọng công tác tổ chức, nhân sự. Các chính sách, chế độ về
116
công tác tổ chức nhân sự chưa chú trọng đến phát huy năng lực của cán bộ công
chức, ít khuyến khích những người tài năng, nhất là chưa tạo được động lực tốt
cho cán bộ công chức hăng say, nhiệt tình, sáng tạo trong thực thi công vụ.
Thứ năm; chưa thực sự coi trọng công tác kiểm tra, đánh giá thực thi công
vụ của công chức. Rõ ràng, cách tiến hành công tác đánh giá, kiểm tra đối với
việc thực hiện công việc của cán bộ công chức chưa thực sự là động lực cho họ
thực hiện tốt hơn nhiệm vụ được giao. Họ cần được đánh giá, công nhận một
cách công bằng, khách quan. Với cách đánh giá cào bằng, trung bình không
khuyến khích cán bộ công chức làm việc hăng say, nhiệt tình với tất cả khả năng
của họ. Đánh giá thực thi công vụ phải tách được người giỏi, người làm tốt ra
khỏi những người trung bình và những người kém.
Nhìn tổng thể, trong những năm qua, cuộc vận động học tập đạo đức công
chức Hồ Chí Minh và việc xây dựng đạo đức công chức ở nước ta đã đạt được
kết quả bước đầu quan trọng. Nhận thức chung của toàn Đảng và toàn xã hội, tạo
cho chúng ta niềm tin và quyết tâm khắc phục những hạn chế, khuyết điểm để
nâng cao hiệu quả công tác xây dựng đạo đức công chức nước ta trong những
năm tới.
Kết luận chương 3
Qua việc phân tích thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
công chức trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay, có thể rút ra
một số kết luận sau:
Cùng với phát triển kinh tế thị trường, việc xây dựng các giá trị đạo đức
trong xã hội đang trở thành mối quan tâm của nhiều quốc gia, dân tộc. Giữ gìn
và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc chính là làm phong phú nội
dung của các giá trị đạo đức truyền thống ấy trong thời đại mới, đem sức mạnh
đó phục vụ cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Do vậy, vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức nói chung và đạo đức công chức nói riêng trong
việc xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay là một vấn đề có ý nghĩa
hết sức quan trọng.
117
Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây
dựng đạo đức công chức ở Việt Nam thời kỳ đổi mới đã đạt được nhiều
thành tựu về nghiên cứu, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công
chức; về phát huy dân chủ, cải cách hành chính; về sự nỗ lực phấn đấu của
mỗi cán bộ, công chức... Bên cạnh những thành tựu đó, quá trình vận dụng
tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công
chức ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới cũng mắc phải không ít hạn chế
Những thành tựu đạt được trong việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam thời kỳ đổi
mới có nhiều nguyên nhân khác nhau, bao gồm cả khách quan và chủ quan.
Những hạn chế, yếu kém trong việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
công chức trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam là không thể tránh
khỏi. Thực tế cho thấy, nếu kết hợp hài hoà các giá trị truyền thống với các giá
trị hiện đại trên cơ sở giữ những gì là tinh hoa, loại trừ dần các yếu tố lỗi thời,
tăng cường giao lưu với các nước thì sẽ vượt qua được những thách thức, thực
hiện mục tiêu đổi mới nền công vụ nước ta ngày càng tốt hơn trên cơ sở và vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công
chức ở Việt Nam.
118
Chương 4
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN
DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÔNG CHỨC
TRONG XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CÔNG CHỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức vị trí tầm
quan trọng, nội dung của giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về công
chức cho đội ngũ công chức hiện nay
4.1.1. Về mặt nhận thức
Đẩy mạnh tính tự giác học tập và tu dưỡng, rèn luyện đạo đức theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh của cán bộ, công chức. Đây là giải
pháp giữ vai trò trụ cột, là "xương sống" trong hệ thống các giải pháp. Bởi nếu
cơ quan, đơn vị, các cấp chính quyền địa phương tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo,
kế hoạch, chương trình được lên cụ thể, cẩn thận, tỉ mỉ nhưng bản thân mỗi cán
bộ, công chức không nêu cao tinh thần tự giác, chủ động quán triệt, tự học tập,
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong từng công việc cụ
thể hằng ngày tại cơ quan, đơn vị cũng như sinh hoạt tại địa phương, gia đình thì
kết quả đạt được sẽ không cao.
Để phát huy tính tự giác của cán bộ, công chức thì những chuyên đề giáo
dục cần có sự đổi mới cả về hình thức và cách tiếp cận, phải đi vào thực chất,
khắc phục bệnh hình thức, chung chung. Trong phát huy vai trò tự giáo dục, tự
rèn luyện tư tưởng, đạo đức, phong cách của cán bộ, công chức cần hết sức coi
trọng việc phát huy tính tự giác, tính tích cực đấu tranh với cái xấu. Mỗi cán bộ,
công chức luôn tự đấu tranh với chính mình để không bị ảnh hưởng của những mặt
xấu tồn tại trong xã hội tác động.
Kết hợp chặt chẽ tự giáo dục, tự rèn luyện tư tưởng chính trị, đạo đức cách
mạng của từng cán bộ, công chức với sự tăng cường công tác quản lý, giáo dục
việc rèn luyện đạo đức, tác phong của các cấp lãnh đạo, tổ chức, chính quyền địa
phương. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, quá trình tự giáo dục, tự rèn luyện tư
tưởng, đạo đức, phong cách phải được coi như một quá trình "luyện vàng". Vì
vậy, nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục, rèn luyện tư tưởng, đạo đức, phong
119
cách cho cán bộ, đảng viên, quần chúng trong giai đoạn hiện nay cần phải có sự
nỗ lực cố gắng của cả hai phía: cá nhân cán bộ, công chức và sự quản lý, giáo
dục của các cấp lãnh đạo, của tổ chức, chính quyền.
Thứ nhất, tự giác, tích cực học tập, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức theo tấm
gương đạo đức, lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Cán bộ, công chức phải không ngừng chủ động, tự giác, tích cực học tập, tu
dưỡng, rèn luyện, nâng cao nhận thức về mục tiêu lý tưởng, đạo đức cách mạng,
xác định rõ và thực hiện tốt trách nhiệm cá nhân trong việc học tập, làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh. Đây phải được xác định là biện pháp quan trọng hàng
đầu, là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài trong quá trình công tác của bản thân mỗi
người. Các nội dung học tập phải được đưa vào sinh hoạt chi bộ và trở thành nền
nếp. Giữa các cán bộ, công chức cần thường xuyên trao đổi, thảo luận, tự phê bình,
phê bình, đóng góp ý kiến xây dựng cho đồng chí, đồng nghiệp; kịp thời biểu
dương những việc làm tốt, phát hiện, uốn nắn những việc làm chưa tốt. Mỗi người
phấn đấu tự tu dưỡng, rèn luyện theo những chuẩn mực đạo đức công vụ, công sở
được xây dựng ở từng địa phương, cơ quan, trong từng tổ chức đảng.
Trên cơ sở có nhận thức đúng về mục tiêu lý tưởng, đạo đức cách mạng
theo tấm gương, lời dạy của Bác, mỗi cán bộ, công chức không ngừng tu dưỡng,
rèn luyện đạo đức, nêu cao tinh thần trách nhiệm trước tập thể, trước nhân dân;
thực hành dân chủ, giữ quan hệ mật thiết với nhân dân, chống chủ nghĩa cá nhân,
nói đi đôi với làm, tích cực tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch,
vững mạnh. Cán bộ, công chức có trách nhiệm nêu gương trước, làm trước và
chịu trách nhiệm về những việc mình làm.
Coi trọng giáo dục phẩm chất đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh, đề
cao nhân cách, hướng con người vào các giá trị: Chân - Thiện - Mỹ, nhất là đối
với thế hệ đảng viên, công chức, viên chức trẻ. Về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo, "chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu chú trọng trang
bị kiến thức sang tập trung phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người
học" [29, tr.114].
Trong thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW, cần tiếp tục cụ thể hóa những lời
dạy, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh thành những tiêu chí phù hợp với các
120
chuẩn mực đạo đức của mỗi tầng lớp, nhóm xã hội, ngành nghề..., quy định
thành các yêu cầu cụ thể về đạo đức, lối sống gắn với quy định về những điều
đảng viên không được làm, gắn với chức trách, nhiệm vụ của từng người. Cán bộ
lãnh đạo chủ chốt các cấp, các ngành cần có kế hoạch học tập thường xuyên,
không ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị, kiến thức chuyên môn, kỹ năng
nghiệp vụ và năng lực hoạt động thực tiễn, thường xuyên rèn luyện phẩm chất
đạo đức cách mạng, tư cách đảng viên; khắc phục những biểu hiện trung bình
chủ nghĩa, cơ hội, thực dụng, chủ nghĩa cá nhân, mơ hồ mất cảnh giác, giảm sút
ý chí chiến đấu, sa sút về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; qua đó tạo sự
chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động trong các tổ chức đảng,
chính quyền, cơ quan, đơn vị.
Cần tuyên truyền rộng rãi trong toàn Đảng, toàn dân và trong cán bộ, công
chức, viên chức về nội dung, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc thực hành dân
chủ, nêu cao tinh thần trách nhiệm, chống chủ nghĩa cá nhân, nói đi đôi với làm,
xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh. Kịp thời phát hiện những
cá nhân tốt, việc làm tốt, các gương điển hình trong học tập và làm theo lời dạy,
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh để tuyên truyền, nhân rộng, tạo thành phong
trào, thành nền nếp của mỗi tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể, của mỗi cán
bộ, đảng viên cũng như trong toàn xã hội.
Trong tình hình mới, để khắc phục sự lệch lạc về nhận thức trong nghiên
cứu và vận dụng lý luận chính trị, tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta cần thực hiện
nhiều giải pháp đồng bộ và toàn diện. Cần tiếp tục giáo dục cho mọi đối tượng,
tập trung vào cán bộ công chức, trước hết là "cán bộ cốt cán" của Đảng nhận
thức đúng đắn tầm quan trọng của lý luận chính trị và tư tưởng Hồ Chí Minh,
thấy rõ sự cấp thiết phải học tập nâng cao trình độ lý luận đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ trong tình hình mới. Phải làm cho mọi cán bộ, công chức nhận thức rõ lý luận
đóng vai trò quan trọng trong nâng cao năng lực trí tuệ, trình độ và phương pháp tư
duy, năng lực lãnh đạo của Đảng, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng,
tổ chức và đạo đức. Thực hiện tốt công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn
với phương pháp thật sự khoa học. Phát huy vai trò lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức
đảng, của cán bộ, đảng viên và các lực lượng trong công tác tuyên truyền giáo
121
dục và đấu tranh với những biểu hiện, nhận thức sai lệch trong nghiên cứu, vận
dụng lý luận chính trị và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ hai, thường xuyên xây dựng ý thức, trách nhiệm, thái độ và phương
pháp học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cho cán
bộ, công chức trong suốt quá trình thực hiện nhiệm vụ.
Đưa những nội dung học tập thành những việc làm thiết thực và tự giác
của mỗi người. Bên cạnh đó, bản thân mỗi cán bộ, đảng viên, công chức phải tự
soi lại mình, đối chiếu với những nội dung học tập của bản thân để bổ sung, sửa
chữa những mặt còn hạn chế, thiếu sót, đồng thời tiếp tục phát huy, nhân rộng
những mặt mạnh, tích cực. Tuy nhiên, để chỉ ra những khuyết điểm cần sửa
chữa, những tác phong đạo đức không phù hợp thì cần phải đổi mới cả trong
nhận thức và hành động. Tuyệt đối không có tư tưởng bảo thủ, trì trệ, ỷ lại, dựa
dẫm vào tổ chức. Do đó, xây dựng ý thức, trách nhiệm, thái độ và phương pháp
đúng trong học tập đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là những vấn đề có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong công tác xây dựng đạo đức cách mạng cho đội
ngũ cán bộ, đảng viên, công chức hiện nay.
Nâng cao ý thức tự học tập, tự nghiên cứu về tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh cho mỗi cán bộ, đảng viên, công chức một cách thường xuyên, liên
tục. Phải nhận thức rõ rằng, việc học tập không thể là ngày một ngày hai, hay chỉ
tiến hành trong một hoặc hai năm, mà là việc làm lâu dài và cần được thực hiện
trong suốt sự nghiệp cách mạng ở nước ta. "Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; coi đây là công việc thường
xuyên của các tổ chức đảng, các cấp chính quyền..." [29, tr.202]. Việc tự học tập để
nâng cao nhận thức cần thực hiện thường xuyên, liên tục. Các nội dung tự học tập
cần được đưa vào sinh hoạt chi bộ và trở thành nền nếp hằng tháng, hằng quý, hằng
năm theo kế hoạch của từng chi bộ và cá nhân cụ thể. Mỗi cán bộ, đảng viên, công
chức cần thiết phải xây dựng thói quen, ý thức tự giác trong học tập, tu dưỡng, rèn
luyện theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
4.1.2. Về mặt tổ chức thực hiện
Trong giai đoạn hiện nay, thực hiện học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh là việc làm tất yếu và cần thiết đối với mỗi tổ
122
chức đảng, cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng viên, quần chúng. Việc học tập phải
được tiến hành tập trung, thống nhất từ trên xuống, vừa có tính kế hoạch nhưng
cũng bảo đảm tính sáng tạo. Những giải pháp đưa ra phải sát với đặc điểm, chức
năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị và phù hợp với thực lực của cán bộ,
đảng viên, quần chúng. Để thực hiện tốt việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII
của Đảng, cần thực hiện tốt các giải pháp sau:
Một là, làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho
cán bộ, đảng viên, công chức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng, mục đích, yêu
cầu nội dung, của Chỉ thị 05 - CT/TW
Tập trung tuyên truyền, giáo dục về ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng, mục
đích, yêu cầu, nội dung của Chỉ thị 05 - CT/TW, từ đó từng bước nâng cao ý
thức trách nhiệm cá nhân của cán bộ, đảng viên, công chức trong học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh tại cơ quan, đơn vị mình, nhất
là việc học tập phong cách mẫu mực của Người, coi đây là tiêu chuẩn cao nhất,
sát nhất và gần nhất. Trên cơ sở đó, từng bước tạo ra ý thức tự giác, tự tu dưỡng,
rèn luyện cho cán bộ, đảng viên, công chức; làm cho đợt học tập quán triệt và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh ngày càng đi vào chiều
sâu, trở thành ý thức tự giác, thường xuyên của mỗi người và là một thang giá trị
bền vững cho mỗi cán bộ, đảng viên, công chức trong suốt quá trình cách mạng.
Qua đó, làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức nhận thức đầy đủ việc
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là một chủ
trương lớn của Đảng, vừa là nhiệm vụ cấp bách trước mắt, vừa là nhiệm vụ cơ
bản lâu dài trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhà nước ta.
Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh là nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, góp phần
xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo
đức; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức đủ phẩm chất, năng lực, đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, đấu tranh phòng, chống tham nhũng,
lãng phí, quan liêu. Hình thức giáo dục, tuyên truyền phải luôn được đổi mới,
123
phù hợp với đặc điểm của từng cơ quan, đơn vị và từng đối tượng; kiên quyết
khắc phục sự rập khuôn, máy móc, xơ cứng, hoặc làm một cách hình thức,
không thực chất.
Hai là, tiếp tục phát huy cao độ vai trò của hệ thống tổ chức, cấp ủy và
lãnh đạo các cấp trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện
Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu, đóng vai trò quyết định trực tiếp
đến hiệu quả thực hiện thắng lợi đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh trong cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng viên, công
chức. Giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên, công chức theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh là một trong những hoạt động của công tác xây dựng
Đảng trong mỗi tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị. Vì vậy, cấp ủy, lãnh đạo các cấp,
đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức có vai trò quan trọng đối với việc nâng cao
chất lượng, hiệu quả những hoạt động đó ở cơ quan, đơn vị mình.
Tổ chức đảng, trong đó hạt nhân là cấp ủy đảng có vai trò quyết định đến
chất lượng, hiệu quả học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh cho cán bộ, đảng viên, công chức. Lãnh đạo các cấp, cần xác định đầy đủ
vai trò trách nhiệm của mình trong thực hiện việc đẩy mạnh học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cho cán bộ, đảng viên, công chức;
nhận thức đúng tầm quan trọng của giáo dục, rèn luyện tư tưởng, bản lĩnh chính
trị, đạo đức cách mạng, tác phong, lối sống cho cán bộ, đảng viên, công chức.
Các tổ chức như Đảng cộng sản, đoàn thanh niên, công đoàn, phụ nữ,... có
vai trò quan trọng trong vận động cán bộ, đảng viên, hội viên, đoàn viên hưởng
ứng và thực hiện tốt các mục tiêu của cơ quan, đơn vị, các cấp chính quyền đề ra.
Theo chức năng và nhiệm vụ của mình, các tổ chức đoàn thể tham mưu đề xuất
với cấp ủy, lãnh đạo những nội dung, biện pháp, hình thức tổ chức phong trào thi
đua về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; vận
động các hội viên, đoàn viên tham gia và đẩy mạnh thực hiện đi vào chiều sâu,
qua đó góp sức cùng lãnh đạo cơ quan, đơn vị, các cấp chính quyền nâng cao
chất lượng, hiệu quả thực hiện.
Ba là, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức, phương pháp trong thực
hiện đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
124
Chất lượng, hiệu quả đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh không chỉ phụ thuộc vào việc phát huy vai trò của hệ
thống tổ chức và cấp ủy, người lãnh đạo các cấp trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức
thực hiện mà còn phụ thuộc rất lớn vào các hình thức, phương pháp giáo dục.
Đồng thời với phát huy vai trò của các tổ chức, cá nhân, cần đổi mới và vận
dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức, phương pháp tổ chức thực hiện. Đây là
yêu cầu vừa cơ bản, cấp bách, vừa thường xuyên của quá trình đẩy mạnh học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cho tổ chức đảng, cơ
quan, đơn vị, cán bộ, đảng viên, quần chúng.
Trong tình hình hiện nay, việc tổ chức học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cần kết hợp chặt chẽ các hình thức,
phương pháp như: tuyên truyền, giáo dục về tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh cho cán bộ, đảng viên, quần chúng; tăng cường phương pháp
nêu gương của lãnh đạo, thủ trưởng cơ quan, đơn vị, các cấp chính quyền địa
phương; lồng ghép có hiệu quả việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh với các phong trào thi đua và các cuộc vận động
khác trong xây dựng cơ quan, đơn vị, các cấp chính quyền địa phương; lựa
chọn xây dựng đơn vị điểm; tổ chức tốt việc sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm,
biểu dương khen thưởng kịp thời.
Đa dạng hóa và kết hợp chặt chẽ các hình thức nhằm khắc phục những
nhận thức không đúng, bảo thủ, trì trệ "đầu voi, đuôi chuột" hoặc "làm cho qua
chuyện", nặng về "hô hào", bệnh "thành tích"... Nếu kết hợp tốt, đồng bộ các
hình thức, phương pháp trên thì việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh sẽ khả thi và có hiệu quả thiết thực.
Thực hiện đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh và thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau, vừa tác động, thúc đẩy nhau trong quá trình xây dựng chi
bộ, đảng bộ trong sạch vững mạnh, cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, có
đội ngũ cán bộ, đảng viên, quần chúng mạnh. Trong thực hiện cần giữ vững
các nguyên tắc xây dựng Đảng, phát huy dân chủ trong Đảng, thực hiện tốt tự
125
phê bình và phê bình trong học tập, công tác, sinh hoạt Đảng, phát huy sự
gương mẫu của người đứng đầu cơ quan, đơn vị và các cấp chính quyền địa
phương. Đây được xác định là khâu mấu chốt góp phần nêu cao tinh thần
trách nhiệm, chống chủ nghĩa cá nhân, nói đi đôi với làm, khắc phục tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán
bộ, đảng viên hiện nay.
Việc kết hợp thực hiện Chỉ thị 05 - CT/TW và Nghị quyết Trung ương 4
khóa XI về xây dựng Đảng, trước hết cần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng
sự thật, nhất là những mặt còn yếu kém, không nể nang, né tránh; đề ra các biện
pháp khắc phục, sửa chữa thiết thực, khả thi; kết hợp "xây và chống", nói đi đôi
với làm, tập trung giải quyết những vấn đề còn yếu kém. Quá trình thực hiện
phải bảo đảm dân chủ, nghiêm túc, thẳng thắn với tinh thần xây dựng, đúng yêu
cầu, nội dung, cách làm, thời gian. Cấp trên phải làm gương, tự phê bình trước,
cấp dưới làm sau; tập thể làm trước, cá nhân làm sau; các đồng chí trong thường
vụ, cấp ủy viên cấp trên gương mẫu, nghiêm túc tự phê bình và phê bình, làm
gương cho cấp dưới.
Bốn là, đề ra những nội dung học tập cụ thể, thiết thực về tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh trong cơ quan, đơn vị mình, gắn với chức trách,
nhiệm vụ của mỗi cán bộ, đảng viên, công chức.
Nội dung giáo dục cần phải làm cho cán bộ, đảng viên, công chức nhận
thức rõ tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện về những vấn đề
cơ bản của cách mạng Việt Nam như: về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp,
giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; về kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, về khối đại
đoàn kết toàn dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, an ninh
nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về xây dựng, phát triển kinh tế và
văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; về đạo
đức cách mạng; về chăm lo, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng
Đảng. Từ những nội dung trên, cấp ủy đảng, người đứng đầu phải căn cứ vào thực
126
tiễn trong cơ quan, đơn vị để đưa ra những nội dung học tập thiết thực, phù hợp cho
đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức.
Học tập về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, phải tuyệt đối trung thành
với mục tiêu lý tưởng cách mạng, đặt lợi ích của Đảng, của đất nước, dân tộc lên
trên tất cả; hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phụng sự nhân dân, tận trung với
nước, tận hiếu với dân; hết lòng yêu thương đồng bào, đồng chí, đồng đội, yêu
thương con người; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, thật sự là công bộc của
nhân dân, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, chạy theo lợi
ích đồng tiền.
Học tập phong cách Hồ Chí Minh, mọi cán bộ, đảng viên, công chức phải
học tập cho được phương pháp tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, luôn gắn chặt lý
luận với thực tiễn; phong cách làm việc dân chủ, khoa học, kỹ lưỡng, cụ thể, tới
nơi, tới chốn; ứng xử văn hóa, tinh tế, thấm đẫm tình yêu thương con người, đề
cao tinh thần trọng dân, thương dân, vì dân, chăm lo cho dân; nói phải đi đôi với
làm; nói và viết ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm; sống thanh cao, trong sạch,
giản dị; quần chúng, dân chủ, tự mình nêu gương trước tập thể và cơ quan, đơn
vị mình để người khác học tập và làm theo…
Trên cơ sở nắm vững nội dung tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh, đối chiếu với chức trách, nhiệm vụ được giao, mỗi tổ chức, cán bộ, đảng
viên, công chức phải thường xuyên "tự soi mình", "tự sửa chính bản thân mình",
tự phấn đấu, học tập; coi đó là công việc thường xuyên, hằng ngày của mỗi cán
bộ, đảng viên, công chức ở cơ quan, đơn vị.
Năm là, thông qua đợt học tập, sinh hoạt chính trị, cần phải tiến hành
tổng kết và nhân rộng những điển hình tiên tiến trong các cơ quan, đơn vị về
việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh; kết hợp
chặt chẽ giữa xây đi đôi với chống.
Song song với việc giáo dục, tuyên truyền cần phải tích cực tăng cường
công tác kiểm tra, đôn đốc, phát hiện các tấm gương điển hình tiên tiến, mẫu
mực trong học tập, trong từng việc làm cụ thể, có sức ảnh hưởng lớn, làm cơ sở
để tuyên truyền, nhân rộng các tấm gương "người tốt, việc tốt" trong việc học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; đồng thời phải gắn với
127
đánh giá, nhận xét cán bộ, đảng viên, công chức hằng quý, hằng năm và cả
nhiệm kỳ, để kịp thời rút kinh nghiệm. Bên cạnh đó, tiếp tục xây dựng, hoàn
thiện chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công vụ ở từng cơ quan, đơn vị
với phương châm sát chức năng, nhiệm vụ, ngắn gọn, dễ nhớ, dễ thực hiện. Hoàn
thiện chính sách, pháp luật liên quan đến đạo đức công vụ. Chúng ta đều biết,
đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức là những người đại diện cho Đảng, Nhà
nước thực hiện các nhiệm vụ ở cơ quan công quyền, thường xuyên tiếp xúc với
nhân dân, rất dễ xảy ra quan liêu, tiêu cực, tham nhũng. Vấn đề xây dựng những
chuẩn mực trong thực thi công vụ, cũng như xác định trách nhiệm, nghĩa vụ,
thẩm quyền của cán bộ, đảng viên, công chức là vô cùng quan trọng và cần thiết,
nhất là trong bối cảnh hiện nay khi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang
thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI "Một số vấn đề cấp
bách về xây dựng Đảng hiện nay".
Có thể nói, các cấp Công đoàn chủ động tranh thủ sự lãnh đạo của cấp ủy
Đảng, phối hợp với chính quyền, chuyên môn đồng cấp để tổ chức cho cán bộ,
công chức được tham gia nghiên cứu, học tập các chuyên đề về tư tưởng và tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh. Cùng với nội dung các chuyên đề, các cấp Công
đoàn cần nghiên cứu, xây dựng nội dung giáo dục và những bài học về tư tưởng,
tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với việc thực hiện nhiệm vụ
chính trị tại địa phương, đơn vị; quan tâm chăm lo nâng cao đời sống vật chất
tinh thần cho người lao động; đẩy mạnh công tác tuyên truyền về các cá nhân,
tập thể thực hiện tốt việc học tập tấm gương của Bác trên hệ thống truyền thông,
báo chí của địa phương và của tổ chức Công đoàn.
Tiếp tục xây dựng và thực hiện những chuẩn mực đạo đức theo tư tưởng,
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Cán bộ, công chức trong các cơ quan Công
đoàn cần nhận thức rõ trách nhiệm nêu gương, tự giác đi đầu trong học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; tự giác xây dựng kế hoạch tu dưỡng,
rèn luyện qua những việc làm cụ thể, thiết thực, phấn đấu hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức Công
đoàn ngày càng vững mạnh. Đưa việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh thành nội dung sinh hoạt thường xuyên của cơ quan, đơn vị gắn
128
với chương trình hành động thực hiện nghị quyết đại hội Đảng các cấp. Đặc biệt,
định kỳ kiểm tra, sơ tổng kết hàng năm việc học tập và làm theo tư tưởng, tấm
gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Tăng cường công tác kiểm tra, kịp
thời phát hiện nhân rộng những mô hình hay, những cách làm hiệu quả của cán
bộ, công chức trong việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh,
kịp thời rút kinh nghiệm, phê bình, uốn nắn những nhận thức lệch lạc, những
việc làm thiếu gương mẫu trong cán bộ, công chức.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh gắn với kỷ niệm các ngày lễ lớn. Tăng cường công tác tuyên
truyền trong cán bộ, công chức về tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh, qua đó nhằm nâng cao nhận thức sâu sắc những nội dung cơ bản và
giá trị to lớn của tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh; tạo sự chuyển
biến mạnh mẽ và sâu rộng hơn nữa về ý thức tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao đạo
đức cách mạng, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội thực dụng, đẩy lùi sự
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và các tệ nạn xã hội, góp phần
thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của Đảng. Vào dịp kỷ niệm ngày sinh
của Bác (19/5) hàng năm, các cấp Công đoàn tổ chức gặp mặt các tập thể, cá
nhân tiêu biểu trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
trong cán bộ, công chức là hoạt động có ý nghĩa thiết thực nhằm xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức có trình độ chuyên môn, có phẩm chất đạo đức, bản lĩnh
chính trị vững vàng, góp phần tích cực xây dựng tổ chức Công đoàn, giai cấp
công nhân Việt Nam ngày càng vững mạnh, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của
sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
4.2. Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, cải cách, tinh giảm,
làm trong sạch bộ máy công chức hiện nay
Trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, khắc phục
sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên hiện
nay, vai trò của cơ chế, chính sách, pháp luật là rất quan trọng. Cần tiếp tục hoàn
thiện các cơ chế, chính sách, gắn với tăng cường tính nghiêm minh của kỷ luật
đảng, pháp luật của Nhà nước.
129
Trong tình hình hiện nay tham nhũng đang trở thành "quốc nạn" thì việc
làm trong sạch bộ máy cán bộ công chức càng có ý nghĩa quyết định chính là để
cán bộ công chức không thể lợi dụng mặt trái, góc khuất của kinh tế thị trường
mà mưu cầu lợi ích không chính đáng. Điều quan trọng là phải hình thành hệ
thống pháp luật khiến công chức không cần tham nhũng, không muốn tham
nhũng và không thể tham nhũng. Đồng thời đề cao sự giám sát của xã hội, xã hội
giám sát có tác dụng chống những tiêu cực của bộ máy nhà nước và của mỗi cán
bộ, công chức. Thông qua các tổ chức dân cử, các đoàn thể nhân dân, các tổ
chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp, các phương tiện thông tin đại chúng... và rất
quan trọng là bằng tai, mắt, lời nói, việc làm của chính người dân, trong việc
tuân thủ pháp luật.
Xây dựng và thực hiện cơ chế giám sát của nhân dân đối với công chức,
qua đó, một mặt nêu cao tinh thần trách nhiệm của công chức, mặt khác bảo đảm
thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Để người dân có thể giám sát được công
chức thì những hoạt động của cơ quan công quyền liên quan đến người dân phải
được công khai hoá để dân biết và giám sát.
Cán bộ, công chức ở mọi ngành, mọi cấp đều phải đặt dưới sự giám sát
của dân, của xã hội, không có sự giám sát chặt chẽ sẽ không tránh khỏi lạm
quyền, độc quyền và tham nhũng. Xã hội giám sát hoạt động của bộ máy công
quyền từ việc chi tiêu ngân sách, đầu tư xây dựng cơ bản bằng vốn ngân sách
nhà nước cho đến tổ chức và giám sát hành vi của từng cán bộ, công chức. Tạo
ra môi trường xã hội lành mạnh để phát triển các giá trị đạo đức.
Quá trình đổi mới cơ cấu nền kinh tế và xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay đã và đang đặt ra yêu cầu phải khẩn trương
hoàn thiện cơ chế, chính sách và pháp luật nhằm hạn chế, khắc phục những khe
hở, lỗ hổng dễ bị lợi dụng vào các mục đích tư lợi cá nhân, vi phạm pháp luật.
Đồng thời, cần tăng cường tính công bằng, nghiêm minh của pháp luật trong xử
lý, giải quyết các vụ việc tiêu cực, tham nhũng nhằm củng cố niềm tin của nhân
dân đối với các cơ quan nhà nước.
Tiếp tục phát huy mặt tích cực của dư luận xã hội, của các phương tiện
thông tin đại chúng trong việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, quan liêu,
130
tiêu cực trong bộ máy công quyền. Cấp ủy phải phối hợp với lãnh đạo chính
quyền trong việc lựa chọn những vấn đề cụ thể đang thu hút sự chú ý của dư
luận xã hội để tập trung giải quyết triệt để, dứt điểm, nhất là những vấn đề tiêu
cực, tồn đọng kéo dài, gây bức xúc trong dư luận xã hội.
Xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh trước hết cần phải
thực hành, thực sự phát huy dân chủ trong Đảng và thi hành kỷ luật đảng thật sự
công khai, công bằng, nghiêm minh. Xử lý kịp thời những cán bộ, đảng viên,
công chức, viên chức vi phạm; kiên quyết đấu tranh với những thói hư, tật xấu.
Việc thực hiện tốt giải pháp này sẽ góp phần giáo dục đối với cán bộ, đảng viên,
công chức, viên chức; góp phần đấu tranh phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.
Thực hiện đúng lời dạy: ''Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư", nêu cao
phẩm giá con người Việt Nam trong thời kỳ mới.
- Tích cực lao động, học tập, công tác với tinh thần lao động sáng tạo có
năng suất, chất lượng, hiệu quả cao; sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn của Nhà
nước, của tập thể, của chính mình một cách có hiệu quả.
- Quý trọng công sức lao động và tài sản của tập thể, của nhân dân; không
xa hoa, lãng phí, không phô trương, hình thức.
- Kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, không để cho
lợi ích cá nhân chi phối. Chống thói chạy theo danh vọng, địa vị, giành giật lợi
ích các mình, lạm dụng quyền hạn, chức vụ để chiếm đoạt của công; cục bộ địa
phương, thu vén cho gia đình, cá nhân.
- Thẳng thắn, trung thực, bảo vệ chân lý, bảo vệ đường lối quan điểm của
Đảng, bảo vệ người tốt; chân thành, khiêm tốn; không chạy theo chủ nghĩa thành
tích, bao che, giấu giếm khuyết điểm…
- Kiên quyết chống bệnh lười biếng, chạy theo lối sống hưởng thụ, vị kỷ,
nói không đi đôi với làm, nói nhiều, làm ít, làm dối, làm ẩu. Có thái độ rõ ràng,
lên án và quyết đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, loại trừ mọi biểu hiện vô
liêm, bất chính ra khỏi đời sống xã hội.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính phủ theo hướng xây dựng nền
hành chính thống nhất, thông suốt, trong sạch, vững mạnh có hiệu lực, hiệu
131
quả; hoàn thiện và nâng cao vai trò của pháp luật trong việc thực thi công vụ
góp phần nâng cao hiệu quả của việc xây dựng đạo đức công chức theo tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Trong báo cáo của chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước
giai đoạn 2011 - 2020, nội dung đổi mới nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức là cơ bản và có tính chất quyết định. Bởi vì, cải cách hành chính là
vấn đề rất quan trọng của việc củng cố, hoàn thiện bộ máy công quyền, có quan
hệ trực tiếp đến lợi ích của nhân dân mà công chức là nhân tố bảo đảm cho sự
vận hành của bộ máy công quyền đó. Chất lượng đội ngũ công chức thể hiện ở
trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, ở đạo đức, tác phong và thái độ phục
vụ nhân dân.
Để thực hiện tốt chủ chương cải cách hành chính nhà nước, công chức
phải hiểu sâu sắc nội dung của công cuộc cải cách hành chính trong từng giai
đoạn. Cán bộ, công chức phải luôn là người đi đầu trong sự nghiệp cải cách hành
chính và phải được đào tạo một cách bài bản để có chuyên môn, nghiệp vụ vững
vàng và được trang bị các phương tiện, điều kiện vật chất, kỹ thuật tác nghiệp.
Các hoạt động cải cách hành chính phải được công khai, thực hiện nguyên tắc
"dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". Đồng thời phải tăng cường trách
nhiệm của công chức đối với công việc và nhiệm vụ được giao, tăng cường tính
chủ động, sáng tạo cho công chức trong xử lý, giải quyết công việc. Nói về tinh
thần trách nhiệm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhắc nhở cán bộ công chức:
Tinh thần trách nhiệm... là khi Đảng, Chính phủ hoặc cấp trên giao cho ta việc
gì, bất kỳ to hay nhỏ, khó hay dễ, ta cũng đưa cả tinh thần, lực lượng ra làm
cho đến nơi, đến chốn, vượt mọi khó khăn, làm cho thành công. Người nhấn
mạnh: Tinh thần trách nhiệm là nắm vững chính sách, đi đúng đường lối quần
chúng, làm tròn nhiệm vụ. Cải cách hành chính đồng thời phải nâng cao ý thức
trách nhiệm của công chức, qua đó đẩy mạnh công cuộc cải cách hành chính.
Cải cách hành chính là nhằm bảo đảm quá trình hiện thực hoá quyền lực
Nhà nước luôn đúng bản chất của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; để
người dân thực sự thực hiện quyền làm chủ của mình trong hệ thống chính trị
132
dưới sự lãnh đạo của Đảng đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Mỗi công chức trong bộ máy hành chính nhà nước phải thực sự là "công bộc"
của dân. Công chức thực hiện trách nhiệm của mình với nhân dân cũng là thực
hiện trách nhiệm của Đảng, của Chính phủ với nhân dân.
Kiện toàn hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách chủ động phòng ngừa,
giảm thiểu các kẽ hở để công chức khó sa vào tham nhũng, tiêu cực; xây dựng
chế độ trách nhiệm công chức; xác định rõ trách nhiệm của mỗi công chức, nhất
là người đứng đầu cơ quan tổ chức trong việc để xảy ra tiêu cực, tham nhũng.
Mỗi công chức phải được giao chức trách, nhiệm vụ rõ ràng, cụ thể với những
quyền hạn nhất định và phải có những quy định cụ thể về chức năng của từng cơ
quan tổ chức và từng cá nhân công chức để đảm bảo thực hiện được và có thể
kiểm tra được. Trách nhiệm công chức đã rõ ràng nếu không hoàn thành là thiếu
tinh thần trách nhiệm, là ý thức đạo đức kém.
Tạo ra cơ chế hoạt động quản lý đạo đức công chức để loại bỏ được
những yếu tố dẫn tới khả năng tiêu cực, xin cho, sách nhiễu nhân dân trong tổ
chức hoạt động, trong phục vụ nhân dân. Đó là xây dựng chế độ trách nhiệm của
cơ quan quản lý công chức. Theo đó, nếu công chức thuộc cơ quan quản lý vi
phạm khuyết điểm, mắc phải sai lầm mà không được kịp thời phát hiện và xử lý
thì cơ quan đó phải chịu trách nhiệm, người đứng đầu cơ quan phải chịu trách
nhiệm trước cơ quan cấp trên. Xử phạt nghiêm minh các hành vi vi phạm đạo
đức công vụ tuỳ theo mức độ vi phạm. Phải quy định rõ, cụ thể các hành vi cán
bộ công chức không được làm, có chế tài đối với hành vi vi phạm đạo đức.
Để khắc phục mặt trái của cơ chế thị trường, chúng ta cần ban hành một
hệ thống pháp luật và kiểm tra việc thực hiện thể chế, chính sách đó. Một mặt
làm trong sạch bộ máy cán bộ, công chức, mặt khác theo dõi việc thực hiện các
quy định pháp luật, xử lý nghiêm túc các trường hợp công chức vi phạm pháp
luật, đạo đức. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện chế độ trách nhiệm của các cơ quan
chức năng như thanh tra, kiểm tra, tổ chức, kiểm toán. Các cơ quan đó phải có sự
phối hợp chặt chẽ và cộng đồng trách nhiệm trong việc giúp Đảng và chính
quyền các cấp làm tốt công tác quản lý cán bộ công chức.
133
Tăng cường công tác chỉ đạo việc thực hiện cải cách hành chính từ Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ đến các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ và Ủy ban nhân dân các cấp. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ,
Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ và Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương chịu trách nhiệm chỉ đạo thống nhất việc thực hiện
chương trình trong phạm vi quản lý của mình; xác định cải cách hành chính là
nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt của cả nhiệm kỳ công tác; xây dựng kế hoạch
thực hiện cụ thể trong từng thời gian, từng lĩnh vực; phân công rõ trách nhiệm
của từng cơ quan, tổ chức và cán bộ, công chức, viên chức; tăng cường kiểm tra,
đôn đốc việc thực hiện chương trình.
Tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức bằng
các hình thức phù hợp, có hiệu quả. Quy định rõ và đề cao trách nhiệm của
người đứng đầu. Tiếp tục ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định về
chức danh, tiêu chuẩn của từng vị trí việc làm của cán bộ, công chức, viên chức
trong từng cơ quan, tổ chức, từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương, làm cơ
sở cho tinh giản tổ chức và tinh giản biên chế. Tăng cường tính công khai, minh
bạch, trách nhiệm của hoạt động công vụ. Có chính sách đãi ngộ, động viên,
khuyến khích cán bộ, công chức, viên chức hoàn thành tốt nhiệm vụ và có cơ chế
loại bỏ, bãi miễn những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất
uy tín với nhân dân.
Nâng cao năng lực, trình độ đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác cải
cách hành chính ở các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, chính
quyền địa phương các cấp. Đồng thời, có chế độ, chính sách hợp lý đối với đội
ngũ cán bộ, công chức chuyên trách làm công tác cải cách hành chính các cấp.
Xây dựng bộ chỉ số theo dõi, đánh giá cải cách hành chính ở các Bộ, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương. Quy định kết quả thực hiện cải cách hành chính là tiêu chí để đánh giá
công tác thi đua, khen thưởng và bổ nhiệm cán bộ, công chức, viên chức.
Phát triển đồng bộ và song hành, tương hỗ ứng dụng công nghệ thông tin -
truyền thông với cải cách hành chính nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của
134
cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp dịch vụ công, của cán bộ, công
chức, viên chức trong thực thi công vụ, của tổ chức, cá nhân tham gia vào công
tác cải cách hành chính và giám sát chất lượng thực thi công vụ của cán bộ, công
chức, viên chức.
4.3. Phát huy dân chủ, nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ công
dân, tham gia quản lí xã hội của nhân dân; tăng cường vai trò giám sát
phản biện của các tổ chức xã hội và nhân dân đối với hoạt động của bộ máy
hành chính các cấp
Thứ nhât; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng, phát
huy vai trò giám sát của tổ chức quần chúng nhân dân trong thực hiện học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Kiểm tra, giám sát là khâu quan trọng trong toàn bộ quy trình thực hiện
việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Thực tiễn,
kinh nghiệm tổ chức học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ở giai
đoạn trước đã cho thấy: cơ quan, đơn vị, địa phương nào phát huy tốt vai trò của
các tổ chức quần chúng tham gia giám sát các mặt hoạt động của cán bộ, đảng
viên thì ở đó, vai trò của đội ngũ lãnh đạo, thủ trưởng cơ quan, đơn vị, chính
quyền địa phương được tăng cường; những biểu hiện vi phạm kỷ luật của cán bộ,
đảng viên được phát hiện, ngăn chặn kịp thời; niềm tin của quần chúng nhân dân
được củng cố; uy tín của cán bộ, đảng viên được nâng cao. Và ngược lại, ở cơ
quan, đơn vị, địa phương nào việc kiểm tra, giám sát làm qua loa, chiếu lệ, thiếu
phương pháp, thì cơ quan, đơn vị, địa phương đó tất yếu sẽ yếu kém. Kiểm tra,
giám sát là trách nhiệm của mọi người, mọi tổ chức và của cả hệ thống chính trị.
Công tác kiểm tra, giám sát phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, không
cứng nhắc và nặng về hành chính hóa để tránh tình trạng đối phó, phô trương,
không thực chất. Kiểm tra, giám sát phải trong tất cả các khâu, các bước, các
hoạt động công tác. Thực hiện kiểm tra để kịp thời phát hiện, uốn nắn những hạn
chế, yếu kém, nhất là những yếu kém trong nhận thức của cán bộ, đảng viên,
quần chúng. Việc kiểm tra, giám sát phải theo đúng phương châm: giám sát phải
mở rộng; kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm, kết hợp kiểm tra thường xuyên với
135
kiểm tra đột xuất; cấp trên kiểm tra, giám sát cấp dưới; tổ chức đảng kiểm tra,
giám sát cán bộ, đảng viên và phát huy vai trò của cấp ủy cơ sở, trực tiếp là đồng
chí bí thư cấp ủy trong triển khai thực hiện kế hoạch học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Qua kiểm tra, tổng kết, rút kinh
nghiệm, phát hiện nơi làm tốt, việc làm tốt, mô hình hay để kịp thời biểu dương,
nhân rộng và chấn chỉnh những nơi làm chưa tốt, hiệu quả chưa cao, chưa tạo
thành phong trào rộng khắp trong cơ quan, đơn vị, địa phương.
Coi trọng xây dựng quy chế làm việc, xác định rõ quyền hạn, trách
nhiệm của từng cá nhân, tổ chức, tăng cường kiểm tra, giám sát thực hiện. Ðể
nêu cao tinh thần trách nhiệm, trước hết phải xác định rõ trách nhiệm của mỗi
người, mỗi tổ chức. Trong một tổ chức, mỗi thành viên phải là một bộ phận
có chức năng, nhiệm vụ rõ ràng thì tổ chức đó mới vận động tốt được. Có
trách nhiệm, quyền hạn rõ ràng, mỗi cá nhân mới có đóng góp cụ thể cho tổ
chức, mới "nói đi đôi với làm", tham gia cùng tập thể chống chủ nghĩa cá
nhân. Mặt khác, để động viên khuyến khích tinh thần trách nhiệm và hạn chế
thói lười biếng, vô trách nhiệm, ỷ lại, tư lợi cá nhân... cần tăng cường công
tác kiểm tra, giám sát thực hiện. Cấp ủy các cấp cần thực hiện nghiêm công
tác kiểm tra, giám sát.
Thông qua kiểm tra, giám sát, quản lý chặt chẽ từng cán bộ, đảng viên ở
nơi công tác, nơi cư trú và khi công tác xa đơn vị, nhất là những cán bộ có chức
có quyền, trong các lĩnh vực quản lý kinh tế, công tác cán bộ... Phát hiện và xử
lý kịp thời những đảng viên vi phạm tư cách, thoái hóa biến chất về đạo đức, lối
sống, những phần tử cơ hội, bất mãn, gây mất đoàn kết nội bộ trong Ðảng, vi
phạm các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Ðảng.
Không ngừng hoàn thiện các cơ chế, chính sách, pháp luật gắn với việc
tăng cường hơn nữa tính nghiêm minh của kỷ luật Ðảng và pháp luật của Nhà
nước. Quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế và xây dựng nhà nước pháp quyền ở
nước ta hiện nay yêu cầu cần phải khẩn trương hoàn thiện cơ chế, chính sách,
pháp luật để hạn chế những "lỗ hổng" dễ bị lợi dụng; cần tăng cường sự
nghiêm minh của pháp luật để củng cố niềm tin của nhân dân đối với các cơ
136
quan nhà nước. Ðồng thời, phát huy dân chủ trong Ðảng và thực hiện kỷ luật
đảng thật sự nghiêm minh. Xử lý kịp thời, công khai những cán bộ, đảng viên
vi phạm, dù ở cương vị, chức trách nào; kiên quyết đấu tranh với những thói hư
tật xấu trong Ðảng.
Bên cạnh đó, cần phát huy mặt tích cực của dư luận xã hội, các phương
tiện thông tin đại chúng trong việc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực. Thực
hiện tốt giải pháp này sẽ góp phần giáo dục, răn đe đối với mọi cán bộ, đảng
viên, góp phần đấu tranh, phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.
Phát huy vai trò của các cơ quan dân cử, của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn
thể nhân dân và vai trò của nhân dân trong việc giám sát cán bộ, công chức. Ðây
là giải pháp vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính lâu dài của công tác xây
dựng Ðảng, cũng như trong việc phòng, chống chủ nghĩa cá nhân, tình trạng suy
thoái đạo đức của cán bộ, đảng viên hiện nay.
Vì vậy, cần có cơ chế để nhân dân tham gia vào công tác xây dựng Ðảng,
thúc đẩy việc nêu cao tinh thần trách nhiệm, chống chủ nghĩa cá nhân, nói đi đôi
với làm của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Các cấp ủy, tổ chức đảng tạo điều kiện
thuận lợi để nhân dân tham gia xây dựng Ðảng bắt đầu từ cơ sở; phát huy vai trò
giám sát của nhân dân, của báo chí, công luận đối với việc rèn luyện phẩm chất
đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
Thực hành dân chủ, nêu cao tinh thần trách nhiệm, chống chủ nghĩa cá
nhân, nói đi đôi với làm phải bắt đầu từ sự gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng
viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, để tạo hiệu ứng tích cực, lan tỏa trong tập
thể cơ quan, địa phương, đơn vị và đến các tầng lớp nhân dân. Thực hiện nghiêm
túc Quy định số 101-QĐ/TW ngày 7/6/2012 của Ban Bí thư về trách nhiệm nêu
gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp trong học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Mỗi người phải thấm nhuần
lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh : "một tấm gương sống, còn có giá trị hơn một
trăm bài diễn văn tuyên truyền"; nội dung gương mẫu trước hết là "việc gì có lợi
cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh".
137
Để thực hành dân chủ, nêu cao tinh thần trách nhiệm, chống chủ nghĩa cá
nhân, nói đi đôi với làm, trước hết, phải xác định rõ trách nhiệm của cán bộ,
đảng viên, công chức, viên chức, của mỗi tổ chức, cơ quan. Trong một cơ quan,
tổ chức, mỗi thành viên phải là một bộ phận có chức năng, nhiệm vụ rõ ràng thì
tổ chức đó mới vận hành tốt được. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng lấy ví dụ về
chiếc đồng hồ, mỗi bộ phận đều có chức năng nhất định và không thể thay thế.
Thực hiện chức năng của mình theo quy định là lý do tồn tại của cá nhân trong
tập thể, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong cơ quan, tổ chức.
Chỉ khi nào có sự phân công, phân định trách nhiệm, quyền hạn rõ ràng thì mỗi
cá nhân mới có thể có những đóng góp cụ thể, thiết thực cho cơ quan, tổ chức,
mới thực hành dân chủ, nói đi đôi với làm, tham gia cùng tập thể chống chủ
nghĩa cá nhân.
Trên thực tế, giữa nhận thức về trách nhiệm và hành động thực hiện trách
nhiệm có sự khác nhau bởi sự chi phối của lợi ích, nhất là lợi ích cá nhân, lợi ích
nhóm. Để động viên, khuyến khích thực hành dân chủ, nêu cao tinh thần trách
nhiệm, chống chủ nghĩa cá nhân và hạn chế thói lười biếng, vô trách nhiệm, ỷ
lại, tư lợi cá nhân... thì cần phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thực
hiện. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: Kiểm tra có tác dụng thúc đẩy và giáo dục
đảng viên, cán bộ làm tròn nhiệm vụ đối với Đảng, đối với Nhà nước, làm gương
mẫu tốt cho nhân dân. Do đó mà góp phần vào việc củng cố Đảng về tư tưởng,
về tổ chức. Người cũng đề cao tác dụng của việc kiểm soát, kiểm tra khéo vì:
Kiểm soát khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa kiểm tra khéo về sau
khuyết điểm nhất định bớt đi.
Cấp ủy các cấp cần thực hiện nghiêm túc công tác kiểm tra, giám sát; thực
hiện tốt Quy định số 55-QĐ/TW ngày 10/01/2012 của Ban Bí thư về công tác
kiểm tra của tổ chức đảng đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ,
đảng viên trong học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Thông qua
hoạt động kiểm tra, giám sát một cách hợp lý, khoa học thì mới có thể quản lý
chặt chẽ từng cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức ở nơi công tác, nơi cư trú
và khi đi công tác xa đơn vị, nhất là các cán bộ có chức, có quyền trong các lĩnh
vực quản lý kinh tế, công tác cán bộ... Phát hiện và xử lý kịp thời những đảng
138
viên vi phạm tư cách, thoái hóa biến chất về đạo đức, lối sống, những phần tử cơ
hội, bất mãn, gây mất đoàn kết nội bộ trong Đảng, vi phạm các nguyên tắc tổ
chức, sinh hoạt đảng.
Cần chú ý là hiệu quả của công tác thanh tra kiểm tra phụ thuộc rất nhiều
yếu tố. Nhưng điều trước hết phụ thuộc vào chủ thể. Hồ chí minh đã ví cán bộ
thanh tra "như cái gương soi, gương mờ không soi được". Vì thế phải không
ngừng nâng cao năng lực phẩm chất của đội ngũ cán bộ thanh tra ngang tầm với
nhiệm vụ hiện tại. Người cán bộ đi thanh tra kiểm tra phải có nghiệp vụ cao, có
phẩm chất đạo đức trong sáng được quần chúng tin yêu, để xứng đáng là "tai mắt
của trên, là bạn của dưới".
Thông qua thực tiễn để chọn lọc, sắp xếp đội ngũ thanh tra kiểm tra, đây
là con đường tối ưu đem lại sinh khí mới có ý nghĩa định hướng trong "chiến
lược con người của ngành thanh tra kiểm tra"
Phát huy vai trò của cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân
dân và vai trò của nhân dân trong việc giám sát cán bộ, đảng viên.Trước hết,
phải tạo dựng cơ chế, chính sách, diễn đàn để các tầng lớp nhân dân có thể tham
gia vào công tác xây dựng Đảng, chính quyền, thúc đẩy việc thực hành dân chủ,
nêu cao tinh thần trách nhiệm, chống chủ nghĩa cá nhân, nói đi đôi với làm trong
hoạt động chuyên môn, thực thi công vụ cũng như trong cuộc sống, sinh hoạt
của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Đây là giải pháp vừa mang
tính cấp thiết trước mắt, vừa mang tính thường xuyên, lâu dài của công tác xây
dựng Đảng, chính quyền cũng như trong việc phòng, chống chủ nghĩa cá nhân,
tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận
cán bộ, đảng viên.
Giám sát của nhân dân phải được coi như một mặt trong công tác thanh
tra kiểm tra của các cơ quan nhà nước, phải cầu thị đối với sự giám sát của nhân
dân. Ở đây, giám sát của nhân dân không phải chỉ là yếu tố bên ngoài tác động
vào cơ quan nhà nước và hoạt động kiểm tra vào nhà nước phả được coi như là
yếu tố nội sinh , là một mặt của công tác thanh tra kiểm tra của cơ quan nhà
nước. Thậm chí, Người coi đây là cách tốt nhất để thanh tra kiểm trra đối với đội
ngũ cán bộ công chức nhà nước. Trong tác phẩm sửa đổi lối làm việc người nhấn
139
mạnh, kiểm soát có hai cách, một cách là từ trên xuống. Tức là người lãnh đạo
kiểm soát được tất cả các công việc của mình, một cách nữa là từ dưới lên. Tức
là quần chúng và cán bộ kiểm soát sự sai lầm của lãnh đạo và bày tỏ cải cách sửa
chữa sai lầm đó. Cách này là cách tốt nhất để kiểm soát nhân viên.
Mặt khác, kết hợp tốt giữa thanh tra, kiểm tra của nhà nước đối với sự
giám sát của nhân dân góp phần hạn chế các khuyết điểm, phát huy các ưu điểm
và đảm bảo hiệu quả của nhà nước. Đây là yêu cầu tất yếu đặt ra trong quá trình
xây dựng và hoàn thiện nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Các cấp ủy, chính quyền cần tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân tham gia
xây dựng Đảng, chính quyền bắt đầu từ cơ sở; đồng thời, phát huy vai trò giám
sát của nhân dân, dư luận xã hội đối với việc rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối
sống của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; có cơ chế khen thưởng kịp
thời, thỏa đáng cho những cá nhân, tập thể đã tích cực đấu tranh, phê phán, lên
án những hành vi sai trái, vi phạm pháp luật; qua đó, góp phần phát hiện, đấu
tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu; phòng, chống những biểu
hiện của chủ nghĩa cá nhân.
Thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 7 (khóa XI) Về tăng cường và đổi
mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới; theo đó,
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân tiếp tục đổi mới nội dung, phương
pháp, hình thức hoạt động, thực hiện tốt vai trò là người đại diện, bảo vệ quyền
lợi chính đáng, hợp pháp của đoàn viên, hội viên; tiếp tục đa dạng hóa các hình
thức tập hợp nhân dân, hướng về cơ sở, tập trung cho cơ sở, phù hợp với trình độ
dân trí, với đặc điểm, tình hình cụ thể của mỗi giai cấp, tầng lớp xã hội, nhóm xã
hội trong từng giai đoạn cụ thể.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội cần làm tốt vai trò
tham mưu, nòng cốt trong việc nắm bắt dư luận xã hội, phát huy dân chủ, năng
lực trí tuệ, ý thức trách nhiệm của công dân trong thực hiện giám sát xây dựng
Đảng, xây dựng chính quyền.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, tạo điều kiện để Mặt trận Tổ
140
quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội tăng thêm tính tự chủ, chủ động hơn trong
hoạt động, tạo điều kiện để có thể gần dân, sát dân hơn.
Nâng cao chất lượng hoạt động các tổ chức đoàn thể, đoàn viên, hội viên;
phát hiện, lựa chọn những đoàn viên, hội viên ưu tú, đủ tiêu chuẩn để giới thiệu
kết nạp vào Đảng, giới thiệu quy hoạch, đào tạo cán bộ, tuyển dụng công chức.
Phát huy vai trò xung kích, sáng tạo của tuổi trẻ; tạo môi trường, cơ chế,
chính sách thuận lợi cho tuổi trẻ rèn đức, luyện tài, lao động, học tập, phấn đấu
để họ có thể phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân theo gương Bác Hồ vĩ đại.
Phải coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng, bồi dưỡng lý tưởng cách
mạng cho thanh, thiếu niên, để giúp họ trở thành những người kế tục xứng đáng
sự nghiệp cách mạng của Đảng, của Bác Hồ.
Cấp ủy, chính quyền các cấp cần có kế hoạch động viên, khuyến khích và
tổ chức cho nhân dân tham gia đóng góp ý kiến phê bình cán bộ, đảng viên; có
quy chế, diễn đàn phù hợp để quần chúng ở nơi công tác và nơi cư trú của cán
bộ, đảng viên có thể góp ý cho cán bộ, đảng viên về việc thực hành dân chủ, nêu
cao tinh thần trách nhiệm, chống chủ nghĩa cá nhân, nói đi đôi với làm trong sinh
hoạt gia đình, cộng đồng. Bên cạnh đó, có cơ chế bảo vệ những người dân, đảng
viên, công chức có tinh thần dũng cảm, dám phê bình; đồng thời, xử lý nghiêm
những biểu hiện trù dập người phê bình hoặc lợi dụng phê bình để vu cáo, đả
kích gây mất đoàn kết nội bộ; thực hiện tốt pháp luật dân chủ ở cơ sở; đẩy mạnh
tuyên truyền, nêu gương người tốt, việc tốt tham gia công tác xây dựng Đảng,
chính quyền trong sạch, vững mạnh.
Thứ hai; tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng, củng cố mối quan
hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng và nhân dân
Đây là giải pháp đặc biệt quan trọng, là nhân tố quyết định thắng lợi của cách
mạng nước ta qua các giai đoạn lịch sử, đặc biệt trong những thời điểm có tính bước
ngoặt. Việc tăng cường thực hành dân chủ, nêu cao tinh thần trách nhiệm, chống
chủ nghĩa cá nhân, nói đi đôi với làm trong thực hiện nhiệm vụ chính trị, rèn luyện
đạo đức cách mạng chính là để tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, tạo
sự đồng thuận của các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Đây phải coi là trách nhiệm
hàng đầu, trước hết là của các đồng chí lãnh đạo chủ chốt các cấp, các ngành. Cán
141
bộ, đảng viên từ tỉnh đến cơ sở phải quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về "giữ gìn sự
đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình".
Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) cần chú
trọng việc "cán bộ chủ chốt và cán bộ dân cử các cấp phải thường xuyên tiếp
xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân" [26, tr.37]. Trong thực hiện Nghị quyết
Trung ương 7 (khóa XI) cần "thực hiện tốt quy chế giám sát và phản biện xã hội
của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, quy định để Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng,
xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh" [84, tr.42]. Đồng thời, "các cấp, các
ngành, địa phương, đơn vị tập trung giải quyết những bức xúc, nguyện vọng
chính đáng của nhân dân, nhất là những vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống,
việc làm, đền bù, thu hồi đất đai, tai nạn giao thông, tệ nạn xã hội... Trong xây
dựng cơ chế, chính sách, cần quán triệt và thực hiện nghiêm nguyên tắc: mọi chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải thuận với lòng dân,
xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Chú trọng cải
thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là điều kiện sống, lao
động, học tập, sáng tạo, nghỉ ngơi, chăm sóc sức khỏe" [27, tr.43].
Thực hành dân chủ, nêu cao tinh thần trách nhiệm, chống chủ nghĩa cá nhân,
nói đi đôi với làm nhằm nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, công
chức, viên chức phải đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với cuộc đấu tranh chống "diễn
biến hòa bình" của các thế lực thù địch. Các địa phương, cơ quan, đơn vị cần phổ
biến, tuyên truyền mạnh mẽ và khơi dậy trong nhân dân lòng yêu nước, niềm tự hào
dân tộc, niềm tin đối với Đảng, đối với chế độ xã hội chủ nghĩa và tương lai phát
triển của đất nước. Nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, nhận diện, nắm vững
và kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chia rẽ mối quan hệ
giữa Đảng và nhân dân. Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI: kiên quyết
đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu hoạt động "diễn biến hòa bình" của các thế lực
thù địch. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện "tự diễn
biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ Đảng. Thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 8
(khóa XI) "về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới".
142
4.4. Nâng cao tính tự giác học tập và rèn luyện tu dưỡng đạo đức cách
mạng cho đội ngũ công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh
4.4.1. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho mỗi công chức tự
rèn luyện phấn đấu nâng cao đạo đức trong thực thi công vụ (khen thưởng,
chế độ lương và các phụ cấp thích đáng)
Tạo môi trường xã hội lành mạnh, điều kiện làm việc tốt nhất và chế độ
đãi ngộ công chức thoả đáng để thu hút người có tài, đức. Công việc do công
chức đảm nhận đóng vai trò rất quan trọng trong việc tạo môi trường xã hội thích
ứng cho sự phát triển của đất nước cũng như phúc lợi của nhân dân.
Môi trường xã hội của công chức là quan hệ giữa nhân viên với nhân viên,
giữa nhân viên với lãnh đạo, cơ chế điều hành, đánh giá và sử dụng công chức.
Công chức làm việc cần một môi trường xã hội thân thiện, công bằng, bình đẳng,
chân thành, đánh giá khách quan đúng năng lực, phẩm chất mỗi thành viên trong
cơ quan, đơn vị và sử dụng đúng năng lực của họ. Quan hệ giữa công chức với
công chức là lòng chân thành, thân thiện, đoàn kết thương yêu, gắn bó; không có
sự đố kỵ, sẵn lòng tương thân, tương ái hỗ trợ và giúp đỡ lẫn nhau trong công
việc. Hoạt động trong một môi trường xã hội như vậy, mỗi công chức sẽ có ý
thức trách nhiệm, có nghĩa vụ giữ gìn và bảo vệ quan hệ tốt đẹp với mọi người.
Quan hệ giữa nhân viên và cán bộ lãnh đạo, giữa cán bộ lãnh đạo với nhân
viên là dân chủ, gần gũi cùng vì nhiệm vụ chính trị của cơ quan, tập thể. Cấp
dưới không tự ti, khúm núm; không chạy chọt và nịnh bợ lấy lòng cấp trên để
mong được ưu ái, cầu lợi; không đả phá, khích bác, xuyên tạc những quyết định
của cấp trên, thẳng thắn góp ý kiến với cấp trên khi thấy cần thiết. Cán bộ lãnh
đạo với cấp dưới và nhân viên phải tôn trọng, không quan liêu, hách dịch; sâu sát
nắm bắt kịp thời tâm tư nguyện vọng của những người thuộc quyền; khách quan
vô tư, công bằng, không thiên vị; bảo đảm hòa khí dân chủ, cởi mở tạo điều kiện
để mỗi người sẵn sàng tự bộc lộ tâm tư, nguyện vọng và sáng kiến đóng góp xây
dựng cơ quan, đơn vị.
Đặc biệt, phải có cơ chế đánh giá đúng năng lực, phẩm chất cá nhân của
công chức. Điều đó không chỉ tạo tiền đề cho việc sử dụng đúng người đúng việc
mà còn khuyến khích được người tài, người giỏi phát huy năng lực đóng góp cho
143
cơ quan đơn vị, qua đó đóng góp cho Nhà nước và xã hội. Thực tế ở đâu dùng
người theo "bè cánh" hoặc con cháu, người thân họ hàng, không tính tới năng
lực của họ, tất sẽ gây rối loạn bất bình, nội bộ cơ quan sẽ mất đoàn kết.
Có thể thấy, đạo đức công chức ở nước ta còn nhiều vấn đề bức xúc, như
tham nhũng, quan liêu, vô trách nhiệm, thiếu đạo đức trong thực thi công vụ của
một bộ phận công chức... Tất cả những hiện tượng trên là do nhiều nguyên nhân
khác nhau. Muốn khắc phục và xóa bỏ những hiện tượng trên để công chức có
đạo đức trong thực thi công vụ, trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội thì
trước hết phải xoá được cơ sở kinh tế sinh ra những hiện tượng tham nhũng,
thiếu đạo đức, vô trách nhiệm... trong thực thi công vụ của công chức. Chính
sách tiền lương, chế độ đãi ngộ phải đảm bảo được đời sống của công chức mới
có thể phục vụ nhân dân một cách tốt nhất, có đạo đức liêm chính nhất.
Chúng ta phải thừa nhận giá trị của sức lao động, tiền lương là giá cả của
sức lao động, trong nền kinh tế thị trường. Theo đó, công chức có quyền đòi hỏi
được trả lương đúng với giá trị sức lao động của họ trong mọi tương quan với thị
trường lao động. Trong điều kiện kinh tế thị trường, tiền lương, thu nhập của
công chức dù do ngân sách trả, vẫn phải đặt trong mối tương quan với mặt bằng
tiền lương, thu nhập của khu vực thị trường. Nếu không thỏa mãn quan hệ này sẽ
dẫn đến tình trạng công chức tìm cách "xoay" trong thực thi công vụ để "bù đắp
tiền lương" như quan liêu, tham nhũng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn, can thiệp
hành chính vào thị trường của các nhóm lợi ích để "đòi chia sẻ lợi ích" làm lũng
đoạn, méo mó thị trường và tăng dòng chảy máu chất xám từ nền công vụ ra khu
vực thị trường. Mặt khác, với những công chức được đào tạo ở trình độ cao, họ
làm việc chủ yếu bằng trí óc, có tác động đến các mặt của đời sống kinh tế - xã
hội và đòi hỏi trách nhiệm rất cao... Nếu không tính đến các đặc thù trên, nhất là
trả lương không đúng, không đủ thì sẽ làm méo mó quan hệ tiền lương ở khu vực
này và phát sinh nhiều tiêu cực, tham nhũng.
Vì vậy, thực hiện trả lương cho công chức theo cơ chế thị trường là thực
hiện đầu tư cho phát triển, tạo động lực cho phát triển kinh tế - xã hội, góp phần
làm trong sạch nền công vụ. Cải cách tiền lương phải bảo đảm cho công chức
sống được bằng tiền lương ở mức trung bình khá để họ yên tâm phục vụ nhân
144
dân một cách tốt nhất, liêm chính nhất. Nền công vụ cần có bước đổi mới mang
tính đột phá để công chức có thể sống bằng đồng lương và yên tâm cống hiến mà
không phải quá so đo hơn thiệt. Chúng ta nên trả lương cho công chức theo trình
độ, khả năng làm việc; cho thuê hoặc bán nhà giá rẻ cho công chức nhà nước sau
thời gian dài cống hiến tốt cho nước, cho dân, giúp họ giảm gánh nặng nhà cửa.
Muốn nền công vụ có trách nhiệm phục vụ nhân dân, công chức có đạo
đức liêm chính trong thực thi công vụ phải cải cách hệ thống tiền lương theo cơ
chế thị trường, phải xã hội hoá một số khâu hành chính, từ đó có thể giảm được
số lượng công chức thừa và tăng được tiền lương cho công chức. Còn nếu chúng
ta chỉ hô hào cải cách hành chính mà không khắc phục được nguyên nhân gốc rễ
là tiền lương của công chức thấp, bất hợp lý... thì tham nhũng, quan liêu, sách
nhiễu nhân dân sẽ vẫn là bài toán chưa có lời giải. Song, tiền lương tăng mà
không xây dựng bản mô tả công việc của các vị trí công chức trong thực thi công
vụ, xác định trách nhiệm quản lý công chức theo kết quả công việc, thì tăng
lương chưa hẳn sẽ khiến công chức tận tụy với nền công vụ. Các giải pháp về kỹ
thuật như trên về thực chất, không quá khó, song cái khó hơn nằm ở chỗ là
những người có trọng trách, những người quyết định chế độ tiền lương của công
chức được thực thi trong cuộc sống có đồng thuận hay không.
Cũng cần quán triệt một yêu cầu là không tăng lương một cách dàn trải.
Nếu tăng lương đồng loạt cho mọi đối tượng hưởng lương (viên chức, hưu trí,
nhân viên doanh nghiệp nhà nước...) sẽ không thể tạo ra đột phá về thu nhập cho
đội ngũ công chức vì ngân sách có hạn. Vì vậy, để trả lương cho công chức theo
cơ chế thị trường, đòi hỏi Nhà nước phải tập trung cải thiện thang bậc lương và
làm có trọng điểm đối với đối tượng là công chức. Nguyên tắc trong việc trả
lương là trả theo năng suất lao động theo cơ chế thị trường. Đây là nguyên tắc cơ
bản tạo nên sự công bằng và tạo động lực cho lao động, cho sự sáng tạo, phục vụ
nhân dân một cách tốt nhất có thể. Tuy nhiên, nguyên tắc này trên thực tế chưa
được thực hiện đối với công chức trong nền công vụ. Cơ chế trả lương như hiện
tại có các điểm yếu: công chức không có động lực phấn đấu, thậm chí tranh thủ
chân trong, chân ngoài cải thiện thêm thu nhập cho gia đình, giải quyết tiền ăn,
ở, học, đi lại cho bản thân và con cái; không thu hút, giữ được người có tài, có
145
đạo đức trong nền công vụ lâu dài. Công chức làm tốt trong thực thi công vụ
cũng không được trả lương cao hơn công chức tồi. Làm tốt để có một vị trí quản
lý, lãnh đạo thì lại càng khó khăn; thậm chí, làm tốt, làm có trách nhiệm có khi
còn bị đố kỵ. Vì vậy, công chức làm "được việc" sẽ cảm thấy họ không được tôn
trọng vì họ không được đánh giá qua lương cũng như qua vị trí công việc; không
tạo được động lực trong việc tinh giản biên chế.
Hiện nay, chúng ta đã tiến hành cải cách tiền lương, tinh giản biên chế,
nhưng biên chế hiện lại đang tăng, chứ không giảm. Vì vậy, việc cải cách cơ chế
tiền lương cần phải trở về đúng nguyên tắc "lương trả theo kết quả lao động"
theo cơ chế thị trường đối với công chức. Việc đánh giá kết quả lao động của
công chức là khó khăn hơn các công việc cụ thể. Tuy nhiên, nếu làm được điều
này, công chức nhất định trở nên liêm chính và trách nhiệm phục vụ nhân dân sẽ
tốt hơn, đúng với bản chất của nền công vụ ở nước ta là nền công vụ phục vụ
nhân dân, có trách nhiệm với dân. Ngoài ra, thay vì căn cứ vào thâm niên công
tác của công chức để trả lương, nên xây dựng quỹ dưỡng liêm đối với từng cá
nhân công chức. Quỹ dưỡng liêm được tính bằng thời gian gắn bó, đóng góp cho
nền công vụ theo những khoảng thời gian nhất định được quy đổi thành những
lượng tiền - lượng tiền này đủ lớn, ngày càng luỹ tiến nhằm tạo động lực thúc
đẩy công chức thực thi công vụ một cách liêm chính. Lượng tiền này không
được trả thường xuyên cho công chức, mà nó được tích luỹ cho đến khi nào công
chức không còn tham gia phục vụ nền công vụ (về hưu, bệnh tật, thôi việc hợp
pháp,...) mới được trả.
Việc cải cách cơ bản hệ thống thang, bảng, ngạch, bậc lương công chức
phải chú trọng đến kết quả đầu ra của hoạt động công vụ; phân biệt rõ đặc điểm,
tính chất của từng loại hình công vụ; đơn giản, dễ hiểu, dễ áp dụng. Có thực hiện
tốt nguyên tắc này thì tiền lương mới thực sự có tác dụng thúc đẩy công chức
phấn đấu nâng cao năng lực thực thi công vụ hơn là chỉ phấn đấu để có bằng cấp
cao nhưng chất lượng, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ lại yếu kém.
Cùng với chính sách tiền lương hợp lý, cần xây dựng chế độ tiền thưởng
thường xuyên và đột xuất thỏa đáng, đối với công chức hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ; đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong
146
việc quyết định chi tiền thưởng cho công chức dưới quyền. Chuyên viên cao cấp,
chuyên viên chính nhưng chỉ làm được việc của chuyên viên, chỉ được hưởng
lương chuyên viên và ngược lại? Do đó, tất yếu phải xây dựng cơ cấu công chức
của nền công vụ theo vị trí công việc, mỗi loại vị trí công việc tương ứng với
một mức lương phù hợp.
Như vậy, bên cạnh việc đòi hỏi công chức phải đạt được những tiêu chuẩn
về đạo đức, năng lực thì cần phải có những điều kiện để công chức yên tâm, tận
tụy làm việc kể cả các điều kiện về kinh tế, điều kiện được học tập nâng cao
nghiệp vụ. Ngoài việc đảm bảo mức lương thoả đáng cho công chức mà Nhà
nước ấn định nên có thêm những mức lương mềm khuyến khích cho những
người thực sự có tài, có đóng góp đặc biệt, đột xuất như: sáng kiến đem lại
hiệu quả cao trong công việc, cải cách cơ chế quản lý có hiệu quả về mặt kinh
tế, xã hội.
4.4.2. Nâng cao tính tự giác học tập, rèn luyện và tiếp thu tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng người cán bộ công chức phát
triển toàn diện vừa hồng vừa chuyên
Đạo đức cán bộ của người công chức được hình thành và phát triển đó là
sự thống nhất giữa những nhân tố tác động bên ngoài và sự vận động bên trong
của mỗi cá nhân, giữa chủ quan và khách quan, giữa cá nhân công chức và xã
hội. Môi trường xã hội thuận lợi cùng những tác động tích cực của Đảng, Nhà
nước, các đoàn thể và nhân dân tới đạo đức người cán bộ công chức chỉ có tác
động tích cực khi bản thân họ tự giác tiếp thu, rèn luyện và làm theo. Vì thế, để
các chuẩn mực đạo đức công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành những
nhân tố trong cấu trúc bên trong trong nhân cách đạo đức người công chức thì
việc tự giác rèn luyện của chính đội ngũ công chức có ý nghĩa quyết định trực
tiếp. Để nâng cao tính tự giác rèn luyện của đội ngũ công chức, cần thực hiện
một số biện pháp sau:
Một là; nâng cao nhận thức cho cán bộ công chức về tầm quan trọng của
việc giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức và sự cần thiết cảu
việc quán triệt tư tưởng đó trong quá trình thực tthi công vụ
147
Hai là; cần đẩy mạnh việc tự giác học tập, tu dưỡng rèn luyện đạo đức
công chức cho cán bộ công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ba là; coi trọng và sử dụng thường xuyên vũ khí phê bình và tự phê bình,
việc phê bình và tự phê bình phải được triển khai một cách đúng đắn nghiêm túc,
thường xuyên, có lý có tình. Người cán bộ công chức có hy vọng nâng cao, giác
ngộ trình độ đạo đức công chức của mình cần phải nghiêm túc tự giác phê bình
và tự phê bình, đây là một trong những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng
của Hồ Chí Minh.
Bốn là; cần tổ chức tốt các phong trào tôn vinh, phát huy các giá trị văn hóa,
lối sống, đạo đức công chức, phát hiện những nhân tố mới, điển hình trong công tác
giáo dục đạo đức cho đội ngũ công chức theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Năm là; thường xuyên đấu tranh phê phán với các hiện tượng phản giá
trị, lối sống thực dụng cá nhân, tha hóa, xa rời với truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, xa lạ với tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức.
Kết luận chương 4
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng
đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay là vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan
trọng, nhất là trong bối cảnh đạo đức xã hội như hiện nay. Từ thực trạng vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công
chức ở Việt Nam thời kỳ đổi mới, có thể đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả của việc vận dụng này:
Một là, cần nâng cao hơn nữa nhận thức của cán bộ, công chức về việc vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công
chức. Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính phủ theo hướng xây dựng nền hành
chính thống nhất, thông suốt, trong sạch, vững mạnh có hiệu lực, hiệu quả; Hoàn
thiện và nâng cao vai trò của pháp luật trong việc thực thi công vụ góp phần nâng
cao hiệu quả của xây dựng đạo đức công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hai là, đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, làm trong sạch bộ
máy công chức.
148
Ba là, phát huy dân chủ, nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân,
năng lực làm chủ, tham gia quản lí xã hội của nhân dân; tăng cường vai trò giám
sát phản biện của các tổ chức xã hội đối với hoạt động của bộ máy hành chính
các cấp
Bốn là, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho mỗi công chức tự rèn
luyện phấn đấu nâng cao đạo đức trong thực thi công vụ.
Có thể thấy, những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công chức ở
Việt Nam kể trên có mối quan hệ tác động qua lại, hỗ trợ cho nhau. Vì vậy
chúng cần được thực hiện một cách triệt để và đồng bộ. Có như vậy mới khắc
phục được tình trạng suy thoái đạo đức lối sống của cán bộ công chức, để tiếp
tục xây dựng những phẩm chất đạo đức cách mạng của người cán bộ, công chức
trong giai đoạn phát triển đất nước trên con đường "vững bước đi lên chủ nghĩa
xã hội".
149
KẾT LUẬN
Ở nước ta những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu về đạo
đức công chức. Tuy nhiên, những công trình này đề cập đến vấn đề đạo đức
công chức dưới những góc độ, khía cạnh khác nhau. Trên cơ sở tổng quan các
tài liệu nghiên cứu liên quan đến đạo đức công chức, tạo điều kiện thuận lợi
cho việc nghiên cứu đề tài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức và
vận dụng tư tưởng đó trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay
mang ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn nhằm giải quyết thực trạng vận dụng
tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công
chức ở Việt Nam hiện nay.
Trên thực tế, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công
chức và vận dụng tư tưởng đó trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt là trong công cuộc cải cách hành chính vẫn
còn nhiều khoảng trống cần nghiên cứu thấu đáo hơn. Trong quá trình thực thi
công vụ đã xuất hiện nhiều tấm gương công chức tiêu biểu điển hình cho lối
sống giản dị, liêm khiết trong công cuộc đấu tranh chống lại các hiện tượng tiêu
cực của xã hội. Tinh thần thái độ của công chức trong phục vụ người dân có
nhiều chuyển biến tích cực dựa trên những cơ sở pháp lý ngày một khoa học, đây
chính là điều kiện thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó cũng còn
tồn tại những yếu kém của công chức trong thực thi công vụ. Biểu biện của sự
hạn chế, yếu kém là tình trạng quan liêu ngày càng gia tăng, tệ tham nhũng xảy
ra nghiêm trọng, thủ đoạn tham nhũng ngày càng trắng trợn, lợi dụng sơ hở hoặc
chưa đầy đủ của cơ chế, chính sách, pháp luật, sự buông lỏng của quản lý, kiểm
tra của cơ qua nhà nước. Điều này đã phản ánh sự yếu kém của đội ngũ công
chức trong việc giải quyết công việc của cá nhân, của tổ chức. Muốn khắc phục
một cách có hiệu quả những yếu kém này và phát huy những thành tựu đã đạt
được trong thời gian qua chúng ta cần nhận thức rằng việc vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức công chức để xây dựng đội ngũ công chức trong bối cảnh
hiện nay là tất yếu khách quan nhằm xây dựng một nền công vụ chuyên nghiệp
150
với đội ngũ công chức vừa có đạo đức, vừa có trình độ chuyên môn để phục vụ
nhân dân ngày càng hiệu quả, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhân dân
trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhằm xây dựng và rèn
luyện đạo đức công chức theo những chuẩn mực của Người đòi hỏi mỗi cán bộ,
công chức phải có khả năng tiếp thu và thực hành những chuẩn mực đạo đức
chung trong thực thi công vụ. Trong bối cảnh hiện nay mỗi cán bộ, công chức trong
quá trình thực hiện công việc của mình phải thực hiện tốt những chuẩn mực cơ bản
trong đạo đức nghề nghiệp đó là: trung thực, tôn trọng pháp luật, tận tụy với công
việc, tiết kiệm, thực hiện liêm, chính, có lương tâm trong sáng, không ngừng học
tập sáng tạo nâng cao chuyên môn nghiệp vụ và cải thiện điều kiện làm việc, giúp
đỡ đồng chí, đồng nghiệp trong cuộc sống và trong công việc.
Xây dựng đạo đức công chức gắn liền với yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do vậy, chú trọng đến việc rèn luyện đạo đức
cho đội ngũ công chức trong đời sống hàng ngày góp phần quan trọng trong việc
lấy lại niềm tin của nhân dân vào đội ngũ công chức nhằm xây dựng nhà nước
pháp quyền của dân, do dân và vì dân đại diện cho nguyện vọng, ý chí và quyền
lực của nhân dân. Tri thức là sức mạnh, sự thống nhất giữa tri thức khoa học và
tình cảm cách mạng là yêu cầu tất yếu của người cán bộ công chức. Chủ tịch Hồ
Chí Minh rất chú ý đến giáo dục rèn luyện đức và tài cho cán bộ đảng viên, trong
đó đức là gốc. Cán bộ của Đảng và Nhà nước không phải là "quan" cách mạng,
đứng trên quần chúng, cho nên phải rèn luyện cần, kiệm, liêm, chính, trí công vô tư
để hoàn thiện nhiệm vụ cách mạng mà Đảng và nhân dân giao cho. Tư tưởng đạo
đức của Hồ Chí Minh mãi mãi là chân lý, là kim chỉ nam soi sáng quá trình giáo
dục, tự giáo dục và xây dựng đạo đức của người cán bộ công chức hiện nay.
151
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Thị Khuyên (2017), "Nâng cao đạo đức công chức nhằm đáp ứng
yêu cầu cải cách hành chính", Tạp chí Quản lý nhà nước, (257), tr.47-51.
2. Nguyễn Thị Khuyên (2017), "Xây dựng chuẩn mực đạo đức công chức
theo tư tưởng Hồ Chí Minh", Tạp chí Giáo dục, (410), tr.1-3, 9.
3. Nguyễn Thị Khuyên (2017), "Tình cảm đạo đức - cơ sở cho sự phát triển
nhân cách con người", Tạp chí Mặt trận, (166-167), tr.115.
4. Nguyễn Thị Khuyên (2018), "Những nguyên tắc xây dựng đạo đức công
chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh - giá trị lý luận và ý nghĩa thực tiễn", Tạp
chí Lao động và Công đoàn, (643), tr.40-41
5. Nguyễn Thị Khuyên (2018), "Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh - sự kết hợp
giữa truyền thống dân tộc và tinh hoa nhân loại", Tạp chí Giáo dục và Xã
hội, Số 90(151), tr.80-84
152
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Anh (Chủ biên) (2009), Mãi mãi học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Phạm Ngọc Anh (2010), Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa Đảng, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội
3. Phạm Ngọc Anh (Chủ biên) (2015), Phong cách làm việc Hồ Chí Minh -
giá trị lý luận và thực tiễn, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
4. Phạm Ngọc Anh (Chủ biên) (2016), Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng xã
hội mới - giá trị lí luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
5. Ban Chỉ đạo Trung ương (2010), Tổng kết 4 năm triển khai cuộc vận động
"Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, Hà Nội.
6. Ban Chỉ đạo cải cách hành chính Chính phủ (2016), Tài liệu hội nghị sơ kết
công tác cải cách hành chính giai đoạn 2011 -2015 và triển khai kế hoạch
cải cách hành chính giai đoạn 2016 -2020, Hà Nội.
7. Vũ Đình Bách (2010), Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Hoàng Chí Bảo (2011), Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị
- Hành chính, Hà Nội.
9. Bộ Chính trị (2015), Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị
về tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
10. Ngô Thành Can (2010), "Xây dựng tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán
bộ công chức", Tạp chí Tổ chức nhà nước, (4).
11. Ngô Thành Can (2017), "Chất lượng thực thi công vụ - Vấn đề then chốt
của cải cách hành chính", tại trang http://caicachcongvu.gov.vn/Plus.aspx/vi/
News/71 /0/1010103/0/5625/Chat_luong_thuc_thi_cong_vu_Van_de_then_
chot_cua_cai_cach_hanh_chinh, truy cập ngày 16/4/2017.
12. Chính phủ (2011), Báo cáo tổng kết thực hiện chương trình tổng thể cải
cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 và chương trình cải cách
hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020, Hà Nội.
153
13. Chính phủ (2016), Báo cáo số 289/BC-CP của Chính phủ về công tác
phòng chống tham nhũng năm 2016, Hà Nội.
14. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Phúc (Đồng chủ biên) (2003), Mấy vấn đề
đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Cao Minh Công (2011), "Đạo đức công chức là một bộ phận của đạo đức
học ứng dụng", Tạp chí Giáo dục lý luận, (10), tr.58-61.
16. Cao Minh Công (2012), Trách nhiệm công vụ và đạo đức công chức ở nước
ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
17. Cao Minh Công (2013), Một số giải pháp nhằm nâng cao đạo đức công
chức trong thực thi công vụ ở Việt Nam hiện nay, Hội thảo khoa học, Học
viện Hành chính, Hà Nội.
18. Nguyễn Thị Hồng Doan (2015), Vấn đề kế thừa, phát triển một số phạm trù
cơ bản của đạo đức Nho giáo trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, Luận
án tiến sĩ Triết học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
19. Lê Đăng Doanh (2010), "Một số vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
ở Việt Nam", trong sách: Trách nhiệm xã hội trong điều kiện kinh tế thị
trường, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
20. Nguyễn Thị Kim Dung (2013), "Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
sử dụng cán bộ", Tạp chí Lý luận chính trị, (6).
21. Thành Duy, Lê Quý Đức (2007), Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh -
Xây dựng nền văn hóa ở nước ta hiện nay, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
154
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp
hành Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp
hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng xuất bản.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương, Ban Chỉ đạo tổng
kết (2015), Báo cáo một số vấn đề lí luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới
(1986-2016), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
30. Trần Thị Anh Đào (2016), Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh để ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối
sống và những biểu hiện "tự diễn biến" , "tự chuyển hóa" trong nội bộ -
thực trạng và giải pháp, Tham luận hội thảo, Hội đồng lý luận Trung ương,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
31. Nguyễn Trọng Điều (2003), "Nâng cao phẩm chất và năng lực đội ngũ cán bộ
công chức đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế", Tạp chí Cộng sản, (18).
32. Võ Nguyên Giáp (1993), Tư tưởng Hồ Chí Minh quá trình hình thành và
phát triển, Nxb Sự thật, Hà Nội.
33. Võ Nguyên Giáp (1997), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Trần Văn Giàu (1997), Sự hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Tô Tử Hạ, Trần Anh Tuấn, Nguyễn Thị Kim Thảo (2002), Đạo đức trong
nền công vụ, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
36. Phạm Minh Hạc (2012), Định hướng giá trị con người Việt Nam thời kỳ đổi
mới và hội nhập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Lương Đình Hải (2004), "Mấy vấn đề về phẩm chất đạo đức của cán bộ,
đảng viên trong thời kì đổi mới", Tạp chí Triết học, (5), tr.7-12.
38. Hoàng Văn Hảo (1995), Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới - sự
hình thành và phát triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
155
39. Lê Thị Hằng (2009), "Vấn đề nâng cao đạo đức công chức trong cải cách
hành chính ở nước ta hiện nay", Tạp chí Triết học, (6).
40. Lê Thị Hằng (2014), Đạo đức công chức và vấn đề xây dựng đạo đức công
chức trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết
học, Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội.
41. Vũ Gia Hiền, Nguyễn Hữu Hoạt (2007), Đạo đức trong quản lý hành chính
công, Nxb Lao động, Hà Nội.
42. Vũ Gia Hiền (2009), Đạo đức trong quản lý hành chính công, Nxb Lao
động, Hà Nội.
43. Vũ Quốc Hùng (2006), Tham luận về 5 suy thoái đạo đức, lối sống của
đảng viên, Hà Nội.
44. Trần Đình Huỳnh (2005), Hồ Chí Minh kiến trúc sư lỗi lạc của nền hành
chính nhà nước Việt Nam, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
45. Trần Đình Huỳnh (2016), Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để góp
phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống và những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ - thực
trạng và giải pháp, Tham luận tọa đàm khoa học, Hội đồng Lý luận Trung
ương, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
46. Phan Kiều Thanh Hương (2010), "Đạo đức công vụ trong hoạt động quản
lý nhà nước ở Thành phố Hồ Chí Minh", Tạp chí Cộng sản, (15).
47. Nguyễn Hữu Khiển (2003), "Đạo đức công vụ và vấn đề nâng cao đạo đức
công vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay", Tạp chí Triết
học, (10).
48. Vũ Khiêu (2014), Học tập đạo đức Bác Hồ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
49. Nguyễn Thế Kiệt (2005), Đạo đức người cán bộ chính trị hiện nay. Thực
trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
50. Nguyễn Thế Kiệt (2011), Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với việc nâng cao
đạo đức cách mạng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay, Nxb
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
156
51. Nguyễn Thế Kiệt (2012), Mấy vấn đề về đạo đức học Mác xít và xây dựng
đạo đức rong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
52. Thế Kỷ (2013), Danh ngôn Hồ Chí Minh, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
53. Đặng Xuân Kỳ (2013), Phương pháp cách mạng và phong cách Hồ Chí
Minh, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
54. Đỗ Thị Ngọc Lan (2012), Nghiên cứu so sánh quy định về đạo đức công vụ
của một số quốc gia và Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
55. V.I.Lênin (1979), Toàn tập, tập 8, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
56. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
57. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
58. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995) Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
59. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
61. C.Mác - Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
62. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
63. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
64. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
65. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
66. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
67. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
68. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
69. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
70. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
71. Hồ Chí Minh (2011) Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
72. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
73. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
74. Lê Đình Mùi (2012), "Giải pháp thực hiện pháp luật về đạo đức công chức
trong giai đoạn hiện nay", Tạp chí Tổ chức Nhà nước, (3).
157
75. Nguyễn Chí Mỳ (Chủ biên) (1999), Sự biến đổi thang giá trị đạo đức trong
nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới chi cán bộ quản lý ở
nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
76. Trương Ngọc Nam, Hoàng Anh (Đồng chủ biên) (2011), Đảng ta là đạo
đức là văn minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
77. Nguyễn Thị Nga, Hồ Trọng Hoài (2003), Quan niệm của Nho giáo về giáo
dục con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
78. Nhà xuất bản Khoa học xã hội (1995), Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng
giải phóng dân tộc, nhà văn hoá lớn, Hội thảo khoa học quốc tế, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
79. Trần Sĩ Phán (2008), "Mấy vấn đề đạo đức người cán bộ, đảng viên trong
văn kiện Đại hội X của Đảng", Tạp chí Triết học, (5).
80. Bùi Đình Phong (2006), Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán
bộ, Nxb Lao động, Hà Nội.
81. Trần Văn Phòng (2003), "Tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ lãnh đạo
chính trị hiện nay", Tạp chí Lý luận chính trị, (5).
82. Nguyễn Trọng Phúc (Chủ biên) (2011), Hồ Chí Minh từ hoạt động thực tiễn
đến tư duy lý luận, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
83. Thang Văn Phúc (2000), "Nâng cao chất lượng công tác giáo dục đạo đức
cộng sản trong điều kiện cải cách hành chính nhà nước", Tạp chí Cộng sản,
(11), tr.3-4.
84. Thang Văn Phúc, Nguyễn Minh Phương (Đồng chủ biên) (2005), Cơ sở lý
luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ công chức, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
85. Nguyễn Văn Phúc (2006), "Về việc tạo ra bước chuyển mạnh mẽ trong xây
dựng nền đạo đức mới ở nước ta hiện nay", Tạp chí Triết học, (11), tr.7-8.
86. Vũ Văn Phúc, Ngô Văn Thạo (2011), Những giải pháp và điều kiện thực
hiện phòng chống suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng
viên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
158
87. Nguyễn Thị Hoài Phương (2014), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách
mạng và sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
88. Đào Duy Quát (Chủ biên) (2004), Về giáo dục đạo đức cách mạng trong
cán bộ Đảng viên hiện nay, thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
89. Quốc hội (1946), Hiến pháp năm 1946, Hà Nội.
90. Quốc hội (2008), Luật Cán bộ, công chức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
91. Quốc hội (2010), Luật Viên chức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
92. Nguyễn Duy Quý, Hoàng Chí Bảo (Đồng chủ biên) (2006), Đạo đức xã hội
ở nước ta hiện nay - vấn đề và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
93. Phan Văn Sáu (2016), "Báo cáo về công tác phòng chống tham nhũng năm
2016", tại trang http://www.thanhtra.gov.vn, truy cập ngày 17/6/2017.
94. Huỳnh Phong Thanh (2011), Báo cáo công tác phòng chống tham nhũng
năm 2011, Hà Nội.
95. Nguyễn Đăng Thành, Võ Kim Sơn (Chủ biên) (2012), Giáo trình Đạo đức
công vụ, Nxb Lao động, Hà Nội.
96. Song Thành (2005), Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Lý luận chính
trị, Hà Nội.
97. Trần Thành (1996), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
98. Phạm Hồng Thái (2013), Pháp luật về công vụ và đạo đức công vụ, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
99. Trần Đình Thắng (2012), "Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên gắn với việc
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng", Tạp chí Tổ chức
nhà nước, (4).
100. Mạch Quang Thắng (Chủ biên) (2006), Vấn đề đảng viên và phát triển
đảng viên trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
159
101. Mạch Quang Thắng (Chủ biên) (2010), Nhân cách Hồ Chí Minh, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
102. Nguyễn Thế Thắng (Chủ biên) (2010), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào
xây dựng phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện
nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
103. Nguyễn Thị Thọ (2011), Xây dựng đạo đức gia đình ở nước ta hiện nay,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
104. Lê Văn Tích (Chủ biên) (2006), Đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống
- Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
105. Hoàng Trang, Phạm Ngọc Anh (2008), Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
với việc giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay, Nxb chính trị quốc
gia, Hà Nội.
106. Hoàng Trung (2010), Tư tưởng Hồ Chí Minh (qua các phạm trù Người đã
sử dụng), Nxb Đại học Quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh.
107. Nguyễn Tiến Trung (2010), "Vài nét về đạo đức công vụ của cán bộ, công
chức", Tạp chí Tổ chức Nhà nước, (8).
108. Đỗ Xuân Tuất (2012), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cách
mạng cho cán bộ, đảng viên với cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn đảng
hiện nay", Tạp chí lý luận chính trị, (7).
109. Nguyễn Mạnh Tường (2009), Tư tưởng Hồ Chí Minh: Một số nhận thức cơ
bản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
110. VACI (2011), "Chương trình sáng kiến phòng chống tham nhũng ở Việt
Nam 2011. "vì một ngày mai không tham nhũng!"", tại trang www. thanh
tra.gov.vn, truy cập ngày 25/5/2017.
111. Viện Ngôn ngữ học (1998), Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
112. Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh (1996),
Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, 10 tập, Nxb Thông tin lý luận và Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
113. Viện Thông tin khoa học xã hội (1996), Những vấn đề đạo đức trong điều
kiện kinh tế thị trường, Hà Nội.
160
114. Bùi Thế Vĩnh (2003), Xây dựng đạo đức cán bộ, công chức Việt Nam trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hội nhập quốc tế, Nxb
Thống kê, Hà Nội.
115. Đức Vượng (1995), Hồ Chí Minh với vấn đề đào tạo cán bộ, Nxb chính trị
quốc gia, Hà Nội.
116. Nguyễn Như Ý (1998), Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.