81
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008 http://hanhchinh.com.vn Sinh viên Học viện Hành chính 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, với 54 dân tc anh em cùng sinh sống, mỗi một cộng đồng dân tộc có mt nét văn hoá riêng độc đáo tạo nên một nền văn hoá Việt Nam đa dạng trong thống nhất. Hiện nay, quá trình phát triển kinh tế - xã hội cũng như hội nhập quốc tế đã ảnh hưởng tích cực cũng như hạn chế tới văn hoá của các dân tộc thiểu s. Trong đó dân tộc Cao Lan Tuyên Quang cũng vậy. Quá trình hình thành và phát triển tại Tuyên Quang của dân tộc Cao Lan đã tạo nên nét văn hoá độc đáo cho riêng mình. Tuy nhiên, hiện nay văn hoá của dân tộc Cao Lan Tuyên Quang đang đứng trước nhiều thách thức, một sgiá trvăn hoá truyền thống có nguy cơ bmai một thậm chí mất hẳn, việc tiếp thu tràn lan, không có chọn lọc các yếu tố văn hoá của các dân tộc khác đã dần làm mất đi bản sc riêng của mình, đặc biệt đối với lhội đình làng - nét sinh hoạt truyền thống cộng đồng hết sức ý nghĩa độc đáo của dân tộc Cao Lan. Thực hiện chtrương xây dựng nền văn hoá “Tiên tiến đậm đà bn sắc dân tộc” theo tinh thần Nghquyết Trung ương V khoá VIII của Ban Chấp hành Trung ương Đảng vxây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc những năm gần đây việc khôi phục và phát trin lhội đình làng của dân tộc Cao Lan đã được chú trọng đạt một skết qunhất định. Tuy nhiên, việc gigìn và phát triển loại hình lhội truyền thống này còn một shạn chế nhất định như: Phát trin tphát, thiếu tính định hướng; nhiều giá trvăn hoá truyền thống tại lhội có nguy cơ mai một dần; chính sách của các cấp chính quyền đối với việc phát triển lhội này còn hạn chế…Thực tế đó đòi hỏi phải có những giải pháp quản lý Nhà nước phù hợp để gigìn và phát huy loại hình lhội này. Trước nhu cầu mang tính cấp thiết đó, tác gimạnh dạn lựa chọn “ Một số giải

Luan Van Tot Nghiep

Embed Size (px)

DESCRIPTION

Luận văn Thạc sỹ về Lễ hội của người Cao Lan

Citation preview

Page 1: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, với 54 dân tộc anh em cùng sinh sống,

mỗi một cộng đồng dân tộc có một nét văn hoá riêng độc đáo tạo nên một nền

văn hoá Việt Nam đa dạng trong thống nhất. Hiện nay, quá trình phát triển kinh

tế - xã hội cũng như hội nhập quốc tế đã có ảnh hưởng tích cực cũng như hạn

chế tới văn hoá của các dân tộc thiểu số. Trong đó dân tộc Cao Lan ở Tuyên

Quang cũng vậy. Quá trình hình thành và phát triển tại Tuyên Quang của dân tộc

Cao Lan đã tạo nên nét văn hoá độc đáo cho riêng mình. Tuy nhiên, hiện nay

văn hoá của dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang đang đứng trước nhiều thách thức,

một số giá trị văn hoá truyền thống có nguy cơ bị mai một thậm chí mất hẳn,

việc tiếp thu tràn lan, không có chọn lọc các yếu tố văn hoá của các dân tộc khác

đã dần làm mất đi bản sắc riêng của mình, đặc biệt là đối với lễ hội đình làng -

nét sinh hoạt truyền thống cộng đồng hết sức ý nghĩa và độc đáo của dân tộc

Cao Lan.

Thực hiện chủ trương xây dựng nền văn hoá “Tiên tiến đậm đà bản sắc

dân tộc” theo tinh thần Nghị quyết Trung ương V khoá VIII của Ban Chấp hành

Trung ương Đảng về xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc

dân tộc những năm gần đây việc khôi phục và phát triển lễ hội đình làng của dân

tộc Cao Lan đã được chú trọng và đạt một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, việc

giữ gìn và phát triển loại hình lễ hội truyền thống này còn một số hạn chế nhất

định như: Phát triển tự phát, thiếu tính định hướng; nhiều giá trị văn hoá truyền

thống tại lễ hội có nguy cơ mai một dần; chính sách của các cấp chính quyền đối

với việc phát triển lễ hội này còn hạn chế…Thực tế đó đòi hỏi phải có những

giải pháp quản lý Nhà nước phù hợp để giữ gìn và phát huy loại hình lễ hội này.

Trước nhu cầu mang tính cấp thiết đó, tác giả mạnh dạn lựa chọn “ Một số giải

Page 2: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

2

pháp quản lý Nhà nƣớc để giữ gìn và phát triển lễ hội đình làng của dân tộc

Cao Lan ở Tuyên Quang ” làm đề tài cho khoá luận tốt nghiệp của mình.

Vì vấn đề nghiên cứu là một vấn đề rộng, phức tạp, thời gian nghiên cứu

còn hạn chế và một số khó khăn trong thu thập tài liệu nên khoá luận luận chắc

chắn không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Do đó, rất mong được sự đóng

góp ý kiến của quý thầy cô và các bạn để khoá luận được hoàn thiện hơn.

2. Tình hình nghiên cứu.

Nhận thức được vai trò quan trọng của việc bảo tồn và phát huy bản sắc

văn hoá dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang, những năm qua đã có một số công

trình nghiên cứu khoa học về văn hoá đồng bào dân tộc Cao Lan trong đó có đi

sâu nghiên cứu lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan như:

- Đề tài: “ Văn hoá truyền thống dân tộc Cao Lan ” năm 1993 – 1994;

Đề tài: “ Văn hoá truyền thống của một số dân tộc Tỉnh Tuyên Quang ” năm

1999 – 2000;

- Đề tài: “ Bảo tồn hát Sình ca dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang ” năm

2003 của Nịnh Văn Độ;

- Đề tài Luận văn Cao học của Đặng Chí Thông về “ Phong tục tập quán

và lễ hội của người Cao Lan ở xã Kim Phú, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang.

Tuy vậy chưa có đề tài nào nghiên cứu sâu về các giải pháp quản lý Nhà

nước để giữ gìn và phát triển lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan ở Tuyên

Quang, mặc dù vai trò của quản lý Nhà nước là hết sức quan trọng trong giai

đoạn hiện nay.

3. Mục tiêu của đề tài.

Trên cơ sở nghiên cứu, nhận xét đánh giá về một số thực trạng quản lý

Nhà nước đối với việc giữ gìn và phát triển lễ hội đình làng của đồng bào dân

tộc Cao Lan thời gian qua tại tỉnh Tuyên Quang, từ đó kiến nghị một số giải

pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý Nhà nước đối với việc giữ gìn

Page 3: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

3

và phát triển lễ hội đình làng của đồng bào dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang

trong thời gian tới.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.

- Đối tượng nghiên cứu: là hoạt động quản lý nhà nước đối với việc giữ

gìn và phát triển lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan.

- Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động quản lý Nhà nước trên địa bàn tỉnh

Tuyên Quang đặc biệt là huyện Yên Sơn – địa phương có đông dân cư là người

Cao Lan và là nơi duy nhất còn tồn tại lễ hội đình làng truyền thống.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu:

- Trong quá trình nghiên cứu, hoàn thành khoá luận tác giả triệt để sử

dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê

nin;

- Phương pháp thống kê, so sánh, đánh giá, điều tra xã hội học, phân tích

tổng hợp…;

- Phương pháp quan sát thực tiễn, trừu tượng hoá đối tượng;

6. Những đóng góp của khoá luận

Sau khi khoá luận hoàn thiện sẽ có những đóng góp nhất định xét trên

nhiều góc độ khác nhau, cụ thể là những đóng góp sau:

- Việc hoàn thiện vấn đề nghiên cứu sẽ giúp bổ sung lý luận về quản lý

Nhà nước đối với việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc thiểu số ở

Tuyên Quang;

- Góp phần bổ sung kiến thức thực tiễn về hoạt động quản lý Nhà nước

trên một lĩnh vực xã hội nhất định, cụ thể là lễ hội văn hoá - truyền thống của

đồng bào dân tộc thiểu số;

- Góp phần giới thiệu lễ hội đình làng - nét sinh hoạt văn hoá độc đáo của

đồng bào dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang với các địa phương cũng như với các

dân tộc thiểu số khác trên đất nước Việt Nam;

Page 4: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

4

- Tìm kiếm một số giải pháp quản lý Nhà nước mang tính thực tiễn cao để

giữ gìn và phát triển lễ hội truyền thống của dân tộc Cao Lan trong thời gian tới.

7. Kết cấu của Khoá luận:

Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, khoá luận được chia thành các phần như

sau:

Chƣơng 1. Khái quát chung về văn hoá truyền thống, lễ hội và vai trò của

Nhà nƣớc trong việc duy trì và phát triển văn hoá truyền thống.

Phần này tập trung giải thích một số nét khái quát về văn hoá truyền

thống, lễ hội truyền thống cũng như lý luận về vai trò của Nhà nước đối với

quản lý văn hoá truyền thống - lễ hội truyền thống làm nền tảng cho nghiên cứu

vấn đề ở các chương tiếp theo. Nội dung của chương này bao gồm khái quát về

văn hoá truyền thống trong thời kỳ hội nhập, vai trò của lễ hội truyền thống đối

với việc bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống, vai trò của Nhà nước đối với

việc duy trì và phát huy văn hoá truyền thống, hệ thống chính sách của Nhà

nước đối với việc duy trì và phát huy văn hoá truyền thống.

Chƣơng 2. Thực trạng về quản lý Nhà nƣớc đối với việc giữ gìn và phát

triển lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang.

Trong chương này, tác giả tập trung phân tích thực trạng việc tổ chức và

quản lý lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan để thấy được những mặt đã đạt

được và chưa đạt được trong việc bảo tồn và phát triển loại hình lễ hội này trên

địa bàn tỉnh Tuyên Quang. Phần này sẽ bao gồm các nội dung như: Khái quát

chung về lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang, cơ chế quản lý

đối với lễ hội truyền thống ở Tuyên Quang trong đó có lễ hội đình làng của dân

tộc Cao Lan, thực trạng tổ chức và quản lý lễ hội đình làng, đánh giá những kết

quả và hạn chế trong tổ chức và quản lý lễ hội đình làng của người Cao Lan, tìm

hiểu nguyên nhân của những hạn chế đó.

Chƣơng 3. Một số giải pháp quản lý Nhà nƣớc để giữ gìn và phát triển lễ

hội đình làng của dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang.

Page 5: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

5

Chương này tập trung đề ra phương hướng giữ gìn và phát triển lễ hội

đình làng của dân tộc Cao Lan trong thời gian tới và kiến nghị một số giải pháp

về quản lý Nhà nước để giữ gìn và phát triển lễ hội đình làng của người Cao Lan

trên cơ sở phân tích đánh giá thực trạng của tổ chức và quản lý lễ hội trong thời

gian qua, cũng như kinh nghiệm của các địa phương trong việc tổ chức và quản

lý lễ hội và phương hướng giữ gìn, phát triển lễ hội đình làng của dân tộc Cao

Lan đã nêu.

Page 6: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

6

CHƢƠNG 1

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VĂN HOÁ TRUYỀN THỐNG, LỄ HỘI VÀ

VAI TRÒ CỦA NHÀ NƢỚC TRONG VIỆC DUY TRÌ VÀ PHÁT TRIỂN

VĂN HOÁ TRUYỀN THỐNG

1.1 Văn hoá truyền thống trong thời kỳ hội nhập và phát triển

1.1.1 Các cách tiếp cận về văn hoá truyền thống

Để tìm hiểu về văn hoá truyền thống, trước hết cần tìm hiểu về văn hoá -

một khái niệm quan trọng khi nói đến văn hoá truyền thống.

a. Văn hoá

Văn hoá là một khái niệm rộng được bắt nguồn từ chữ Latinh: “ Cultura”

có nghĩa là sự cày cấy, vun trồng. Cùng với quá trình phát triển văn hoá ngày

càng có nội dung phong phú và có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Các nhà

nghiên cứu đã đưa ra nhiều khái niệm để phản ánh các góc độ của văn hoá. Bản

chất của văn hoá là rộng và đa dạng , do vậy các khái niệm về văn hoá chỉ mang

tính chất tương đối. Có thể đưa ra một số khái niệm về văn hoá như sau:

Theo nghĩa hẹp: Văn hoá là những chính kiến xã hội để quyết định những ứng

xử cá nhân trong xã hội đó.

Theo nghĩa rộng:

- Quan điểm của UNESCO : “ Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hoá là tổng

thể những nét riêng biệt về tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định

tính cách của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội. Văn hoá bao gồm

nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người,

những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng ”

Trong diễn văn khai mạc lễ phát động “ Thập niên thế giới phát triển văn hoá”

tại Pháp ngày 21-1-1998, ngài Tổng thư ký UNESCO cũng từng phát biểu: văn

hoá là tổng thể sống động các hoạt động dân tộc trong quá khứ cũng như trong

hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo đó đã hình thành nên một hệ thống

Page 7: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

7

giá trị , các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định riêng biệt của mỗi

dân tộc ”

- Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, tại Hội Nghị Ban Chấp Hành

Trung Ương lần thứ V ( Khoá VIII ) Đảng ta xác định: “ Văn hoá là nền tảng

tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh

tế xã hội ”, và xác định “ Văn hoá Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao

động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các

dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn

minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Văn hoá đã hun đúc nên tâm

hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc ”.

Còn Chủ tịch Hồ Chí Minh định nghĩa “ Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của

cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo

đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn hoá, văn nghệ, những công cụ cho sinh

hoạt hàng ngày về mặc, ở và các phương thức sử dụng toàn bộ những sáng tạo

và phát minh đó tức là văn hoá ”

Như vậy, văn hoá có nhiều khái niệm khác nhau dưới các góc độ khác

nhau. Quan trọng nhất văn hoá được xem như tất cả những giá trị vật chất và

tinh thần do con người sáng tạo ra phục vụ nhu cầu sống của con người trong

quá trình phát triển và là một nền tảng tinh thần không thể thiếu trong đời sống

của con người.

b. Văn hoá truyền thống.

Văn hoá truyền thống là một khái niệm chỉ những nét văn hoá riêng biệt

của một cộng đồng xã hội, được hình thành cùng với quá trình phát triển của

cộng đồng xã hội đó và được lưu truyền qua các thế hệ; cụ thể là tính cách, là

đạo đức, là phong tục tập quán, tư tưởng, lối sống, thói quen…. Văn hoá truyền

thống tạo nên bản sắc dân tộc, là nét văn hoá riêng biệt của một cộng đồng xã

hội, tồn tại và phát triển cùng lịch sử phát triển cộng đồng. Nét văn hoá đó đã ăn

sâu vào trong nếp sống cũng như nếp nghĩ của cộng đồng xã hội đó.

Page 8: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

8

Như vậy có thể quan niệm văn hoá truyền thống là toàn bộ giá trị, thành

quả, thành tựu vật chất và tinh thần của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, được

lưu giữ và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, hun đúc nên tâm hồn, khí

phách, bản lĩnh dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ

vang của dân tộc Việt Nam.

Hay nói cách khác văn hoá truyền thống là đặc điểm đã in thành nếp sâu

đậm trong tâm hồn, tình cảm , lối diễn đạt, tư duy của một cộng đồng qua bao

thế kỷ gắn bó với nhau cùng phát triển.

Có thể nói văn hoá truyền thống là yếu tố cốt lõi của văn hoá dân tộc, nó

là yếu tố quyết định bản sắc độc đáo của một nền văn hoá. Nền văn hoá truyền

thống mà bị mai một hay mất đi thì một dân tộc sẽ mất đi chính bản thân mình.

Do đó, việc giữ gìn và phát triển văn hoá truyền thống là một nhiệm vụ quan

trọng hàng đầu của mỗi cộng đồng dân tộc, quốc gia trong giai đoạn hiện nay.

1.1.2 Đặc trƣng văn hoá truyền thống.

Văn hoá truyền thống là những giá trị sáng tạo, quan điểm thẩm mỹ của

dân tộc, các chuẩn mực về tư tưởng đạo đức, giao tiếp ứng xử, phong tục, lễ

nghi… thông qua đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc. Do đó văn hoá

truyền thống có các đặc trưng như sau:

Thứ nhất, văn hoá truyền thống mang tính lịch sử: Văn hoá truyền thống

hình thành và bồi đắp qua quá trình phát triển lâu dài của cộng đồng, dân tộc.

Cộng đồng chính là nơi văn hoá truyền thống được hình thành và phát triển. Qua

quá trình lao động sáng tạo của con người, những nét đẹp văn hoá dần được hình

thành và bồi đắp qua thời gian. Văn hoá truyền thống không phải cái có sẵn, và

khi có rồi không phải không cần bồi đắp. Có những giá trị nếu không được bồi

đắp cùng với quá trình phát triển của con người sẽ bị mai một dần và mất hẳn.

Tính lịch sử của văn hoá truyền thống thể hiện qua sự kế thừa các giá trị truyền

thống. Văn hoá truyền thống của mỗi thời kỳ lịch sử mang dấu ấn của thời kỳ đó

Page 9: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

9

đồng thời kế thừa những giá trị của thời kỳ trước đó và là nền tảng cho thời kỳ

tiếp theo phát triển.

Thứ hai, văn hoá truyền thống là một bộ phận của văn hoá, nó được dùng

để phân biệt với tính hiện đại mà nền văn hoá đã tiếp thu trong quá trình phát

triển. Nếu như văn hoá hiện đại là những giá trị văn hoá mới được tiếp thu thì

văn hoá truyền thống là những giá trị đã hình thành và tồn tại từ lâu, được bồi

đắp qua nhiều thế hệ, nhiều giai đoạn. Tuy vậy, trên thực tế thì văn hoá truyền

thống và tính hiện đại của văn hoá cũng có sự đan xen và kế thừa lẫn nhau. Văn

hoá truyền thống là hệ thống các giá trị và các chuẩn mực lâu đời điều chỉnh các

hoạt động cũng như quan hệ cộng đồng xã hội. Chẳng hạn những giá trị truyền

thống văn hoá như tương thân tương ái, đồng cam cộng khổ hay yêu nước

thương dân, tính cố kết cộng đồng… là những giá trị văn hoá tốt đẹp đã tồn tại

lâu đời và được bồi đắp qua nhiều thế hệ. Do đó có thể khẳng định văn hoá

truyền thống mang tính lâu đời.

Thứ ba, Văn hoá truyền thống cũng mang tính giá trị. Xét về giá trị của

văn hoá truyền thống thì nó bao gồm cả những giá trị mang tính tích cực và

những giá trị không còn phù hợp với đời sống hiện tại nữa. Những giá trị tích

cực và còn phù hợp với đời sống hiện tại sẽ được giữ gìn, bảo tồn và phát huy.

Còn những giá trị văn hoá không còn phù hợp nữa sẽ bị cải biến dần cho phù

hợp hoặc sẽ bị loại bỏ khỏi nền văn hoá mới mà xã hội đang xây dựng. Chẳng

hạn như, những giá trị truyền thống tốt đẹp như truyền thống tương thân tương

ái, truyền thống đoàn kết… sẽ được phát huy, còn những giá trị truyền thống

không còn phù hợp như những tập tục rườm rà, những hủ tục lạc hậu, mê tín dị

đoan không còn phù hợp…sẽ bị cải tiến thành phong tục phù hợp, hay loại bỏ

hẳn để nền văn hoá phát huy vai trò đối với sự phát triển xã hội. Do đó vấn đề

giữ gìn và phát huy văn hoá dân tộc cần xác định rõ đâu là những giá trị văn hoá

cần giữ gìn và phát huy và cái nào cần cải tiến hay loại bỏ.

Page 10: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

10

Thứ tư, văn hoá truyền thống mang tính giáo dục sâu sắc. Văn hoá truyền

thống mang trong mình những khuôn mẫu ứng xử, làm nền tảng cho những hành

vi trong xã hội. Văn hoá truyền thống cũng thể hiện tính giáo dục của mình đối

với xã hội thông qua việc hướng con người hành động đúng với truyền thống

vốn có của cộng đồng mà cả xã hội đã thừa nhận và làm theo. Nó là chuẩn mực

xã hội để con người noi theo và thực hiện. Những phong tục tập quán, những

hoạt động văn hoá mang tính cộng đồng như các lễ nghi, lễ hội đều mang trong

mình những giá trị giáo dục cộng đồng sâu sắc. Phần lớn những nét truyền thống

văn hoá đó giáo dục cho cộng đồng xã hội biết trân trọng và phát huy thành quả

của quá trình xây dựng và phát triển xã hội mà cha ông nhiều thế hệ đã dày công

vun đắp. Hơn nữa thông qua các lễ nghi truyền thống giáo dục con người biết ơn

tổ tiên cha ông đã sinh thành và dưỡng dục, biết ơn các thế hệ đi trước. Đây là

một nét văn hoá tốt đẹp của cộng đồng xã hội. Phát huy những giá trị văn hoá

này cũng đồng nghĩa với việc phát huy nền tảng tinh thần cho xã hội, định

hướng cho xã hội hoạt động tốt hơn, phù hợp hơn với môi trường sống hiện đại.

Thứ năm, văn hoá truyền thống mang tính bền vững. Những giá trị văn

hoá truyền thống bao giờ cũng tồn tại lâu đời và được xã hội thừa nhận và trân

trọng giữ gìn qua nhiều thế hệ. Nó trở thành một bộ phận không thể thiếu của xã

hội. Nó giống như động lực cho con người lao động sản xuất tốt hơn. Chẳng hạn

như truyền thống các ngày lễ tết là một thí dụ. Trải qua bao biến cố của lịch sử

phát triển, truyền thống lễ tết ở Việt Nam vẫn tồn tại và phát triển, nó là một bộ

phận của cuộc sống con người Việt Nam. Sau những tháng ngày lao động vất vả

dịp lễ tết là thời gian để mọi người nghỉ ngơi lấy lại tinh thần tiếp tục công việc,

là dịp để mọi người thể hiện lòng biết ơn tới tổ tiên, ông bà, cha mẹ, và cũng là

dịp mọi người quan tâm tới nhau, tới tình làng nghĩa xóm... Có lẽ không một gia

đình Việt Nam nào lại nằm ngoài giá trị văn hoá truyền thống đó. Dó đó có thể

nói rằng văn hoá truyền thống là một hiện tượng xã hội gắn liền với sự phát triển

xã hội, khó có thể mất đi cho dù xã hội có nhiều biến động. Đồng thời tính bền

Page 11: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

11

vững của văn hoá còn thể hiện cả những mặt bảo thủ, trì trệ. Những mặt bảo thủ,

trì trệ này tồn tại một cách bền bỉ, dai dẳng cùng với quá trình phát triển. Đặc

điểm này đòi hỏi trong quản lý Nhà nước đối với văn hoá truyền thống cần có

tác động thích hợp để nhanh chóng loại bỏ tính bảo thủ, trì trệ của những giá trị

đã lạc hậu không phù hợp với quá trình phát triển, nhằm tạo điều kiện cho văn

hoá truyền thống phát triển tốt nhất theo định hướng.

1.1.3 Vai trò của văn hoá truyền thống đối với sự phát triển xã hội và quá

trình hội nhập quốc tế.

Đánh giá vai trò của văn hoá Đảng ta đã khẳng định: “ Văn hoá là nền

tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển

kinh tế xã hội ”( Nghị quyết trung ương V khoá VIII của Ban Chấp Hành Trung

ương Đảng ).

Văn hoá truyền thống là nòng cốt của nền văn hoá nói chung, quá trình

phát triển xã hội không thể không trân trọng những vai trò to lớn của văn hoá

truyền thống. Văn hoá truyền thống là nền tảng tinh thần cho xã hội, nó biểu

hiện sức mạnh tiềm tàng và bản lĩnh của một dân tộc và được biểu hiện thông

qua những truyền thống và hệ giá trị mang tính đặc trưng cho bản sắc văn hoá

của dân tộc. Truyền thống và hệ giá trị này được thấm nhuần trong mỗi con

người và cả cộng đồng, dân tộc; được chắt lọc, kế thừa và phát triển, phát huy

qua các thế hệ; được vật chất hoá trong các cấu trúc thiết chế chính trị - xã hội

và trong hoạt động sống của cả dân tộc. Là nền tảng tinh thần của xã hội, văn

hoá truyền thống cũng như văn hoá biểu hiện sức sống, sức phát triển, sự hiểu

biết và trí tuệ, đạo lý, tâm hồn…của con người, của dân tộc và trong mối quan

hệ của con người với đồng loại, với xã hội, với tự nhiên được xây dựng và bồi

đắp nên trong suốt chiều dài lịch sử.

Đối với xã hội có một nền tảng tinh thần vững chắc thì mới có sự phát

triển về kinh tế xã hội. Nhìn nhận yếu tố quyết định đối với sự phát triển xã hội

thì con người đứng ở vị trí trung tâm. Chính con người chứ không phải lực

Page 12: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

12

lượng nào khác quyết định sự phát triển của mình. Đánh giá vai trò của con

người đối với sự phát triển thì con người “vừa là mục tiêu vừa là động lực” của

sự phát triển. Con người với tài năng và óc sáng tạo của mình làm ra của cải vật

chất cho chính bản thân mìn và cho xã hội. Muốn có được năng suất lao động

cao, hiệu quả con người phải có trí tuệ, phải có trình độ khoa học công nghệ, và

đặc biệt phải có sức khoẻ, sức khoẻ ở đây bao gồm thể lực và trí lực. Mà con

người có phát triển toàn diện thì mới có được sức khoẻ đó, văn hoá truyền thống

chính là một yếu tố quan trọng hàng đầu tạo nên một con người vừa có sức khoẻ

về thể chất vừa khoẻ về tâm hồn để lao động và sáng tạo.

Hơn thế nữa, văn hoá truyền thống là một phương tiện giáo dục xã hội

góp phần tạo nên một giá trị vô cùng quan trọng đối với bản thân mỗi con người

và với cả xã hội. Đó là yếu tố tài và đức. Đây là hai yếu tố tạo nên một con

người mới với trình độ văn hoá cao, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự

phát triển của xã hội. Văn hoá truyền thống với những hệ giá trị như chăm chỉ

cần cù, chịu thương chịu khó, tương thân tương ái… sẽ giúp con người phát huy

được mọi khả năng sáng tạo của mình trong học tập cũng như trong lao động sản

xuất, dưới sự giúp đỡ của cộng đồng. Cũng nhờ những giá trị của văn hoá truyền

thống đã giáo dục cho con người dần hoàn thiện giá trị đạo đức của mình trở

thành con người có trí đức hoàn thiện để cùng cộng đồng phát triển.

Như vậy, văn hoá truyền thống là một yếu tố vô cùng quan trọng trong

việc xây dựng con người mới – mục tiêu và động lực của sự phát triển. Con

người mới với sức khoẻ và trí tuệ mới sẽ là lực lượng quyết định đối với mọi sự

phát triển. Vì thế chăm lo xây dựng con người mới không thể không chăm lo

xây dựng văn hoá cho cộng đồng xã hội, đặc biệt là văn hoá truyền thống dân

tộc. Hay nói cách khác chăm lo giữ gìn và phát huy văn hoá truyền thống chính

là chăm lo xây dựng con người mới, là tạo động lực cho các quá trình phát triển.

Không chỉ có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội của

đất nước, văn hoá truyền thống còn đóng vai trò quan trọng trong giao lưu hội

Page 13: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

13

nhập với quốc tế. Quá trình hội nhập là một quá trình giao lưu giữa các quốc gia

với nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực văn

hoá. Các quốc gia thông qua quá trình hội nhập, sẽ giao lưu, trao đổi kinh

nghiệm cũng như các tinh hoa văn hoá với nhau làm phong phú thêm nền văn

hoá nước nhà. Tham gia hội nhập quốc tế là một đòi hỏi tất yếu khách quan của

các quốc gia. Muốn phát triển, các quốc gia không thể không tham gia vào quá

trình vận động chung của quá trình hội nhập. Hội nhập chính là cơ hội để các

quốc gia cùng nhau giải quyết nhiều vấn đề kinh tế xã hội mang tính toàn cầu.

Phải nhận thấy rằng vấn đề tham gia hội nhập với khu vực và thế giới của các

quốc gia không chỉ là sự hội nhập về mặt chính trị, do các Chính Phủ đảm nhận,

mà có cả sự tham gia của người dân. Có thể nói sự tham gia hội nhập của người

dân chính là yếu tố mở đường cho các quốc gia hội nhập sâu rộng hơn. Quan hệ

giữa nhân dân các nước là điều kiện tiền đề cho các quốc gia quan hệ với nhau

thân thiết hơn về mọi mặt. Sự giao lưu của nhân dân các nước trên nhiều lĩnh

vực trước hết phải là sự giao lưu về mặt văn hoá. Văn hoá truyền thống tham gia

vào quá trình hội nhập quốc tế hay toàn cầu hoá với tư cách là yếu tố khẳng định

tính riêng biệt độc đáo của một dân tộc. Tính riêng biệt độc đáo đó là nền tảng

để các quốc gia khẳng định bản sắc của riêng mình, từ đó có thể mở rộng quan

hệ trên nhiều lĩnh vực xã hội khác nhau như kinh tế, chính trị, giáo dục hay y

tế…

Trong giao lưu hợp tác quốc tế, tính dân tộc của văn hoá truyền thống

nhiều khi quyết định đến tính chất và mức độ của quan hệ quốc tế trên các lĩnh

vực. Chẳng hạn như, với những nét văn hoá đặc sắc, truyền thống văn hoá mang

đậm nét cổ truyền sẽ giúp các quốc gia mở rộng hợp tác về du lịch văn hoá

truyền thống, với truyền thống cần cù, ham học hỏi của người lao động Việt

Nam là yếu tố thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam để phát triển kinh tế.

Cùng với quá trình hội nhập, văn hoá truyền thống sẽ làm sợi dây liên kết các

quốc gia lại với nhau cùng hợp tác và phát triển trên nhiều lĩnh vực khác. Đồng

Page 14: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

14

thời văn hoá truyền thống của dân tộc cũng chính là yếu tố để khẳng định mình

cùng với bạn bè thế giới. Một quốc gia dân tộc tham gia vào một sân chơi rộng

lớn lại không khẳng định được mình là ai thì chắc chắn một điều rằng mối quan

hệ với các quốc gia khác không thể bền vững được. Điều này khẳng định rằng,

không có tính độc đáo cá biệt của mình sẽ không thể tham gia hội nhập được.

Tính độc đáo của riêng mình trong mỗi quốc gia chỉ có được nhờ văn hoá truyền

thống dân tộc hay bản sắc dân tộc đó mà thôi.

Chính vì những điều này mà UNESCO đã phát động “ Thập niên thế giới

phát triển văn hoá ” trong đó có đề cao yếu tố các quốc gia phải đặc biệt quan

tâm tới quá trình bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá độc đáo của mình. Đó

chính là nền tảng cho sự phát triển và tham gia hội nhập quốc tế. Hễ quốc gia

nào mà không quan tâm phát triển văn hoá, đặc biệt văn hoá truyền thống và coi

văn hoá như một nhân tố điều tiết xã hội, gắn với phát triển kinh tế thì quốc gia

đó sẽ bị mất cân đối trong phát triển và không còn là bản thân mình nữa. Điều

này cho thấy vai trò của văn hoá truyền thống đã được các quốc gia thừa nhận,

và đã trở thành một chương trình hoạt động chung của cộng đồng quốc tế vì mục

tiêu phát triển con người. Không chăm lo bảo vệ và phát huy văn hoá truyền

thống đồng nghĩa với dân tộc đó tự đánh mất mình, đồng nghĩa với việc mất văn

hoá dân tộc là mất nước, chịu sự lệ thuộc về văn hoá, đất nước, dân tộc đó sẽ

không thể tồn tại độc lập được.

Như vậy, văn hoá, và văn hoá truyền thống là một yếu tố có ý nghĩa và

vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển nói chung và quá trình hội nhập

quốc tế nói riêng. Chăm lo giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá truyền thống dân

tộc chính là chăm lo cho sự phát triển bền vững của dân tộc và làm cho văn hoá

nhân loại thêm phong phú hơn.

1.2 Lễ hội truyền thống - một hoạt động quan trọng góp phần duy trì và

phát triển văn hoá truyền thống

1.2.1 Lễ hội truyền thống và các loại hình lễ hội

Page 15: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

15

a. Lễ hội truyền thống

Lễ hội truyền thống là loại hình sinh hoạt văn hoá, sản phẩm tinh thần của người

dân được hình thành và phát triển trong quá trình lịch sử. Người Việt Nam từ

hàng ngàn đời nay có truyền thống “uống nước nhớ nguồn”. Lễ hội là sự kiện

thể hiện truyền thống quý báu đó của cộng đồng, tôn vinh những hình tượng

thiêng, được định danh là những vị “Thần” - những người có thật trong lịch sử

dân tộc hay huyền thoại. Hình tượng các vị thần linh đã hội tụ những phẩm chất

cao đẹp của con người. Đó là những anh hùng chống giặc ngoại xâm; những

người khai phá vùng đất mới, tạo dựng nghề nghiệp; những người chống chọi

với thiên tai, trừ ác thú; những người chữa bệnh cứu người; những nhân vật

truyền thuyết đã chi phối cuộc sống nơi trần gian, giúp con người hướng thiện,

giữ gìn cuộc sống hạnh phúc... Lễ hội là sự kiện tưởng nhớ, tỏ lòng tri ân công

đức của các vị thần đối với cộng đồng, dân tộc và là dịp để mọi người gặp gỡ

nhau, giao lưu sinh hoạt văn hoá với nhau.

b. Các loại hình lễ hội

Theo tính chất của lễ hội truyền thống, có:

- Lễ hội mang tính tính ngưỡng: Tết truyền thống, Lễ hội Đền Hùng, Lễ hội

Chùa Hương, Lễ hội Cầu Mùa… Đây là loại lễ hội truyền thống có số lượng lớn

nhất

- Lễ hội văn nghệ dân gian: Hội Chèo, Hội Lim…

Theo phạm vi, quy mô:

- Lễ hội cấp quốc gia: Lễ hội Đền Hùng,

- Lễ hội cấp Tỉnh: Lễ hội truyền thống Cố đô Hoa Lư ( Ninh Bình ), Lễ hội

Chùa Hương ( Hà Tây ), Hội Lim ( Bắc Ninh )…

- Lễ hội cấp Huyện: Hội đền Thái Vi ( Ninh Bình), Hội chùa Keo ( Hà Tây),…

- Lễ hội cấp xã: Đây là loại lễ hội chiếm số lượng lớn nhất với các hình thức tổ

chức phong phú mang đậm nét truyền thống của cộng đồng từng làng quê Việt

Nam

Page 16: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

16

Theo quy chế tổ chức và quản lý lễ hội, gồm

- Lễ hội dân gian

- Lễ hội lịch sử cách mạng

- Lễ hội tôn giáo

- Lễ hội có nguồn gốc từ nước ngoài du nhập vào Việt Nam

1.2.2 Đặc điểm của lễ hội truyền thống

Tính cộng đồng. Mỗi một lễ hội truyền thống đều mang tính cộng đồng

sâu sắc. Tính cộng đồng của lễ hội thể hiện ở chỗ chính từ cộng đồng mà lễ hội

truyền thống được hình thành nên. Lễ hội truyền thống được ra đời phục vụ nhu

cầu của cộng đồng, đó là nhu cầu tín ngưỡng; nhu cầu giao lưu, sinh hoạt văn

hoá với nhau…Hơn nữa cộng đồng chính là mảnh đất để cho các lễ hội truyền

thống tồn tại và phát triển. Lễ hội ra đời phục vụ cho nhu cầu văn hoá cũng như

tâm linh của con người. Vì thế lễ hội truyền thống gắn kết chặt chẽ với cộng

đồng xã hội. Một lễ hội được tổ chức mà không được cộng đồng tham gia,

không được cộng đồng coi trọng thì chắc chắn lễ hội đó không mang tính cộng

đồng cao.

Hầu hêt các lễ hội truyền thống đều có đặc điểm là bao gồm hai phần

chính là phần lễ và phần hội. Phần lễ mang tính trang nghiêm, mang ý nghĩa tín

ngưỡng sâu sắc. Phần lễ thường là những nghi thức trang trọng thể hiện sự tạ ơn

đối với những người có công với cộng đồng và cầu mong cho mưa thuận gió

hoà, cầu cho cuộc sống được bình an, hạnh phúc. Còn phần hội chính là phần

sinh hoạt văn hoá của cộng đồng. Phần hội này bao gồm các trò chơi dân gian

truyền thống, vừa có tác dụng thu hút mọi người tham gia lễ hội vừa có tác dụng

giải trí, tạo tâm lý thoản mái cho người dân để chuẩn bị bước vào vụ sản xuất

mới, đồng thời làm tăng tính cố kết cộng đồng, tinh thần đoàn kết của người dân

trong làng xã. Xét về nguồn gốc, phần lớn các trò chời dân gian đều xuất phát từ

ước vọng thiêng liêng của người nông dân. Ví dụ trò pháo đất, đốt pháo, trò thả

diều… xuất phát từ tiếng sấm cầu mưa thuận gió hoà; trò cướp cầu, đánh đáo,

Page 17: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

17

ném còn thì thể hiện ước vọng cầu an; trò thi bắt lợn, thi thổi cơm, trò đập niêu

thể hiện mong ước chân cứng đa mềm, nhanh chân nhanh tay, sức khoẻ dẻo

dai…..

Tính giáo dục sâu sắc.

Lễ hội truyền thống là dịp để cho mỗi người trở về với cội nguồn, vừa là

dịp để cho mỗi người gặp nhau sau những lo toan của cuộc sống hàng ngày. Lễ

hội là dịp để mọi người thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, biết ơn với

những người có công với làng xã, với đất nước. Qua lễ hội, mỗi người có dịp

bày tỏ lòng biết ơn đó, được ôn lại lịch sử cũng như được thấm nhuần các giá trị

to lớn của truyền thống mà cha ông đã để lại. Qua các nghi thức cúng lễ, qua các

trò chơi dân gian, các thế hệ truyền lại cho nhau những giá trị truyền thống to

lớn mà cha ông đã dày công vun đắp nên. Tất cả đều một mục đích giáo dục cho

thế hệ sau biết trân trọng, giữ gìn những gì cha ông đã hy sinh cả sương máu và

tính mạng tạo nên, đồng thời giáo dục cho các thế hệ đạo lý uống nước nhớ

nguồn của dân tộc, khơi dậy tinh thần đoàn kết tương thân tương ái, giúp đỡ

nhau cùng phát triển

1.2.3 Vai trò của lễ hội truyền thống trong việc duy trì và phát triển văn hoá

truyền thống

Lễ hội truyền thống là một hoạt động sinh hoạt văn hoá của cộng đồng xã

hội. Nó có vai trò quan trọng đối với đời sống xã hội nói chung và với việc duy

trì và phát huy văn hoá truyền thống nói riêng. Vai trò đó được biểu hiện qua các

mặt như sau:

Lễ hội là dịp con người được trở về nguồn, nguồn cội tự nhiên hay nguồn

cội của dân tộc đều có ý nghĩa thiêng liêng trong tâm trí mỗi người. Trở về với

cội nguồn con người thể hiện lòng tri ân của mình với các thế hệ trước, thể hiện

tấm trân tình đối với cha ông đã sinh thành, dưỡng dục và để lại thành quả cho

các thế hệ kế tiếp. Nhớ về cội nguồn, nhớ về công lao của cha ông chính là đạo

lý “ uống nước nhớ nguồn ”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây ” đã tồn tại từ bao đời

Page 18: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

18

nay của dân tộc Việt Nam. Lễ hội chính là dịp để mỗi người thể hiện đạo lý

truyền thống tốt đẹp đó của dân tộc ta. Do đó có thể nói rằng, lễ hội đóng vai trò

hết sức quan trọng trong việc giữ gìn các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc

ta.

Lễ hội còn thể hiện sức mạnh cộng đồng làng xã, địa phương hay rộng

hơn là quốc gia dân tộc. Họ thờ chung vị thần, có chung mục tiêu đoàn kết để

vượt qua gian khó, giành cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Sức mạnh to lớn của tinh

thần đoàn kết từ bao đời nay của cha ông ta được thể hiện thông qua lễ hội.

Cộng đồng cùng nhau chia sẻ những kinh nghiệm lao động sản xuất, chia sẻ

kinh nghiệm sống, tương trợ lẫn nhau theo tinh thần “ là lành đùm lá rách” để

cùng nhau phát triển. Lễ hội cũng chính là nơi con người có thể hiểu nhau hơn.

Nếu không có lễ hội thì cơ hội để cộng đồng hiểu biết nhau, chia sẻ với nhau

những kinh nghiệm của cuộc sống sẽ khó khăn hơn do những lo toan, bươn trải

cho cuộc sống. Vì vậy, lễ hội là mảnh đất cho tinh thần đoàn kết giúp đỡ nhau

trong cộng đống xã hội phát triển.

Lễ hội cũng là nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ những giá trị văn hoá vật

chất và tinh thần của mọi tầng lớp dân cư; là hình thức giáo dục, lưu giữ và

chuyển giao cho các thế hệ sau biết giữ gìn, kế thừa và phát huy những giá trị

đạo đức truyền thống quý báu của dân tộc theo cách riêng, kết hợp giữa yếu tố

tâm linh và các trò chơi đua tài, giải trí…Lễ hội là nơi có tính giáo dục sâu sắc,

đặc biệt là giáo dục về những giá trị truyền thống. Cùng với lễ hội các giá trị

truyền thống của dân tộc được tái hiện lại một cách sinh động thông qua các

nghi lễ, các trò chơi dân gian, các làn điệu dân ca dân vũ…tất cả đều tái hiện lại

những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Việc tái hiện lại những giá trị

truyền thống đó chính là việc chuyển giao lại cho các thế hệ sau giữ gìn, bảo tồn

và phát huy giá trị của chúng. Bên cạnh đó, lễ hội cũng là dịp để con người sáng

tạo văn hoá, giao lưu văn hoá với các nền văn hoá khác. Đây cũng là cơ hội để

Page 19: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

19

cho các giá trị truyền thống được quảng bá rộng rãi và phát huy trong cuộc sống

của cộng đồng.

Như vậy, có thể nói lễ hội truyền thống là nơi hội tụ, là mảnh đất màu mỡ

để cho văn hoá truyền thống phát triển. Những giá trị truyền thống tốt đẹp của

dân tộc được lưu giữ , bảo tồn và phát huy thông qua lễ hội. Do vậy lễ hội là một

điều kiện quan trọng để văn hoá truyền thống tại và phát huy, việc khôi phục và

phát triển các lễ hội truyền thống cũng chính là việc giữ gìn và phát triển văn

hoá truyền thống của dân tộc.

1.3 Sự cần thiết của quản lý Nhà nƣớc về văn hoá để duy trì và phát huy

văn hoá - lễ hội truyền thống

1.3.1 Vai trò của Nhà nƣớc đối với việc duy trì và phát huy văn hoá - lễ hội

truyền thống

a. Vai trò của Nhà nước.

Vai trò định hướng hoạt động

Duy trì và phát huy văn hoá truyền thống là nhiệm vụ quan trọng của toàn

xã hội trong sự nghiệp phát triển văn hoá nước nhà. Muốn cho nền văn hoá của

đất nước đặc biệt là văn hoá truyền thống phát triển một cách đúng đắn thì phải

có một định hướng nhất định. Vai trò định hướng cho văn hoá truyền thống

được bảo tồn và phát triển thuộc về Nhà nước. Nhà nước định hướng cho văn

hoá truyền thống phát triển theo một mục tiêu, một đường hướng nhất định. Sự

định hướng của Nhà nước giúp cho văn hoá truyền thống dân tộc được chọn lọc

và phát huy những giá trị văn hoá tốt đẹp của mình đồng thời loại bỏ những giá

trị mang tính lạc hậu, không còn phù hợp với cuộc sống đương đại nữa. Như

vậy, vai trò định hướng của Nhà nước ở đây chính là việc hướng cho những giá

trị nào là tốt đẹp, là tích cực có vai trò quan trọng trong cuộc sống cộng đồng

được bảo tồn và phát huy, đồng thời xác định những gì đã lạc hậu hay mang tính

chất không có lợi cũng như không còn phù hợp nữa để có biện pháp loại bỏ hoặc

thay thế cho phù hợp.

Page 20: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

20

Trong những năm qua, vai trò định hướng của Nhà nước đối với việc duy

trì và phát huy văn hoá truyền thống đã được thể hiện thông qua các chủ trương,

đường hướng phát triển văn hoá và các văn bản quản lý. Trong đó có định

hướng những giá trị truyền thống cần được bảo tồn và phát triển, đồng thời cũng

quy định những giá trị lạc hậu cần loại bỏ. Chẳng hạn như trong Quy chế tổ

chức lễ hội ban hành kèm theo Quyết định số 09/2001/QĐ-BVHTT của Bộ

trưởng Bộ Văn hoá Thông tin có quy định về mục tiêu của việc tổ chức lễ hội tại

điều 2 như sau:

“ 1. Tưởng nhớ công đức các anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa, các liệt sĩ,

các bậc tiền bối đã có công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

2. Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tinh thần của cộng đồng các dân tộc

Việt Nam.

3. Đáp ứng nhu cầu văn hóa, tín ngưỡng, tham quan các di tích lịch sử - văn

hóa, danh lam thắng cảnh, công trình kiến trúc nghệ thuật, cảnh quan thiên

nhiên và các nhu cầu chính đáng khác của nhân dân. ”

Đồng thời quy định cả những điều cấm trong lễ hội, được quy định tại điều 3

như sau:

“1. Lợi dụng lễ hội để tổ chức các hoạt động chống lại Nhà nước Cộng hòa xã

hội chủ nghĩa Việt Nam, gây mất trật tự, an ninh, tuyên truyền trái pháp luật,

chia rẽ đoàn kết dân tộc.

2. Tổ chức các hoạt động mê tín dị đoan, phục hồi hủ tục trái với thuần phong

mỹ tục của dân tộc.

3. Tổ chức các dịch vụ sinh hoạt ăn nghỉ và dịch vụ tín ngưỡng trong khu vực

nội tự.

4. Đánh bạc dưới mọi hình thức.

5. Đốt đồ mã (nhà lầu, xe, ngựa, đồ dùng sinh hoạt...).

6. Những hành vi vi phạm pháp luật khác.”

Page 21: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

21

Như vậy, Quy chế đã quy định những mục đích cụ thể của việc tổ chức lễ hội,

đồng thời nghiêm cấm các hành vi không đi đúng với mục đích tổ chức lễ hội

gây ảnh hưởng xấu đến môi trường văn hoá truyền thống. Điều này thể hiện rõ

sự định hướng của Nhà nước cho việc tổ chức và quản lý lễ hội, một nét sinh

hoạt văn hoá truyền thống của cộng đồng xã hội.

Vai trò hỗ trợ.

Nhà nước không chỉ có vai trò định hướng đối với sự phát triển văn hoá

truyền thống mà còn đóng vai trò là lực lượng hỗ trợ cho văn hoá truyền thống

được duy trì và phát huy theo sự định hướng của Nhà nước. Nhà nước hỗ trợ

cho văn hoá truyền thống được duy trì và phát triển thông qua các hình thức sau:

Thứ nhất là hỗ trợ về mặt kinh phí hoạt động. Văn hoá truyền thống để

được duy trì và phát huy theo định hướng của Nhà nước cần có kinh phí để thực

hiện. Ngoài kinh phí do cộng đồng xã hội đóng góp, cần có một khoản kinh phí

hỗ trợ từ phía Nhà nước cũng như hỗ trợ về mặt quản lý và sử dụng kinh phí cho

các hoạt động. Kinh phí thực hiện việc duy trì và phát huy văn hoá truyền thống

là yếu tố hết sức quan trọng, nó là một yếu tố quyết định tới sự thành công hay

không của sự nghiệp phát triển văn hoá. Trong thực tế của sự nghiệp phát triển

văn hoá, đặc biệt là vấn đề bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống đã có nhiều

trường hợp do thiếu kinh phí tổ chức hoạt động mà các giá trị của văn hoá không

được bảo tồn và phát huy. Do đó, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ về mặt

kinh phí để thực hiện việc duy trì và phát huy văn hoá truyền thống.

Thứ hai là hỗ trợ về mặt pháp lý. Cũng như các lĩnh vực khác, văn hoá

truyền thống cũng cần có một môi trường pháp lý để hoạt động. Môi trường

pháp lý chính là yếu tố tạo cho văn hoá truyền thống được diễn ra theo đúng

mục tiêu và chính sách của Nhà nước. Có một môi trường pháp lý an toàn, văn

hoá truyền thống có điều kiện được phát triển mạnh mẽ dưới sự hỗ trợ cũng như

đảm bảo của Nhà nước. Bằng việc ghi nhận các lĩnh vực văn hoá truyền thống

như văn nghệ dân gian, các nét sinh hoạt truyền thống, các phong tục tập quán…

Page 22: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

22

trong các văn bản pháp luật và quy định có cơ chế bảo vệ văn hoá truyền thống

bằng pháp luật chính là việc thể hiện vai trò hỗ trợ về mặt pháp lý hay nói cách

khác chính là việc tạo môi trường pháp lý cho văn hóa truyền thống phát triển

theo định hướng.

Thứ ba là hỗ trợ về mặt chuyên môn cũng như phương thức thực hiện.

Việc giữ gìn và phát huy văn hoá truyền thống là một nhiệm vụ khó khăn và

phức tạp cần có chương trình và kế hoạch cụ thể cho từng giai đoạn. Cộng đồng

xã hội hơn ai hết hiểu rất rõ về những giá trị tốt đẹp của văn hoá truyền thống.

Tuy nhiên, cùng với quá trình phát triển, nhiều khi việc cộng đồng tự đánh mất

những giá trị văn hoá truyền thống mà không hề hay biết, khi biết rồi thì cũng

không biết phải khôi phục bằng cách nào. Thậm chí chính cộng đồng cũng

không biết trong các giá trị của văn hoá truyền thống thì những giá trị nào cần

phải lưu giữ, phát huy và những giá trị nào cần thay đổi. Nhà nước thông qua

các cơ quan chuyên môn quản lý Nhà nước về văn hoá có vai trò quan trọng

giúp cho cộng đồng thấy được điều đó, đồng thời hỗ trợ về mặt chuyên môn để

các giá trị của văn hoá truyền thống được duy trì và phát triển tốt hơn. Thí dụ

như việc tổ lễ hội truyền thống, Nhà nước sẽ hỗ trợ việc tổ chức thông qua cơ

quan chuyên môn quản lý về văn hoá. Các cơ quan chuyên môn quản lý Nhà

nước về văn hoá sẽ hỗ trợ về mặt chương trình, cố vấn về các nghiệp vụ tổ chức

lễ hội, trong đó sưu tầm các hoạt động văn hoá dân gian như dân ca, dân vũ, các

trò chơi dân gian trong lễ hội…Đồng thời hỗ trợ về mặt kiểm tra giám sát các

quy định chung để thực hiện các hoạt động giữ gìn và phát triển văn hoá truyền

thống.

Như vậy, với sự hỗ trợ to lớn từ phía Nhà nước giúp cho văn hoá truyền

thống phát triển theo chiều hướng tích cực, góp phần bảo vệ, duy trì và phát

triển văn hoá dân tộc, chống ảnh hưởng xấu, đồng thời giao lưu học hỏi những

tinh hoa văn hoá thế giới để góp thêm hơi thở hiện đại cho văn hoá - yếu tố quan

trọng để văn hoá truyền thống có thể duy trì và phát triển trong bối cảnh mới.

Page 23: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

23

Vai trò nòng cốt trong việc giữ gìn và phát huy văn hoá truyền thống.

Nhà nước thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực văn

hoá, trong đó có nhiệm vụ giữ gìn và phát huy văn hoá truyền thống. Do đó Nhà

nước đóng vai trò là lực lượng tiên phong đi đầu. Chủ trương xây dựng nền văn

hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc được Nhà nước xây dựng thành các chương

trình, kế hoạch cụ thể. Nhà nước cần có chương trình và kế hoạch huy động,

khuyến khích cả xã hội cùng tham gia.

b. Quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước đối với việc giữ gìn và phát

triển văn hoá tuyền thống.

Quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng trên nhiều lĩnh vực đã và đang diễn ra

hiện nay làm cho văn hoá cũng trở thành một lĩnh vực của hội nhập. Trong đó

việc giao lưu về văn hoá giữa các quốc gia là một tất yếu khách quan. Muốn

phát triển văn hoá các quốc gia không thể khép kín trong mỗi quốc gia, dân tộc.

Do đó, nhất định sẽ có sự tác động qua lại giữa các quốc gia về văn hoá. Điều

này dẫn đến hai hệ quả khác nhau. Nếu biết tiếp thu và chọn lọc những tinh hoa

văn hoá của các quốc gia khác sẽ làm cho nền văn hoá dân tộc thêm đa dạng,

phong phú và phát triển. Ngược lại, nếu tiếp thu không chọn lọc và không chú ý

giữ gìn văn hoá truyền thống sẽ làm mai một đi văn hóa truyền thống. Vì vậy,

việc tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại phải đi đôi với giữ gìn và phát huy văn

hoá truyền thống. Nhận thức được vai trò quan trọng của vấn đề giữ gìn và phát

huy văn hoá truyền thống, tại Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII ( 1991 ),

Đảng ta đã xác định rõ mục tiêu xây dựng nền văn hoá “ tiên tiến đậm đà bản

sắc dân tộc”.

Quá trình phát triển kinh kế - xã hội của đất nước cùng với quá trình hội

nhập quốc tế ngày càng sâu rộng thì vấn đề giữ gìn và phát huy văn hoá truyền

thống càng được chú trọng hơn, nó không chỉ là nhiệm vụ của từng quốc gia mà

của cả nhân loại. Chính vì thế mà UNESCO đã phát động “Thập niên quốc tế

Page 24: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

24

phát triển văn hoá” và nhấn mạnh các quốc gia cần phải có chương trình nhằm

giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc của quốc gia mình.

Như vậy, việc giữ gìn và phát huy văn hoá truyền thống không chỉ là

nhiệm vụ của riêng Việt Nam hay một quốc gia nào mà của cả cộng đồng thế

giới. Để nền văn hoá Việt Nam phát triển là một nền văn hoá tiên tiến đậm đà

bản sắc dân tộc, Đảng ta đã ra một Nghị quyết riêng về vấn đề này. Đó là Nghị

quyết của Hội nghị lần thứ V - Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII về “ xây

dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc ”. Tại Nghị quyết

này, Đảng ta đã chủ trương giữ gìn và phát huy văn hoá truyền thống để xây

dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc thông qua các

nhiệm vụ cụ thể là nhiệm vụ bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá; đồng thời

bảo tồn, phát huy và phát triển vǎn hóa các dân tộc thiểu số. Trong đó khẳng

định “ Di sản vǎn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi

của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu vǎn hóa.

Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị vǎn hóa truyền thống

(bác học và dân gian), vǎn hóa cách mạng, bao gồm cả vǎn hóa vật thể và phi

vật thể ”.

Đồng thời “ Coi trọng và bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống và

xây dựng, phát triển những giá trị mới về vǎn hóa, vǎn học, nghệ thuật của các

dân tộc thiểu số…

Bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, chữ viết của các dân tộc. Đi đôi với việc sử

dụng ngôn ngữ, chữ viết phổ thông, khuyến khích thế hệ trẻ thuộc đồng bào các

dân tộc thiểu số học tập, hiểu biết và sử dụng thành thạo tiếng nói, chữ viết của

dân tộc mình. Phát hiện, bồi dưỡng, tổ chức lực lượng sáng tác, sưu tầm, nghiên

cứu vǎn hóa, vǎn học, nghệ thuật là người dân tộc thiểu số. Ưu tiên tài trợ cho

các tác giả dân tộc thiểu số có tài nǎng sáng tạo các tác phẩm về đề tài dân tộc

và miền núi. Đào tạo đội ngũ trí thức thuộc đồng bào các dân tộc thiểu số và tạo

Page 25: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

25

điều kiện để trí thức, cán bộ dân tộc thiểu số trở về phục vụ quê hương. Phát

huy tài nǎng các nghệ nhân…”

Tinh thần Nghị quyết Trung ương V khoá VIII được tiếp tục khẳng định

qua các kỳ Đại hội IX, X của Đảng ta. Trong đó tại Nghị quyết Đại hội Đảng lần

thứ IX, văn hoá truyền thống được định hướng phát triển như sau: “ Đẩy mạnh

cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá"; "Xây dựng nếp

sống văn minh và gia đình văn hoá"; phong trào "Người tốt, việc tốt". Thực hiện

tốt phong trào thi đua yêu nước, ..., kiên quyết đấu tranh loại trừ các hiện tượng

tiêu cực và các tệ nạn xã hội.

Phát huy bản sắc văn hoá dân tộc; bảo tồn và tôn tạo các di sản văn hoá vật thể

và phi vật thể làm nền tảng cho sự giao lưu văn hoá giữa các cộng đồng, giữa

các vùng cả nước và giao lưu văn hoá với bên ngoài. Tiếp tục đưa các hoạt

động văn hoá thông tin về cơ sở, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc;

phát động phong trào toàn dân tham gia thực hiện nếp sống văn minh, gia đình,

bản, làng văn hoá;...”. Chủ trương này tiếp tục được khẳng định tại định hướng

phát triển văn hoá của Đại hội Đảng X: “ Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên

tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội và con

người trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh

tế quốc tế ...; chống những hiện tượng phản văn hoá, phi văn hoá”.

Thực hiện chủ trương của Đảng về xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà

bản sắc dân tộc trong đó có nhiệm vụ duy trì và phát huy văn hoá truyền thống,

Nhà nước ta đã có nhiều chương trình cụ thể. Thông qua hệ thống chính sách, văn

bản quản lý Nhà nước đã và đang từng bước có các hoạt động cụ thể hoá các chủ

trương lớn của Đảng về văn hoá truyền thống của Việt Nam. Chẳng hạn như Luật

Di sản văn hoá được Quốc Hội ban hành ngày 29/6/2001 là cơ sở pháp lý cao nhất

cho việc bảo vệ và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống, trong đó có các giá trị

văn hoá phi vật thể và văn hóa vật thể. Ngày 31/7/2007 Thủ tướng Chính Phủ ban

hành quyết định số 125/2007/QĐ-TTg về phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc

Page 26: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

26

gia về văn hoá giai đoạn 2006-2010, trong đó nêu rõ mục tiêu, các dự án cụ thể

như: dự án chống xuống cấp và tôn tạo di tích; dự án sưu tầm, bảo tồn và phát huy

giá trị các di sản văn hoá phi vật thể của các dân tộc Việt Nam; dự án điều tra,

nghiên cứu, bảo tồn một số làng, bản tiêu biểu và lễ hội truyền thống đặc sắc của

dân tộc ít người...Hay như quyết định số 124/2003/QĐ-TTg ngày 17/6/2003, Thủ

Tướng Chính Phủ đã ký phê duyệt Đề án Bảo tồn phát triển văn hoá các dân tộc

thiểu số Việt Nam, trong đó có nêu rõ lộ trình, chủ đề án, nội dung bảo tồn và phát

huy văn hoá dân tộc thiểu số... Đây là một trong những biện pháp cụ thể nhằm duy

trì và phát huy văn hoá truyền thống của các dân tộc thiểu số nói chung và của văn

hoá truyền thống dân tộc nói chung. Bên cạnh đó cơ quan Trung ương quản lý Nhà

nước về văn hoá là Bộ Văn Hoá - Thể Thao và Du Lịch cũng đã có các chương

trình cụ thể, chẳng hạn như Quyết định số 214/2007/QĐ-BVHTTDL ngày

29/8/2007 của Bộ trưởng Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch về phân bổ ngân sách sự

nghiệp 2007 của mục tiêu điều tra, sưu tầm và bảo tồn di sản văn hoá phi vật thể

thuộc diện văn hoá – thông tin... Đó chính là sự cụ thể hoá đường lối, chủ trương

của Đảng về phát triển văn hoá trong đó có giữ gìn và phát huy văn hoá truyền

thống của Nhà nước ta.

1.3.2 Những yêu cầu chung quản lý Nhà nƣớc đối với văn hoá truyền thống

Do những đặc trưng cơ bản của văn hoá truyền thống nên trong quá trình

quản lý Nhà nước cần chú ý những yêu cầu sau:

Thứ nhất, phải xác định rõ đối tượng quản lý. Văn hoá truyền thống là

một lĩnh vực rộng lớn bao gồm nhiều lĩnh vực về văn hoá khác nhau, mỗi lĩnh

vực về văn hoá truyền thống lại có một đặc thù riêng, tính chất riêng. Vì vậy

trong quản lý nhất thiết phải xác định rõ đặc điểm riêng có của đối tượng quản

lý để có phương thức quản lý thích hợp, đặc biệt cần xác định đối tượng nào cần

có sự quản lý của Nhà nước, đối tượng nào có thể giao cho cộng đồng tự quản

lý. Chẳng hạn như đối với các lễ hội truyền thống, trong quản lý cần xác định

các lễ hội nào cần phải có sự xét duyệt và cho phép của cơ quan quản lý Nhà

Page 27: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

27

nước, lễ hội nào không cần phải xin phép. Hay như đối với quản lý văn nghệ dân

gian, cần xác định rõ những loại hình biểu diễn nào cần có sự xét duyệt và cho

phép của cơ quan quản lý Nhà nước, loại hình nào không phải xin phép…Việc

xác định rõ đối tượng quản lý Nhà nước sẽ tránh cho các hoạt động văn hoá

truyền thống phát triển lệch với mục tiêu và định hướng chung. Đồng thời nó

giúp cho cơ quan quản lý tránh hiện tượng ôm đồm trong quản lý trong khi có

những hoạt động không nhất thiết phải Nhà nước quản lý mà vẫn đem lại hiệu

quả cao.

Thứ hai, Văn hoá truyền thống mang tính giá trị hai mặt, do đó trong quản

lý Nhà nước cần xác định rõ đâu là những giá trị cần bảo tồn và phát huy, đâu là

những giá trị đã lạc hậu cần loại bỏ. Xác định được đúng các giá trị này của văn

hoá truyền thống sẽ giúp cho Nhà nước có định hướng đúng đắn cho việc phát

triển nền văn hoá nói chung và viềc giữ gìn và phát huy văn hoá truyền thống

nói riêng, đồng thời có biện pháp hỗ trợ thích hợp cho việc thực hiện các mục

tiêu quản lý đã đề ra.

Thứ ba, Văn hoá truyền thống do cộng đồng sản sinh ra. Vì vậy trong

quản lý Nhà nước đối với văn hoá truyền thống cần phải kết hợp chặt chẽ với

cộng đồng xã hội. Đây là yếu tố quan trọng quyết định tới thành công của hoạt

động quản lý Nhà nước trong lĩnh vực này. Nếu không kết hợp với cộng đồng

trong quản lý, nhà quản lý sẽ không tránh khỏi tình trạng thụ động, chủ quan

duy ý trí khi đưa ra chủ trương, chính sách cho phát triển văn hoá. Bởi lẽ, không

gắn kết với cộng đồng thì nhà quản lý sẽ không hiểu hết các nhu cầu về văn hoá

truyền thống, không hiểu được một cách cặn kẽ, sâu sắc các giá trị mà cộng

đồng xã hội muốn lưu giữ và phát triển cũng như những giá trị muốn loại bỏ.

Trong việc bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống thì cộng đồng chính là

nhân tố quyết định. Bởi không phải ai khác chính cộng đồng xã hội là nơi lưu

giữ các giá trị của văn hoá truyền thống. Việc phát huy các giá trị ấy cũng do

chính cộng đồng quyết định. Việc gắn kết với cộng đồng trong quản lý được thể

Page 28: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

28

hiện thông qua việc Nhà nước và nhân dân cùng làm, tức là việc đưa ra chính

sách phải phù hợp với nguyện vọng của cộng đồng và phải được cộng đồng

tham gia thực hiện. Có như vậy các chính sách mới thành công được.

Thứ tư, phải kết hợp các phương pháp quản lý Nhà nước với cơ chế quản

lý mềm. Văn hoá truyền thống là những giá trị lâu đời, do cộng đồng xã hội sản

sinh ra qua nhiều thế hệ. Do văn hoá truyền thống là do cộng đồng sáng tạo ra

qua quá trình lịch sử, nên nó cũng có sự bảo vệ và quản lý theo các quy định

riêng của cộng đồng, đó là cơ chế quản lý mang tính cộng đồng hay chính là các

cơ chế mềm. Ở đây các quy định chuẩn mực được cộng đồng tự giác thực hiện

một cách tự nguyện. Do đó trong quá trình quản lý Nhà nước về văn hoá truyền

thống cần kết hợp một cách khéo léo giữa các phương pháp quản lý nhà nước

với cơ chế quản lý cộng đồng.

1.4 Nội dung một số chính sách lớn của Nhà nƣớc để bảo tồn và phát huy lễ

hội truyền thống

1.4.1 Hệ thống chính sách của Nhà nƣớc.

Giữ gìn và phát triển lễ hội truyền thống là một nội dung quan trọng trong

nhiệm vụ duy trì và phát huy văn hoá truyền thống của Nhà nước ta. Để lễ hội

truyền thống được duy trì và phát triển theo định hướng, trong những năm qua

Nhà nước ta đã ban hành các chính sách tạo điều kiện cho các lễ hội được tổ

chức và được quản lý theo đúng chủ trương và định hướng. Hệ thống các văn

bản liên quan đến việc tổ chức và quản lý lễ hội do Nhà nước ta ban hành bao

gồm:

- Luật Di sản văn hoá năm 2001;

- Quyết định số 308/2005/QĐ-TTg ngày 25 tháng 11 năm 2005 của Thủ

tướng Chính Phủ về việc ban hành Quy chế thực hiện nếp sống văn minh trong

việc cưới, việc tang và lễ hội;

Page 29: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

29

- Nghị định số 11/2006/NĐ-CP ngày 18 tháng 01 năm 2006 của Chính

Phủ về việc ban hành Quy chế hoạt động văn hoá và kinh doanh dịch vụ văn hoá

công cộng;

- Nghị định số 56/2006/NĐ-CP ngày 06 tháng 6 năm 2006 của Chính Phủ

về xử phạt hành chính trong hoạt động văn hoá – thông tin;

- Quyết định số 39/2001/QĐ-BVHTT ngày 23 tháng 8 năm 2001 của Bộ

trưởng Bộ Văn Hoá Thông Tin về việc ban hành Quy chế tổ chức lễ hội ;

- Văn bản số 04/VHTTCS-DĐSVH gửi Sở VH-TT các địa phương yêu

cầu chỉ đạo, quản lý và tổ chức lễ hội năm 2007 theo tinh thần Nghị định số

11/2006/NĐ-CP của Chính Phủ…

Luật Di sản văn hoá năm 2001 quy định việc bảo vệ các di sản văn hoá

gồm di sản văn hoá phi vật thể và di sản văn hoá vật thể - là sản phẩm tinh thần,

vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học được lưu truyền từ thế hệ này qua

thế hệ khác. Luật ban hành nhằm bảo vệ và phát huy các giá trị di sản văn hoá,

đồng thời xác định quyền và nghĩa vụ của các cá nhân tổ chức đối với di sản văn

hoá của Việt Nam. Phạm vi điều chỉnh của luật Di sản là di sản văn hoá vật thể

và phi vật thể. Trong đó những di sản văn hoá phi vật thể được xác định “ sản

phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ,

chữ viết, được lưu truyền bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình

thức lưu giữ, lưu truyền khác, bao gồm tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học,

nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, nếp

sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ công truyền thống, tri thức về y, dược học cổ

truyền, về văn hóa ẩm thực, về trang phục truyền thống dân tộc và những tri

thức dân gian khác ” và di sản văn hoá vật thể được điều chỉnh trong luật này

được xác định “ sản phẩm vật chất có giá trị líchử, văn hoá, khoa học, bao gồm

di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia ”.

Theo đó lễ hội nói chung và lễ hội truyền thống nói riêng là di sản văn hoá phi

vật thể, Việc bảo vệ và tạo điều kiện để phát huy lễ hội truyền thống được quy

Page 30: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

30

định như sau: “ Nhà nước tạo điều kiện duy trì và phát huy giá trị văn hoá của

các lễ hội truyền thống, bài trừ hủ tục và chống các biểu hiện tiêu cực, thương

mại hoá trong tổ chức và hoạt động lễ hội. Việc tổ chức lễ hội truyền thống phải

theo quy định của pháp luật ”.

Trong Quy chế thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và

lễ hội có quy định khi tổ chức lễ hội các cá nhân, tổ chức phải thực hiện đúng

quy định của pháp luật về di sản văn hoá và Quy chế tổ chức lễ hội của Bộ Văn

hóa Thông tin. Quy chế cũng quy định cụ thể những yêu cầu đối với tổ chức lễ

hội như:

“ 1. Không trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc; không được thực hiện các

hoạt động mê tín dị đoan như xem số, xem bói, xóc thẻ, yểm bùa, trừ tà và các

hình thức mê tín dị đoan khác.

2. Không gây mất trật tự, an ninh xã hội; không lợi dụng để truyền đạo trái phép

và có các hoạt động chia rẽ đoàn kết dân tộc.

3. Không làm cản trở giao thông và các hoạt động công cộng.

4. Không tổ chức hoặc tham gia đánh bạc dưới mọi hình thức.

5. Giữ gìn sự yên tĩnh, hạn chế gây tiếng ồn vào ban đêm.”

Đồng thời quy định phải quản lý chặt chẽ, ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành

vi vi phạm: “ Chính quyền địa phương, cơ quan, đơn vị, tổ chức phải có biện

pháp quản lý chặt chẽ, ngăn chặn và xử lý kịp thời những hành vi vi phạm di

tích, danh lam thắng cảnh; lừa đảo, trộm cắp của du khách; thương mại hoá và

các hoạt động mê tín dị đoan trong lễ hội theo phạm vi và thẩm quyền của mình

khi tổ chức lễ hội

Quy chế tố chức lễ hội ban hành kèm theo Quyết định số 39/2001 của Bộ

Trưởng Bộ Văn hóa Thông tin quy định cụ thể các mục tiêu của việc tổ chức lễ

hội, các loại hình lễ hội được điều chỉnh, quy định cụ thể các loại lễ hội phải

được cấp phép tổ chức và các loại không phải xin phép, quy định thủ tục xin

phép tổ chức lễ hội, quy định trong việc tổ chức lễ hội như: Ban Tổ chức lễ hội,

Page 31: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

31

các hành vi bị cấm tại lễ hội…Quy chế tổ chức lễ hội là cơ sở pháp lý để cho các

cơ quan quản lý Nhà nước về lễ hội thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình,

đảm bảo cho các lễ hội diễn ra theo đúng mục đích và nhu cầu của cộng đồng.

Nghị định số 56/2006/NĐ-CP của Chính Phủ về xử phạt vi phạm hành

chính trong hoạt động văn hoá - thông tin có quy định các mức xử phạt đối với

các hành vi vi phạm tại lễ hội như: Phạt từ 300.000 đồng đến 1000.000 đồng đối

với việc sử dụng âm thanh quá mức độ ồn tối đa để tuyên truyền, quảng bá các

loại trò chơi, dịch vụ ở lễ hội; phạt tiền từ 500.000 đồng đến 2000.000 đồng

trong trường hợp tổ chức lễ hội phải báo cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm

quyền mà không báo cáo hoặc có báo cáo nhưng không được cơ quan có thẩm

quyền đồng ý mà vẫn tổ chức; phạt tiền từ 5000.000 đồng đến 15 000.000 đồng

đối với trường hợp tổ chức lễ hội theo quy định phải có giấy phép mà không

có…Ngoài ra Nghị định cũng quy định cụ thể các cơ quan có thẩm quyền xử

phạt hành chính đối với các hành vi vi phạm. Như vậy, Nghị định là cơ sở để

kiểm tra và xử lý vi phạm trong tổ chức và quản lý lễ hội.

Trong Quy chế Hoạt động văn hoá và kinh doanh dịch vụ văn hoá công

cộng ban hành kèm theo Nghị định số 11/2006/NĐ-CP của Chính Phủ có quy

định về việc tổ chức lễ hội như các lễ hội phải xin phép, các lễ hội không phải

xin phép, hồ sơ xin cấp phép tổ chức lễ hội…

Như vậy, vấn đề tổ chức và quản lý lễ hội được Nhà nước rất chú trọng.

Các cơ quan quản lý về văn hoá nói chung và quản lý về lễ hội truyền thống nói

riêng đã có nhiều văn bản để thực hiện quản lý và tổ chức các lễ hội. Từ việc

quy định các điều kiện tổ chức, cấp phép, các hành vi bị cấm đến các quy định

về xử phạt hành chính đều được quy định rõ tại các văn bản đã kể trên. Tuy

nhiên việc tổ chức và quản lý lễ hội còn có quá nhiều văn bản điều chỉnh, chẳng

hạn như việc tổ chức và quản lý lễ hội đã có quy chế riêng của Bộ Văn hoá

Thông tin nhưng vẫn có các văn bản khác quy định về tổ chức lễ hội như đã nêu

ở trên. Điều này làm chức năng quản lý chồng chéo nhau, gây ảnh hưởng đến

Page 32: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

32

quản lý về lễ hội của các cơ quan cấp dưới. Chẳng hạn như trong Quy chế tổ

chức lễ hội có quy định các lễ hội phải có sự xin phép của UBND cấp tỉnh như:

lễ hội được tổ chức lần đầu; lễ hội lần đầu được khôi phục sau nhiều năm gián

đoạn; lễ hội tổ chức định kỳ nhưng có thay đổi nội dung, thời gian, địa điểm so

với truyền thống; lễ hội du nhập từ nước ngoài vào do người nước ngoài hoặc

người Việt Nam tổ chức; những lễ hội không phải là lễ hội Đền Hùng ( Phú

Thọ), lễ hội Chùa Hương ( Hà Tây ), lễ hội Phủ Dầy ( Nam Định ), lễ hội Xuân

núi Bà Đen ( Tây Ninh ), lễ hội Bà Chúa Xứ núi Sam ( An Giang ); lễ hội tôn

giáo vượt ra ngoài khuôn viên cơ sở thờ tự hoặc trong khuôn viên cơ sở thờ tự

nhưng chưa đăng ký tổ chức hàng năm theo quy định của pháp luật. Nhưng quy

chế hoạt động văn hoá và kinh doanh dịch vụ văn hoá công cộng lại không quy

định những lễ hội không phải là lễ hội Đền Hùng, lễ hội Chùa Hương, lễ hội Phủ

Dầy, lễ hội Xuân núi Bà Đen,…; lễ hội tôn giáo vượt ra ngoài khuôn viên cơ sở

thờ tự hoặc trong cơ sở thờ tự nhưng chưa đăng ký tổ chức thường xuyên theo

quy định của pháp luật phải có sự xin phép của UBND cấp Tỉnh. Sự khác biệt

trong quy định của các văn bản điều chỉnh lễ hội dẫn đến hiện tượng không đồng

nhất trong tổ chức thực hiện ở cấp dưới.

Page 33: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

33

1.4.2 Hệ thống quản lý về lễ hội ở nƣớc ta

a. Sơ đồ hệ thống quản lý Nhà nước về văn hoá - lễ hội

Trong đó: Chỉ đạo, điều hành trực tiếp

Chỉ đạo về mặt chuyên môn

CHÍNH PHỦ

BỘ VĂN HOÁ THỂ

THAO VÀ DU

LỊCH

UBND CẤP

TỈNH

SỞ VĂN HOÁ -

THỂ THAO VÀ DU

LICH

UBND CẤP

HUYỆN

PHÒNG VĂN HOÁ

THÔNG TIN

UBND CẤP

CÁN BỘ VĂN

HOÁ XÃ

QUỐC HỘI

HĐND

TỈNH

HĐND

HUYỆN

HĐND XÃ

Lễ hội cấp

Nhà nước

Lễ hội cấp

Tỉnh

Lễ hội cấp

huyện

Lễ hội cấp

Page 34: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

34

b. Chức năng quản lý cụ thể:

Quốc Hội là cơ quan quyền lực cao nhất, là cơ quan có quyền ban hành

luật di sản văn hoá là văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất để quản lý Nhà nước

đối với văn hoá nói chung và văn hoá truyền thống nói riêng trong đó có lễ hội

truyền thống. Đồng thời Quốc Hội cũng thực hiện chức năng giám sát của mình

đối với việc tổ chức và quản lý lễ hội trong phạm vi cả nước qua các đại biểu

Quốc Hội cũng như các cơ quan chuyên trách của Quốc Hội, từ đó Quốc Hội có

yêu cầu các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền thực hiện việc tổ chức và

quản lý lễ hội truyền thống theo đúng quy định của pháp luật.

Chính Phủ là cơ quan quản lý hành chính cao nhất của nước ta, đối với

lĩnh vực quản lý lễ hội Chính Phủ là cơ quan ban hành các chủ trương, các chính

sách và văn bản chỉ đạo nói chung về việc quản lý đối với lễ hội. Các chính sách

này của Chính Phủ sẽ là cơ sở để các cơ quan chuyên môn quản lý về lễ hội

truyên thống cấp dưới cụ thể hoá thành các văn bản cụ thể hơn. Như vậy Chính

Phủ ở đây có chức năng định hướng về mặt chỉ đạo cũng như hỗ trợ về mặt

chính sách đối với việc quản lý lễ hội truyền thống của các cơ quan chuyên môn

cấp dưới.

Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch là cơ quan chuyên môn của Chính Phủ

chịu trách nhiệm quản lý Nhà nước về lễ hội nói chung và lễ hội truyền thống

nói riêng. Bộ là cơ quan tham mưu cho Chính Phủ ban hành các chính sách quản

lý đối với lễ hội, trình Chính Phủ phê duyệt các chủ trương cũng như các chính

sách lớn đối với lễ hội. Đồng thời, Bộ là cơ quan quản lý Nhà nước về văn hoá

trong đó có lễ hội truyền thống. Trong đó chức năng quản lý lễ hôi của Bộ Văn

hoá Thể thao và Du lịch được thể hiện như sau: Bộ ban hành Quy chế tổ chức và

quản lý lễ hội làm cơ sở pháp lý để thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về lễ

hội thống nhất từ Trung ương tới cơ sở; Phân công chức năng cho cấp dưới thực

hiện chức năng quản lý đối với lễ hội, tức phân cấp quản lý, chẳng hạn như chức

năng quản lý lễ hội của Bộ do Cục Văn hoá Thông tin cơ sở chịu trách nhiệm.

Page 35: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

35

Còn các địa phương thực hiện việc quản lý đối với các lễ hội tuân theo Quy chế

tổ chức và quản lý lễ hội do Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch ban hành; Thực

hiện chức năng kiểm tra giám sát hoạt động quản lý nhà nước về lễ hội theo quy

định của Chính Phủ và Quy chế của Bộ đã ban hành, đồng thời xử phạt hành

chính đối với các hành vi vi phạm theo quy định tại Nghị định 56/2006/NĐ-CP

của Chính Phủ về xử phạt hành chính trong hoạt động văn hoá – thông tin ; Chỉ

đạo, điều hành các cơ quan quản lý cấp dưới như UBND cấp Tỉnh, Sở Văn hoá

Thể thao và Du Lịch về chuyên môn trong việc quản lý đối với lễ hội theo sự

phân cấp quản lý trong Quy chế tổ chức và quản lý lễ hội mà Bộ đã ban hành.

Hội đồng nhân dân các cấp có chức năng thông qua các chủ trương lớn

về việc duy trì và phát triển các lễ hội truyền thống tại địa phương, thông qua

các chương trình, các hoạt động cụ thể của UBND cùng cấp về việc tổ chức và

quản lý lễ hội tại địa phương. Đồng thời thực hiện chức năng giám sát đối với

hoạt động tổ chức và quản lý lễ hội của các cơ quan quản lý cùng cấp là UBND

và các cơ quan chuyên môn quản lý Nhà nước về văn hoá của UBND cùng cấp.

Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh là cơ quan quản lý hành chính tại địa phương,

chịu trách nhiệm chỉ đạo điều hành, quản lý Nhà nước đối với lễ hội truyền

thống trong địa bàn tỉnh. Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh ban hành các chính sách đối

với việc tổ chức và quản lý lễ hội trong địa bàn toàn tỉnh trên cơ sở chính sách

chung của cơ quan quản lý cấp trên là Chính Phủ và Bộ Văn hoá Thể thao và Du

Lịch, đồng thời phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương. Bên cạnh đó,

UBND cấp Tỉnh thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với các lễ hội theo

sự phân công trong quy chế của Bộ Văn hoá – Thông tin ( cũ ) đã ban hành, cụ

thể là cấp phép tổ chức lễ hội theo thẩm quyền và tiến hành kiểm tra giám sát và

xử lý kịp thời các hành vi vi phạm trong tổ chức và quản lý lễ hội theo Nghị

định số 56/2006/NĐ-CP của Chính Phủ về xử phạt hành chính trong hoạt động

văn hoá – thông tin.

Page 36: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

36

Sở Văn hoá – Thông tin nay là Sở Văn hoá Thể thao và Du lịch là cơ

quan chuyên môn của UBND cấp tỉnh, thực hiện chức năng tham mưu cho

UBND ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quản lý về lễ hội, các chính

sách đối với việc tổ chức lễ hội, thực hiện chức năng xử lý vi phạm theo thẩm

quyền và chỉ đạo về mặt chuyên môn cho các cơ quan cấp dưới về quản lý lễ

hội. Đồng thời là cơ quan thực hiện sự quản lý ngành của Bộ Văn hoá, Thể thao

và Du lịch.

Uỷ ban nhân dân cấp Huyện là cơ quan quản lý hành chính trên địa bàn

huyện, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với lễ hội theo sự phân công,

phân cấp trong Quy chế tổ chức và quản lý lễ hội.

Phòng Văn hoá – Thông tin là cơ quan chuyên môn của UBND cấp

Huyện thực hiện chức năng tham mưu cho Uỷ ban Nhân dân huyện ban hành

chính sách cũng như các văn bản chỉ đạo điều hành về quản lý lễ hội; thực hiện

chức năng thẩm định hồ sơ xin cấp phép tổ chức lễ hội theo thẩm quyền để

UBND cấp huyện cấp phép tổ chức lễ hội trong phạm vi quản lý lễ hội đã được

phân cấp; hướng dẫn nghiệp vụ quản lý lễ hội đối với UBND cấp xã và cán bộ

văn hoá của xã;

Uỷ ban Nhân dân cấp xã: là cơ quan hành chính ở cơ sở, thực hiện chức

năng quản lý lễ hội theo sự phân công của Quy chế Tổ chức và quản lý lễ hội,

giúp UBND cấp xã thực hiện chức năng quản lý lễ hội là cán bộ văn hoá xã.

Như vậy, quản lý Nhà nước về lễ hội truyền thống nói riêng và lễ hội nói

chung được phân công chức năng nhiệm vụ nhất định. Trong đó việc ban hành

luật để điều chỉnh việc quản lý đối với các lĩnh vực văn hóa trong đó có lễ hội

thuộc về Quốc Hội, việc ban hành các chính sách quản lý nói chung thuộc về

Chính Phủ, thực hiện chức năng quản lý về mặt chuyên môn, hướng dẫn chuyên

môn thuộc chức năng của các cơ quan chuyên môn quản lý về văn hoá từ trung

ương tới địa phương theo thẩm quyền, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước cụ

thể là ban hành các văn bản chỉ đạo, điều hành là chức năng của các cơ quan

Page 37: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

37

hành chính có thẩm quyền chung ở địa phương là Uỷ ban nhân dân các cấp. Còn

HĐND các cấp là cơ quan thông qua các chủ trương, chính sách của UBND

cùng cấp về tổ chức và quản lý lễ hội truyền thống. Việc phân công chức năng

quản lý lễ hội cụ thể giữa các cơ quan là cơ sở cho hoạt động quản lý diễn ra

đúng mục tiêu và tránh hiện tượng chồng chéo trong quản lý.

Page 38: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

38

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI VIỆC GIỮ GÌN VÀ

PHÁT TRIỂN LỄ HỘI ĐÌNH LÀNG CỦA DÂN TỘC CAO LAN Ở

TUYÊN QUANG

2. 1 Lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang

2.1.1 Văn hoá các dân tộc ở Tuyên Quang trong bối cảnh kinh tế xã hội hiện

nay

Tuyên Quang là một tỉnh miền núi phía Bắc, trong đó có 22 dân tộc anh

em cùng sinh sống. Mỗi một dân tộc có một bản sắc văn hoá riêng, tạo nên một

nét văn hoá độc đáo, đa dạng và phong phú của Tuyên Quang. Điều kiện lịch sử

cũng như truyền thống tương thân tương ái, các dân tộc sống hoà thuận với

nhau, tạo cơ hội cho văn hoá được giao thoa làm nên nền văn hoá đa dạng mà lại

thống nhất. Có thể nói văn hoá ở Tuyên Quang là một nền văn hóa đa sắc màu.

Mỗi dân tộc có màu sắc văn hoá riêng. Từ những làn điệu dân ca truyền thống

như hát then của dân tộc Tày, hát Soọng cô của dân tộc Sán Dìu, hát Sình Ca

của dân tộc Cao Lan; các điệu múa dân vũ độc đáo như múa Chim Gâu, Múa

Xúc tép của dân tộc Cao Lan đến các lễ hội truyền thống hết sức hấp dẫn và độc

đáo như Lễ hội Lồng Tồng của dân tộc Tày, Lễ hội Đình Làng của dân tộc Cao

Lan, Lễ hội Cấp Sắc của dân tộc Dao, Lễ hội Đền Hạ của dân tộc Kinh…tạo nên

một diện mạo văn hoá đa sắc tộc hết sức độc đáo tại Tuyên Quang. Trong bối

cảnh kinh tế xã hội hiện nay, cùng với chủ trương xây dựng và phát triển nền

văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong đó có bảo tồn và phát

huy các giá trị văn hoá của đồng bào dân tộc thiểu số những năm gần đây nhiều

hoạt động nhằm khôi phục lại các giá trị văn hoá truyền thống của các dân tộc

trên điạ bàn tỉnh được tiến hành rộng rãi. Nhất là sau khi Chủ tịch UBND ký

quyêt định số 46/2006/QĐ-UBND ngày 31/10/2006 về Phê duyệt Dự án bảo tồn

và phát huy giá trị di sản văn hóa các dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang, thì nhiều

Page 39: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

39

giá trị văn hoá của các dân tộc được khôi phục và phát triển như các lễ hội, các

làn điệu dân ca dân vũ, các câu truyện cổ, trang phục truyền thống… Như vậy

xu hướng phát triển của văn hoá các dân tộc ở Tuyên Quang hiện nay là khôi

phục lại, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống kết hợp với nhiệm

vụ phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn.

2.1.2 Văn hoá dân tộc Cao Lan

a. Văn hoá dân tộc Cao Lan

Lịch sử nghiên cứu tộc người cho thấy đã có nhiều ý kiến khác nhau về

tộc người Cao Lan. Có ý kiến cho rằng người Cao Lan có nguồn gốc với các

nhóm Mán ( Dao ) hay thuộc khối các tộc người nhóm ngôn ngữ Tày – Thái. Có

ý kiến lại cho rằng tộc người Cao Lan có nguồn gốc riêng, lịch sử riêng hoặc lại

xếp Cao Lan – Sán Chí vào một dân tộc ( Sán Chay )…Nhưng đến nay các nhà

nghiên cứu đều đi đến kết luận tộc người Cao Lan thuộc nhóm ngôn ngữ Tày –

Thái là cộng đồng người riêng biệt có lịch sử phát triển riêng mang đặc điểm tộc

người của mình.

Ở Tuyên Quang, người Cao Lan có mặt khoảng trên dưới 200 năm nay.

Trải qua quá trình hình thành và phát triển, tộc người Cao Lan đã định hình cho

mình cốt cách, diện mạo văn hoá riêng. Và cũng do quá trình di cư lâu dài và có

sự tiếp xúc giao thoa văn hoá, tộc người Cao Lan đã tiếp thu có chọn lọc các yếu

tố văn hoá của dân tộc khác, để bổ sung làm phong phú thêm văn hoá dân tộc

mình.

Vốn là dân tộc không có thói quen sống du canh du cư, nên tộc người Cao

Lan đã sớm ổn định đời sống, họ lập thành từng làng ở những vùng núi thấp

tương đối bằng phẳng, cạnh nguồn nước. Địa bàn cư trú của người Cao Lan khá

tập trung , họ sống quần tụ với nhau thành từng xóm, từng làng, mỗi làng cố kêt

với nhau bằng quan hệ anh em thân tộc và nhiều dòng họ. Do sống tập trung

thuần nhất nên tộc người Cao Lan ở Tuyên Quang đã tạo nên nền văn hoá bền

vững mang những đặc điểm riêng của tộc người Cao Lan. Thể hiện trong kho

Page 40: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

40

tàng văn hoá dân gian truyền thống vật thể, phi vật thể đã được cộng đồng người

Cao Lan lưu giữ và phát triển qua nhiều giai đoạn biến động của lịch sử nhưng

vẫn tồn tại lâu bền cho tới ngày nay trong cộng đồng người Cao Lan ở Tuyên

Quang.

Về văn hoá vật chất, tộc người Cao Lan có ngôi nhà sàn cổ truyền mang

những nét độc đáo trong sinh hoạt của các gia đình người Cao Lan, có trang

phục truyền thống gồm cả trang phục phụ nữ và nam giới đều rất độc đáo mang

tính chất cổ truyền riêng biệt của tộc người. Về trang phục thường ngày, phụ nữ

thường mặc váy áo, có khăn quấn đầu, có yếm, có thắt lưng, vòng cổ, xà tích,

vòng tay, nhẫn, trâm cài đầu, xà cạp…; còn nam giời thì trang phụ đơn giản hơn,

áo mặc của nam giới là áo loại năm thân cài cúc bên cạnh,có màu nâu; và quần

của nam giới gần giống quần bà ba của người Kinh. Ngoài trang phục thường

ngày còn có trang phục riêng trong đám cưới, trang phục tang ma – cúng lễ và

trang phục trong ngày lễ tết, hội hè…

Về văn hoá tinh thần, cộng đồng người Cao Lan có hệ thống tín ngưỡng

và phong tục tập quán rất độc đáo, thể hiện bản sắc riêng biệt của cộng đồng

người. Trong hệ thống phong tục tập quán cũng như tín ngưỡng đó có phong tục

trong đám cưới, trong ma chay cúng lễ, đặc biệt là có lễ hội đình làng là nét sinh

hoạt văn hoá cộng đồng của dân tộc Cao Lan. Bên cạnh đó, nói đến văn hoá tinh

thần của đồng bào dân tộc Cao Lan còn phải kể đến văn nghệ dân gian truyền

thống. Văn nghệ dân gian truyền thống của dân tộc Cao Lan hết sức đa dạng và

phong phú. Cũng giống như nhiều dân tộc thiểu số khác dân tộc Cao Lan cũng

có các nhạc cụ phục vụ cho sinh hoạt văn nghệ của cộng đồng như: trống,

chiêng, chập xeng, thanh la, kèn tổ sâu, nhị, sáo, trống tang sành…Hơn nữa,

trong sinh hoạt văn hoá còn có các điệu múa đặc sắc như múa phát đường, múa

giờ chia ly, múa chim gâu, múa xúc tép, múa đâm cá, múa thắp đèn, múa trống,

múa Tam Thanh…Về dân ca, có hát ru và ca dao độc đáo, đặc biệt là làn điệu

Page 41: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

41

hát Sình Ca, một hình thức hát đối đáp giữa nam và nữ độc đáo trong các lễ hội,

các ngày vui như đám cưới, lễ tết…

Như vậy, dân tộc Cao Lan có một nét văn hoá độc đáo, phong phú và đa

dạng tạo nên một bản sắc riêng của cộng động tộc người mình. Cùng với các dân

tộc anh em khác, dân tộc Cao Lan đã và đang tạo nên một bản sắc văn hoá riêng

phục vụ nhu cầu phát triển của tộc người nói riêng và của cộng đồng các dân tộc

anh em trong tỉnh nói chung.

b. Ý nghĩa của văn hoá dân tộc Cao Lan

Đối với đồng bào dân tộc Cao Lan

Đối với đồng bào dân tộc Cao Lan, có được một nét văn hoá riêng cho

mình đã khẳng định tính riêng biệt của mình trong cộng đồng các dân tộc ở

Tuyên Quang, đồng thời khẳng định quá trình hình thành và phát triển của mình

trong tiến trình chung của cộng đồng. Đối với bản thân cộng đồng dân tộc Cao

Lan thì văn hoá chính là nền tảng tinh thần của mình. Những nét văn hoá của

dân tộc Cao Lan đã ăn sâu trong tâm hồn của họ, đó là nguồn nuôi dưỡng tinh

thần của họ để tồn tại và phát triển. Từ nếp ăn, nếp sống, đi lại đến nếp nghĩ nếp

làm đếu in đậm dấu ấn của văn hoá cộng đồng dân tộc Cao Lan. Có thể nói, bên

cạnh những giá trị vật chất thì những giá trị tinh thấn đối với người Cao Lan là

cả một nguồn sống. Những giá trị về văn hoá như phong tục tập quán, những tư

tưởng, tín ngưỡng, nếp sinh hoạt đều in đậm vào trong mỗi con người. Những

giá trị đó giống như một bộ phận không thể thiếu được đối với cộng đồng dân

tộc Cao Lan. Do đó, trong quá trình phát triển thì việc bảo tồn và phát triển các

giá trị văn hoá truyền thống của đồng bào dân tộc Cao Lan cũng chính là việc

nuôi dưỡng nền tảng tinh thần cho họ phát triển về mọi mặt.

Văn hoá dân tộc Cao Lan đối với văn hoá các dân tộc ở Tuyên Quang.

Ở Tuyên Quang dân tộc Cao Lan là một trong những dân tộc thiểu số có

số lượng dân cư đông nhất, xếp thứ ba toàn tỉnh sau dân tộc Tày và Nùng. Cùng

với các dân tộc thiểu số khác thì văn hoá của dân tộc Cao Lan đã góp phần làm

Page 42: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

42

phong phú thêm nền văn hoá các dân tộc tỉnh nhà. Hơn nữa, là một dân tộc có số

lượng dân cư khá lớn cộng với đặc điểm sống xen kẽ với các dân tộc thiểu số

khác nên văn hoá của dân tộc Cao Lan có ảnh hưởng tới văn hoá chung của các

dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh. Nếu những giá trị văn hoá truyền thống của

đồng bào dân tộc Cao Lan được bảo tồn và phát huy tốt sẽ giúp các dân tộc khác

tiếp thu và học tập, từ đó các dân tộc khác cũng ý thức hơn về văn hoá của dân

tộc mình. Tuy là một dân tộc riêng biệt, có văn hoá của riêng mình nhưng lối

sống đoàn kết, hoà thuận với các dân tộc anh em khác là điều kiện để giao thoa

văn hoá, góp phần bổ sung văn hoá cho nhau, tạo nên một nét văn hoá đa dạng

trong thống nhất với các nét văn hoá của các dân tộc khác. Như vậy văn hoá dân

tộc Cao Lan là một bộ phận của văn hoá các dân tộc Tỉnh Tuyên Quang, là một

bộ phận tạo nên một nét văn hoá đa dân tộc ở Tuyên Quang.

Ý nghĩa đối với phát triển kinh tế - xã hội ở Tuyên Quang.

Văn hoá của đồng bào dân tộc Cao Lan không chỉ có ý nghĩa đối với sự

nghiệp phát triển văn hoá mà còn có ỹ nghĩa to lớn đối với phát triển kinh tế - xã

hội. Những giá trị văn hoá truyền thống đó còn có tiềm năng khai thác thế mạnh

về phát triển du lịch văn hoá tại địa phương. Cùng với thế mạnh tổ chức các

chương trình dân ca dân vũ của dân tộc Cao Lan, kết hợp với việc tổ chức lễ hội

thu hút khách thập phương tham gia là một hoạt động quảng bá du lịch hữu hiệu

tại địa phương. Việc gắn kết phát triển văn hoá truyền thống của dân tộc Cao

Lan với phát triển kinh tế đặc biệt là du lịch văn hoá truyền thống là một hoạt

động phát triển kinh tế tại địa phương. Do đó văn hoá dân tộc Cao Lan còn có ý

nghĩa to lớn đối với phát triển kinh tế trên địa bàn tỉnh.

2.1.3 Lễ hội Đình làng – nét sinh hoạt văn hoá truyền thống của dân tộc Cao

Lan

a. Đôi nét về Đình làng - thiết chế văn hoá của đồng bào dân tộc Cao Lan

Đình làng là một thiết chế văn hoá của đồng bào dân tộc Cao Lan, nó trở

thành một thực thể gắn gắn kết với cuộc sống cộng đồng. Đình làng là nơi diễn

Page 43: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

43

ra các hoạt động sinh hoạt cộng đồng chung của người dân trong làng như các

cuộc họp những vấn đề chung của làng, là nơi thờ tự Thành Hoàng làng - người

có công khai phá và xây dựng nên ngôi làng. Đình làng thường được xây dựng

trên khoảng không gian rộng rãi, bên dưới các cây đa hoặc cây cổ thụ lớn, vì

theo người Cao Lan thì xây dựng dưới các cây cổ thụ sẽ có các vị thần che chở

ngôi đình. Các ngôi đình thường được bố trí phong thuỷ, chọn hướng theo các

nguyên tắc nhất định. Thông thường đình làng được xây dựng theo hướng, lưng

tựa về phía núi, trước mặt là một khoảng sân rộng phục vụ cho hoạt động của

các lễ hội như tung còn hay các trò chơi dân gian…Ngôi đình làng được người

Cao Lan rất coi trọng vì họ coi ngôi đình là nơi thiêng liêng, mọi người đều tự

giác tôn trọng và bảo vệ ngôi đình, khi chưa được sự cho phép của ông mo tức

người được dân làng bầu làm chủ cai quản đình thì không được thực hiện bất kỳ

hoạt động nào tại đình làng. Các hoạt động được phép diễn ra tại đình làng là

những buổi họp các vấn đề chung của làng và việc cúng tễ trong các dịp lễ hội.

Ngôi đình làng là nơi sinh hoạt tín ngưỡng chung của đồng bào dân tộc Cao Lan.

Nó trở thành một thực thể của cộng đồng được cộng đồng bảo vệ, giữ gìn và tôn

tạo cùng với quá trình phát triển của người Cao Lan tại Tuyên Quang.

b. Lễ hội Đình làng của dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang

Lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan thường được tổ chức vào tháng

Giêng Âm lịch, thông thường là vào hai ngày 9-10, tháng Giêng hàng năm. Đây

là lễ hội lớn nhất của người Cao Lan ở Tuyên Quang. Lễ hội là dịp để cộng đồng

người Cao Lan gặp gỡ nhau, cùng nhau ôn lại lịch sử dân tộc, cầu chúc cho cuộc

sống được thuận lợi, mùa màng tốt tươi và đặc biệt là tạ ơn những người đã có

công bảo trợ dân làng làm ăn yên ổn. Lễ hội Đình làng của dân tộc Cao Lan

thường gồm hai phần Lễ và Hội. Phần lễ thường được tổ chức từ đêm hôm trước

đến nửa ngày hôm sau, còn lại nửa ngày và một đêm dành cho phần Hội.

Phần Lễ.

Page 44: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

44

Phần lễ là phần cúng tế với các nghi thức cũng tế trang trọng thể hiện lòng

biết ơn của dân làng đối với Thành Hoàng làng và cầu cho cuộc sống của dân

làng được bình yên, ấm no hạnh phúc và mùa màng bội thu. Phần Lễ này do các

vị cao niên biết cúng tế chủ trì. Thông thường thì phần Lễ này được tiến hành

bởi 7 vị bô lão: người chủ tế mặc áo đỏ, người xướng tế, người đọc văn tế và 4

chấp sự, những người này đều mặc áo xanh. Phần lễ được tiến hành qua các nghi

thức dâng lễ vật, thắp hương, đọc văn tế lễ, phát lộc…Tất cả các nghi lễ đều

trang nghiêm và long trọng. Phần lễ là phần thể hiện đạo lý uống nước nhớ

nguồn của cộng đồng dân tộc đối với với có công với làng bản. Tham gia lễ hội

các gia đình đều chuẩn bị những đồ lễ như mâm sôi, thịt gà, lợn…để dâng lên vị

thần Hoàng Làng để tỏ lòng biết ơn và cầu mong một năm mới ăn nên làm ra.

Phần Hội.

Phần Hội trong lễ hội là hoạt động thu hút được sự tham gia của nhiều

người nhất, cả người già đến trẻ em đều tham gia phần hội này. Phần Hội được

tổ chức với nhiều trò chơi dân gian hấp dẫn như tung còn, kéo co, đẩy

gậy,…Trong đó tung còn là một hoạt động hấp dẫn nhất thu hút nhiều thanh

niên nam nữ tham gia. Hội tung còn được tổ chức trên một bãi đất bằng phẳng,

rộng rãi, chính giữa được dựng lên một cây nêu cao làm bằng cây tre hay nứa,

chính giữa cây nêu có khoanh phần ngọn thành một hình tròn dán giấy hình âm

ương thể hiện cho trời và đất. Quả còn được chuẩn bị trước đó có đường kính cỡ

10cmx10cm, được cấu tạo thành 5 màu, 5 góc, 5 dây tượng trưng cho ngũ hành (

Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ ), bên trong quả còn được đựng gạo hay thóc. Hội

còn hay còn gọi là hội thi tung còn diễn ra ngay từ khi phần Lễ trong đình còn

chưa kết thúc. Ở bãi đất rộng trước đình các nam nữ thanh niên thi nhau tung

còn. Quy định của hội thi tung còn là làm sao tung được quả còn trúng vòng tròn

trên ngọn cây nêu. Ai tung trúng sẽ có phần thưởng của làng gồm một mâm lễ

và được tôn vinh về mặt tinh thần. Theo quan niệm của đồng bào dân tộc Cao

Lan thì hội tung còn là dịp thể hiện sức mạnh của các thế hệ dân tộc mình. Ai

Page 45: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

45

tung được trúng vòng tròn trên cây nêu sẽ là người may mắn và khoẻ mạnh

trong năm, và cả làng năm đó sẽ gặp may mắn, ăn nên làm ra. Ngược lại khi

vòng trong trên ngọn cây nêu mà không được ném thủng thì dân làng năm đó sẽ

không gặp may mắn, trong hội tung còn có sự tham gia cổ vũ của những người

cao tuổi trong làng trong không khí trống hội tưng bừng. Như vậy hội còn không

chỉ mang ý nghĩa giải trí, rèn luyện sức khoẻ mà còn mang ý nghĩa về mặt tín

ngưỡng nữa.

Sau khi Hội còn kết thúc tức là hình tròn trên cây nêu bị ném thủng, đại

diện các bô lão đã trao tặng phần thưởng cho người ném thủng hình tròn của cây

nêu mọi người tản ra tham gia các trò chơi dân gian truyền thống. Có nhiều trò

chơi dân gian: Trò “ Chọi gà ” dành cho thanh niên nam, trò kéo co, chơi quay,

đánh đu…Bên cạnh các trò chơi dân gian đó, một hoạt động văn hoá mang nét

đặ trưng của người Cao Lan không thể thiếu trong lễ hội là sinh hoạt văn nghệ,

bao gồm các làn điệu dân ca, và các điệu múa độc đáo. Đặc biệt Hát Sình ca, là

một sinh hoạt văn nghệ đặc trưng cho dân ca của dân tộc Cao Lan.

Hát Sình ca là lối hát đối đáp giữa thanh niên nam nữ, được sáng tác theo

thể thơ tứ tuyệt, ghi chép bằng chữ Hán. Nó là vốn văn học dân gian phong phú.

Theo truyền thuyết của người Cao Lan, tác giả của những bài hát Sình Ca là

nàng Lưu Ba ( Lầu Slam ) – cô gái đẹp đã đặt lời ca cho các điệu hát ( 13 tập) và

nàng đã hát suốt 13 ngày đêm không ăn không ngủ rồi chết. Người đời sau

mượn lời ca của nàng để sinh hoạt văn nghệ, thể hiện tâm tình với con người và

cuộc sống. Nội dung hát Sình Ca rất phong phú có đề cập đến mọi lĩnh vực của

cuộc sống. Trong lễ hội đình làng truyền thống, hát Sình Ca được chia thành

nhiều tốp hát, thường là một bên nam, một bên nữ, người ở thôn này hát với

người thôn kia. Những người già thì hát với nhau để so tài cao thấp còn thanh

niên thì hát để làm quen nhau, để giao duyên tỏ tình. Từ những cuộc hát này mà

nhiều nam nữ thanh niên đã trở thành vợ chồng của nhau. Trong lễ hội, hát Sình

Ca càng trở nên hấp dẫn và thu hút được đông đảo nam nữ thanh niên tham gia

Page 46: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

46

khi có thêm cả phần dân vũ phụ hoạ. Các điệu múa độc đáo của dân tộc Cao Lan

như múa Chim Gâu, Múa Xúc Tép, Múa Phát Đường… diễn ra đồng thời với

các cuộc hát đối đáp Sình Ca càng làm không khí lễ hội thêm vui vẻ và hấp dẫn.

Các điệu múa, các điệu hát hoà cùng với nhịp trống hội, các nhạc cụ dân gian

của dân tộc như trống đất, kèn ống nứa, thanh la, chập xeng, trống tang sành, các

loại kèn,… càng làm cho không khí lễ hội thêm náo nức, hồ hởi thêm bội phần.

Như vậy hát Sình Ca trong lễ hội của người Cao Lan chủ yếu dành cho

nam nữ thanh niên làm quen, tìm hiểu nhau và có thể trở thành vợ chồng. Hát

Sình Ca tuy rằng có nét mộc mạc nhưng vẫn hội tụ các giá trị văn hoá đạo đức

đặc trưng của người Cao Lan: Kính già yêu trẻ, trung thực, không làm điều ác,

sống tôn trọng, hài hoà với thiên nhiên, với con người, biết sống lạc quan, yêu

cuộc sống vượt lên khó khăn gian khổ để tồn tại và phát triển. Sình Ca thực sự là

một di sản quý báu cần giữ gìn và phát huy trong các lễ hội của dân tộc Cao

Lan.

Có thể nói, lễ hội Đình làng của dân tộc Cao Lan là một nét sinh hoạt văn

hoá cộng đồng đặc sắc chứa đựng trong đó khá đầy đủ những yếu tố phản ánh về

lịch sử cội nguồn, về diện mạo văn hoá tinh thần của người Cao Lan. Lễ hội là

môi trường lưu giữ một cách sống động các giá trị văn hoá dân tộc truyền thống,

là kho tư liệu quý báu giúp cho việc nghiên cứu và phát triển nền văn hoá phục

vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của người Cao Lan nói

riêng và của các dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang nói chung.

2.2 Hiện trạng quản lý văn hoá - lễ hội truyền thống ở Tuyên Quang

2.2.1 Chính sách của Tuyên Quang đối với việc quản lý văn hoá truyền

thống - lễ hội ở Tuyên Quang.

Lễ hội đình làng của đồng bào dân tộc Cao Lan là một di sản văn hoá phi

vật thể của cộng đồng người Cao Lan nói chung và của các dân tộc Tỉnh Tuyên

Quang nói chung. Do vậy vấn đề quản lý Nhà nước nhằm giữ gìn và phát huy lễ

Page 47: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

47

hội này là một nhiệm vụ quan trọng trong việc bảo tồn và phát triển các di sản

văn hoá các dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang.

Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về bảo tồn và phát huy các

giá trị văn hoá truyền thống cũng như các văn bản quản lý Nhà nước của các cơ

quan cấp trên, đặc biệt trong vấn đề quản lý Nhà nước đối với các lễ hội truyền

thống, Tuyên Quang cũng đã có các chính sách về việc tổ chức và quản lý lễ hội

truyền thống theo quy định.

Các lễ hội truyền thống là một di sản văn hoá phi vật thể cần được bảo tồn

và phát triển. Đây cũng là một nội dung được quy định trong Dự án bảo tồn và

phát huy giá trị di sản văn hoá các dân tộc thiểu số tỉnh Tuyên Quang của Sở

Văn hoá – Thông tin đã được Chủ tịch UBND Tỉnh phê duyệt theo Quyết định

số 467/QĐ-UBND ngày 31/10/2006. Trong Dự án có nêu: “ Tổng điều tra văn

hoá phi vật thể của 7 dân tộc…để đánh giá, kiểm kê, lập hồ sơ khoa học góp

phần nghiên cứu bản sắc văn hoá các dân tộc Tỉnh Tuyên Quang” trong đó co

văn hoá phi vật thể của dân tộc Cao Lan. Bên cạnh đó Dự án còn chủ trương

“Bảo tồn làng văn hoá gắn với du lịch” trong đó có nội dung “ baot tồn làng

văn hoá thôn Giếng Tanh, xã Kim Phú, huyện Yên Sơn ( dân tộc Cao Lan ) và

“phục hồi và duy trì các sinh hoạt văn hóa truyền thống: lễ hội, nhạc cụ, trang

phục, dân ca, dân vũ…” của các dân tộc trên địa bàn tỉnh. Như vậy việc duy trì

và phát triển các lễ hội văn hoá truyền thống của các dân tộc thiểu số Tỉnh

Tuyên Quang trong đó có lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan đã được xây

dựng thành chương trình phát triển cụ thể và có lộ trình nhất định.

Bên cạnh các chủ trương và chính sách đó, việc quản lý Nhà nước đối với

các lễ hội truyền thống ở Tuyên Quang trong đó có lễ hội đình làng của dân tộc

Cao Lan cũng được quan tâm chặt chẽ. Với mục đích quản lý Nhà nước với lễ

hội truyền thống để duy trì và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống lễ hội

của các dân tộc thiểu số, ngày 28 tháng 5 năm 2007, Uỷ ban Nhân dân Tỉnh

Tuyên Quang đã ban hành Quyết định số 14/2007/QĐ-UBND về việc ban hành

Page 48: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

48

Quy định thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội.

Trong quy định về tổ chức lễ hội có quy định “Khi tổ chức lễ hội trên địa bàn

tỉnh các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân phải thực hiện đúng quy định của

pháp luật về di sản văn hoá và Quy chế tổ chức lễ hội do Bộ trưởng Bộ Văn hoa

– Thông tin ban hành”. Bên cạnh đó văn bản còn quy định cụ thể về yêu cầu khi

tổ chức lễ hội, về tổ chức và quản lý lễ hội, về hồ sơ xin cấp phép tổ chức lễ hội,

về quy định báo cáo việc tổ chức lễ hội của các cấp, về các hoạt động trong lễ

hội…Đây là văn bản mang tính chất chỉ đạo thực hiện tổ chức và quản lý lễ hội

trên địa tỉnh trên cơ sở các văn bản quản lý của cấp trên.

Có thể thấy rằng lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang

thuộc loại hình lễ hội tín ngưỡng độc đáo. Hiện nay, việc quản lý lễ hội đình

làng của dân tộc Cao Lan thưòng mang tính linh hoạt. Hầu hết các lễ hội đình

làng đều do các thôn bản của người Cao Lan tự đứng ra tổ chức, đáp ứng nhu

cầu sinh hoạt văn hoá của cộng đồng làng bản đó. Việc tổ chức và quản lý đối

với lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan tuân theo các quy định của Quy chế tổ

chức lễ hội do Bộ Văn hoá – Thông tin ban hành và Quy định về việc thực hiện

nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội do UBND tỉnh Tuyên

Quang ban hành. Do hầu hết các lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan đều là các

lễ hội mang tính chất làng bản, do các làng bản tự đứng ra tổ chức nên việc tổ

chức và quản lý lễ hội theo quy chế thì không phải xin phép và báo cáo với cơ

quan quản lý văn hoá. Tuy nhiên, có một số lễ hội đình làng được nâng thành lễ

hội cấp tỉnh, huyện, xã thì việc tổ chức và quản lý phải tuân theo đúng quy định

của Quy chế tổ chức lễ hội do Bộ Văn hoá – Thông tin ban hành và các quy định

khác của địa phương như lễ hội đình làng Giếng Tanh ( xã Kim Phú ), lễ hội

đình làng Minh Cầm ( xã Đội Bình ) là lễ hội cấp huyện, còn lễ hội đình làng

Song Lĩnh ( Xã Lưỡng Vượng ) là lễ hội cấp xã.

2.2.2 Các cơ quan quản lý Nhà nƣớc về lễ hội ở Tuyên Quang

Page 49: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

49

Uỷ ban Nhân dân tỉnh là cơ quan hành chính Nhà nước tại địa phương,

thực hiện chức năng quản lý Nhà nước trên mọi lĩnh vực trên địa bàn toàn Tỉnh.

Uỷ ban Nhân dân Tỉnh Tuyên Quang thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về

văn hoá trong đó có lễ hội truyền thống theo sự phân cấp quản lý của các cơ

quan quản lý cấp trên là Chính Phủ và Bộ Văn hoá – Thể thao và Du lịch. Cụ thể

thực hiện các chức năng quản lý đối với lễ hội như:

- Ban hành các chính sách đối với tổ chức và quản lý lễ hội truyền thống

của địa phương trên cơ sở các chính sách của Chính Phủ và của Bộ Văn hoá -

Thể thao và Du lịch;

- Ban hành các văn bản chỉ đạo điều hành việc tổ chức và quản lý lễ hội

truyền thống theo quy định của pháp luật;

- Thực hiện quản lý Nhà nước đối với việc Tổ chức và quản lý lễ hội

truyền thống trên địa bàn Tỉnh theo sự phân cấp quản lý của Quy chế tổ chức và

quản lý lễ hội của Bộ Văn hoá – Thông tin ( nay là Bộ Văn hoá - Thể thao và Du

lịch ) ban hành. Cụ thể thực hiện việc quản lý và cấp phép tổ chức lễ hội đối với

các lễ hội tổ chức lần đầu, lễ hội lần đầu được khôi phục lại sau nhiều năm gián

đoạn, lễ hội được tổ chức định kỳ nhưng có thay đổi nội dung, thời gian, địa

điểm so với truyền thống;

- Tổ chức các lễ hội truyền thống có phạm vi cấp Tỉnh và Báo cáo với Bộ

Văn hoá – Thể Thao và Du lịch theo quy định của pháp luật;

Thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát và xử lý các hành vi vi phạm trong tổ

chức và quản lý lễ hội theo quy định của pháp luật.

Sở Văn hoá Thể thao và Du lịch là cơ quan chuyên môn của Uỷ ban

Nhân dân Tỉnh, thực hiện chức năng tham mưu cho UBND thực hiện chức năng

quản lý Nhà nước về văn hoá trong đó có lễ hội truyền thống và các chức năng

khác. Đối với quản lý Nhà nước về lễ hội truyền thống, Sở có chức năng cụ thể

như sau:

Page 50: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

50

- Tham mưu cho UBND Tỉnh ban hành các chính sách đối với việc tổ

chức và Quản lý lễ hội truyền thống;

- Thực hiện chức năng thẩm định hồ sơ xin cấp phép tổ chức lễ hội đối

với các lễ hội thuộc thẩm quyền cấp phép của UBND Tỉnh;

- Chỉ đạo hướng dẫn về mặt chuyên môn cho các cơ quan quản lý cấp

dưới là UBND cấp huyện, Phòng Văn hoá – Thông tin của UBND huyện thực

hiện các chính sách và chức năng quản lý về lễ hội truyền thống theo quy định

của pháp luật;

- Thực hiện việc thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trong tổ chức và

quản lý lễ hội theo quy định của pháp luật;

Giúp Sở Văn hoá - Thể thao và Du lịch quản lý về lễ hội truyền thống có Trung

tâm văn hoá và Triển lãm Tỉnh chịu trách nhiệm tham mưu về các chương trình

văn hóa nghệ thuật trong lễ hội; có Thanh tra Sở chịu trách nhiệm kiểm tra hoạt

động tổ chức và quản lý lễ hội, phát hiện vi phạm và kiến nghị xử lý theo quy

định.

Uỷ ban Nhân dân cấp Huyện là cơ quan hành chính thực hiện chức năng

quản lý hành chính trên địa bàn huyện. Đối với quản lý nhà nước về lễ hội

truyền thống, Uỷ ban Nhân dân cấp huyện có chức năng như sau:

- Ban hành các chính sách, văn bản quản lý Nhà nước về lễ hội truyền

thống trên địa bàn huyện theo chủ trương chính sách của cấp trên;

- Thực hiện quản lý Nhà nước đối với lễ hội truyền thống do cấp xã tổ

chức theo quy định của pháp luật;

- Tổ chức lễ hội truyền thống cấp huyện theo quy định phân cấp quản lý;

- Thực hiện chức năng giám sát và xử lý vi phạm về tổ chức và quản lý lễ

hội theo quy định của pháp luật.

Phòng Văn hoá – Thông tin là cơ quan chuyên môn của Uỷ ban Nhân

dân Huyện, thực hiện chức năng tham mưu cho UBND Huyện quản lý Nhà nước

đối với văn hoá nói chung và lễ hội truyền thống nói riêng trên địa bàn huyện.

Page 51: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

51

Chức năng của Phòng Văn hoá – Thông tin Huyện về tổ chức và quản lý lễ hội

như sau:

- Tham mưu cho UBND huyện ban hành các chính sách, các văn bản

quản lý Nhà nước đối với lễ hội truyền thống trên địa bàn huyện;

- Thực hiện việc thẩm định hồ sơ xin cấp phép tổ chức lễ hội cấp xã để

trình UBND quyết định cấp phép;

- Thực hiện chức năng chỉ đạo về chuyên môn đối với UBND cấp xã và

cán bộ văn hoá xã thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về lễ hội truyền thống

theo thẩm quyền;

- Thực hiện chức năng giám sát và xử lý vi phạm trong tổ chức và quản lý

lễ hội truyền thống theo quy định.

Giúp cho phòng văn hoá thông tin thực hiện chức năng về quản lý lễ hội theo

thẩm quyền có Trung tâm Văn hoá Huyện chịu trách nhiệm tổ chức các chương

trình trong lễ hội do UBND huyện tổ chức, tham mưu hướng dẫn tổ chức

chương trình cho các lễ hội do cấp xã tổ chức.

Uỷ ban Nhân dân cấp xã thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với

lễ hội truyền thống thông qua chức năng tổ chức các lễ hội cấp xã, giám sát các

lễ hội do thôn, bản tổ chức theo quy định pháp luật và thực hiện chức năng xử lý

vi phạm theo quy định.

Cán bộ văn hoá xã thực hiện chức năng tham mưu cho UBND xã thực

hiện các chức năng quản lý Nhà nước về lễ hội truyền thống theo thẩm quyền.

2.2.3 Cơ chế quản lý cộng đồng đối với lễ hội đình làng của dân tộc Cao

Lan.

a. Một số nét chung về cơ chế quản lý cộng đồng đối với lễ hội Đình làng của

dân tộc Cao Lan.

Lễ hội Đình làng của dân tộc Cao Lan được hình thành và phát triển cùng

với cộng đồng người Cao Lan. Do đó, việc tổ chức các lễ hội đình làng này hầu

hết là do cộng đồng các thôn, làng đứng ra tổ chức nhằm đáp ứng nhu cầu tâm

Page 52: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

52

linh cũng như sinh hoạt văn hóa của dân làng. Hầu hết việc tổ chức lễ hội do các

bô lão, các vị cao niên có kinh nghiệm tổ chức trong đó có người đứng đầu cai

quản các công việc của lễ hội là ông mo đame nhiệm. Việc tham gia lễ hội và tổ

chức lễ hội như thế nào là do Hội đồng các vị cao niên trong làng họp bàn trước

khi tổ chức lễ hội. Dần dần các quy định chung của Hội đồng các vị cao niên đó

trở thành một tiền lệ cho việc tổ chức và quản lý các lễ hội đình làng. Các quy

định tập trung vào sự tham gia đóng góp cho tổ chức lễ hội của các hộ gia đình

trong làng, quy định về nghi thức và các chủ lễ trong đình, quy định về trật tự

đối với lễ hội…Các quy định này không có văn bản nào cụ thể, nhưng có sự kế

thừa qua các lần tổ chức và trở thành các quy định riêng của cộng đồng người

Cao Lan về tổ chức và quản lý lễ hội của mình. Các quy định này được mọi

người, mọi gia đình tham gia lễ hội tôn trọng và tuân thủ một cách tự giác và

đầy đủ.

b. Một số quy định cụ thể

Quy định đối với các hộ gia đình tham gia lễ hội.

Lễ hội Đình làng là một nét sinh hoạt truyền thống mang tính cộng đồng của

người Cao Lan ở Tuyên Quang. Đây là lễ hội mang tính đặc trưng cho văn

hoá của cộng đồng người Cao Lan. Lễ hội được người dân các làng bản của

người Cao Lan tổ chức dưới sự tham gia của cộng đồng. Nguồn vật chất cũng

như nguồn lực cho công tác tổ chức là do các hộ gia đình tham gia đóng góp

theo quy định chung của làng. Do đó, để tổ chức lễ hội thành công và theo đúng

mục tiêu thì các hộ gia đình tham gia hội đình làng phải tham gia đóng góp nhất

định. Cứ trước mỗi lễ hội thì các vị cao niên trong làng lại tập trung họp bàn về

kế hoạch tổ chức lễ hội, phân công công việc cho các hộ gia đình và họp bàn

thống nhất quy định tham gia đóng góp nguồn lực cho hội đình. Thông thường

có các quy định đã được hình thành từ lâu và trở thành các tiền lệ để thực hiện.

Các tiền lệ đó bao gồm việc mỗi hộ gia đình đóng góp xôi, thịt gà, rượu, đồ

cúng, tiền...cho việc cúng lễ trong đó có quy định cụ thể về số lượng, chất

Page 53: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

53

lượng; đóng góp về các trang bị cho phần Hội như: các hộ gia đình đóng góp 5

quả còn khâu đẹp trong quả còn bắt buộc phải đựng gạo hoặc thóc, góp tre, gỗ

và các đồ dùng khác phục vụ lễ hội. Bên cạnh đó tuỳ vào những nội dung phát

sinh trong lễ hội khác với những kỳ hội trước mà có quy định các khoản đóng

góp khác theo quyết định của các vị bô lão trước khi lễ hội diễn ra. Ngoài ra để

đảm bảo lễ hội được tổ chức thành công thì trước khi diễn ra lễ hội Hội đồng các

bô lão cũng họp bàn quy định phân công công việc chuẩn bị cho từng nhóm hộ

gia đình. Trong đó bầu ra một Ban chuẩn bị các công việc cho lễ hội gọi là Cáp

gồm đại diện hai hộ gia đình phân theo các nhiệm kỳ. Nhiệm vụ của Cáp là

chuẩn bị các công việc cho tổ chức lễ hội như ghi sổ sách về các khoản đóng

góp, chuẩn bị các đồ lễ và các công việc cho phần hội, đồng thời chịu trách

nhiệm phân công cho các gia đình từng công việc chuẩn bị theo sự chỉ đạo của

ông mo cũng như Hội đồng các vị cao niên trong làng. Những quy định chung

này đều được các hộ gia đình tham gia thực hiện một các tự giác, tuân thủ chặt

chẽ. Do đó mà lễ hội đình làng diễn ra một cách suôn sẻ và thành công.

Quy định trong tổ chức lễ và tổ chức hội

Bên cạnh các quy định về tham gia và chuẩn bị cho tổ chức lễ hội còn có quy

định cho tổ chức phần lễ và tổ chức phần hội. Về phần lễ có quy định chặt chẽ

những ai được tham gia tế lễ, quy định về nội dung đọc văn tế, trang phục cúng

lễ, đồ cúng lễ…Theo đó chỉ có những vị bô bão trong làng có tài làm phép và

cầu khấn mới được phép thực hiện nghi lễ cúng lễ trong đình làng, văn tế viết

bằng chữ Hán Nôm của người Cao Lan….Ngoài ra còn quy định nội dung phần

lễ là để tỏ lòng tạ ơn của dân làng đối với Thành Hoàng, vị thần có công che

chở, phù hộ cho dân làng làm ăn phát đạt và suộc sống yên bình. Còn về phần

Hội, Ban tổ chức ( Chính là Hội đồng các vị cao niên trong làng ) quy định các

trò chơi bắt buộc tổ chức, vì nó thể hiện các giá trị văn hoá truyền thống to lớn

của người Cao Lan, là một sự tiếp nối truyền thống cha ông của người Cao Lan.

Trong đó có hội thi ném còn là trò chơi bắt buộc phải tổ chức trong phần Hội.

Page 54: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

54

Quy định của ban tổ chức trong việc đảm bảo trật tự trong lễ hội

Để đảm bảo cho hội đình làng diễn ra thành công, để hội đình làng diễn ra

thật sự có không khí vui vẻ, thể hiện tinh thần đoàn kết và giáo dục truyền thống

cho các thế hệ việc tham gia lễ hội cũng phải tuân theo các quy định về trật tự

nơi lễ hội. Theo quan niệm của người Cao Lan thì tổ chức lễ hội mang tính

thiêng liêng, thể hiện tính tín ngưỡng cao đối với thế giới tâm linh. Lễ hội được

tổ chức thành công là biểu hiện của sự may mắn cho dân làng trong năm mới đó.

Còn nếu trong lễ hội có bất trắc gì tạo nên không khí không vui cho lễ hội thì

năm đó dân làng sẽ không gặp may mắn. Do vậy mà, theo quy định thì tất cả

mọi người tham gia lễ hội đều phải kiểm soát mọi hành vi của mình, tránh các

hiện tượng như cãi nhau, chửi nhau, gây gổ, đánh nhau gây mất trật tự tại lễ hội.

Vì những hành vi này sẽ làm ảnh hưởng đến không khí lễ hội và theo quan niệm

thì sẽ làm cho cả làng không may mắn trong năm đó. Chính vì thế hầu hết các

gia đình đều tự bảo ban nhau, giáo dục cho con cháu tham gia lễ hội một cách

lành mạnh, không đánh chửi nhau trong lễ hội. Đây là một quan niệm mang tính

tín ngưỡng nhưng đồng thời cũng là một cách giáo dục các thế hệ trong việc

quản lý và bảo vệ trật tự nơi lễ hội để hội đình làng diễn ra với một không khí

vui vẻ và phấn khởi. Tuy quy định này không chính thức thành văn bản nhưng

nó là một quy ước ( ngầm ) quan trọng đối với việc quản lý lễ hội.

c. Vai trò của cộng đồng đối với tổ chức và quản lý lễ hội đình làng của dân tộc

Cao Lan

Lễ hội đình làng là hoạt động văn hoá mang tính cộng đồng của người

Cao Lan. Lễ hội được tổ chức trên tinh thần tham gia một cách tự nguyện, tự

giác của người dân trong làng. Sức hấp dẫn cũng như tính giáo dục sâu sắc của

lễ hội chính là yếu tố quyết định đến việc tổ chức và tham gia hội làng của người

dân trong làng theo một định kỳ hàng năm. Việc tổ chức lễ hội là do người dân

trong làng thống nhất quyết định, lễ hội có được duy trì tổ chức định kỳ hay

không là do chính người dân trong làng quyết định. Mọi công việc chuẩn bị và

Page 55: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

55

đóng góp nguồn lực cho việc tổ chức lễ hội là do cộng đồng tham gia. Hơn nữa

việc tổ chức lễ hội là nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt văn hoá của cộng đồng

người dân trong làng, sức hấp dẫn của lễ hội sẽ thu hút sự tham gia một cách tự

nguyện và đông đảo mọi thế hệ người dân trong làng tham gia. Lễ hội được tổ

chức đáp ứng đúng với nhu cầu của người dân trong làng sẽ quyết định đến việc

tồn tại của chính lễ hội trong cộng đồng. Do vậy, lễ hội được tổ chức thành công

hay không phụ thuộc vào vai trò của cộng đồng đối với lễ hội. Bên cạnh đó cộng

đồng cũng chính là nơi lưu giữ và phát triển các giá trị văn hoá truyền thống của

lễ hội. Lễ hội có giữ được bản sắc truyền thống hay không phụ thuộc rất lớn vào

sự lưu giữ và bảo vệ của cộng đồng. Vì vậy cộng đồng chính là mảnh đất để lễ

hội được duy trì và phát triển.

Do đó có thể nói lễ hội đình làng chính là con đẻ về tinh thần của đồng

bào dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang. Việc duy trì và phát triển hội đình làng

phụ thuộc rất lớn vào vai trò quyết định của cộng đồng làng bản của người Cao

Lan. Do đó, quá trình quản lý Nhà nước và tổ chức lễ hội nhằm duy trì và phát

triển loại hình lễ hội này đòi hỏi phải phát huy cao độ vai trò của cộng đồng.

d. Một số nhận xét

Như vậy việc quản lý Nhà nước đối với các lễ hội truyền thống trong đó

có lễ hội Đình làng của dân tộc Cao Lan là một trong những nội dung nhằm duy

trì và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống của các dân tộc thiểu số ở Tuyên

Quang. Thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với lễ hội truyền thống đã có

hệ thống các cơ quan quản lý theo từng loại hình lễ hội đã được phân cấp quản

lý theo quy định tại Quy chế tổ chức lễ hội do Bộ Văn hoá Thông tin ban hành,

cùng với các văn bản của địa phương ban hành. Bên cạnh đó việc thực hiện chức

năng quản lý Nhà nước đối với các lễ hội truyền thống trên địa bàn tỉnh nói

chung và lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan nói riêng còn có vai trò tự quản

của cộng đồng đối với việc tổ chức và quản lý lễ hội. Các lễ hội truyền thống

của các dân tộc thiểu số gắn kết chặt chẽ với cộng đồng, do vậy mà cộng đồng

Page 56: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

56

cũng có các quy định riêng trong việc tổ chức và quản lý lễ hội của mình. Vì thế

trong quản lý Nhà nước cần có sự kết hợp các quy định mang tính pháp lý của

Nhà nước với các quy định mang tính tự quản của cộng đồng nhằm phát huy cao

độ vai trò của cộng đồng đối với lễ hội của mình. Tuy nhiên có thể thấy rằng

Quy chế tổ chức lễ hội do Bộ Văn hoá – Thông tin ban hành quy định các lễ hội

do làng, thôn tổ chức thì không cần xin phép, không cần báo cáo với cơ quan

quản lý phần nào đã làm cho các lễ hội này thiếu sự quan tâm của các cấp chính

quyền. Vì thế mà việc quản lý Nhà nước đối với các lễ hội truyền thống do làng,

thôn tổ chức nhiều khi mang tính hình thức, thiếu chặt chẽ dẫn đến việc tổ chức

các lễ hội truyền thống mang tính tự phát, không có mục đích và nội dung rõ

ràng, hơn nữa còn làm mai một dần các lễ hội đó do thiếu sự quản lý và hỗ trợ

của Nhà nước.

2.2.4 Thực tế tổ chức lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang

hiện nay

a. Một số kết quả đã đạt được trong tổ chức và quản lý lễ hội

Hiện nay, Tuyên Quang là một trong những tỉnh có dân số là người Cao

Lan đông nhất cả nước, với 54.095 người sống tập trung chủ yếu ở ba huyện

Sơn Dương, Yên Sơn, Hàm Yên. Đông nhất là huyện Sơn Dương với 27.869

người, Yên Sơn 19.631 người, Hàm Yên 5.840 người, Thị xã Tuyên Quang 409

người, Na Hang 191 người, Chiêm Hoá 155 người ( Số liệu của Cục thống kê

tỉnh năm 1999 ) đông thứ tư toàn tỉnh sau người Kinh, Tày Dao. Thực hiện chủ

trương bảo tồn và phát triển các giá trị văn hoá truyền thống của các dân tộc

thiểu số ở Tuyên Quang, những năm gần đây việc khôi phục và tổ chức các lễ

hội đình làng của người Cao Lan ngày càng được chú trọng. Việc tổ chức các lễ

hội truyền thống của dân tộc Cao Lan đã đạt được những kết quả nhất định:

Về mặt giáo dục truyền thống:

Lễ hội đình làng truyền thống được tổ chức với mục đích đáp ứng nhu cầu sinh

hoạt tín ngưỡng cũng như sinh hoạt văn hoá truyền thống của người Cao Lan ở

Page 57: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

57

Tuyên Quang. Đây là nền tảng tinh thần của cộng đồng người Cao Lan, nó trở

thành một nhu cầu sinh hoạt không thể thiếu của cuộc sống. Những năm qua

việc tổ chức lễ hội đình làng tại các làng bản đều đáp ứng được nhu cầu tinh

thần của người Cao Lan. Những năm qua việc tổ chức các lễ hội đình làng đều

đã cơ bản đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt của cộng đồng. Điều này được thể

hiện thông qua sức hút của các lễ hội này, theo nghiên cứu thì có tới 100% số hộ

gia đình ở thôn Giếng Tanh, xã Kim Phú, huyện Yên Sơn là tham gia lễ hội đình

làng truyền thống ( Theo thông tin từ cụ Hoàng Trường Vinh – bô lão của thôn

Giếng Tanh phụ trách việc tổ chức lễ hội hàng năm ), có khoảng 80% số hộ gia

đình tham gia ở đình làng Minh Cầm, xã Đội Bình ( Thông tin từ người dân

trong làng Minh Cầm ), và ở các làng khác đều có sự tham gia rất đông của

người dân. Và hầu hết họ tham gia lễ hội là nhằm đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng (

hầu hết là các cụ cao tuổi ) để thể hiện sự biết ơn tới Thành Hoàng Làng - vị

thần có công che chở phù hộ dân làng làm ăn thuận lợi và đem lại may mắn cho

người dân, hơn nữa còn là dịp để giáo dục con cháu đối với công lao cha ông và

truyền thống của dân tộc mình; còn các nam nữ thanh niên, trẻ em tham gia lễ

hội nhằm đáp ứng nhu cầu về vui chơi, giải trí và được hiểu hơn về truyền thống

của dân tộc mình do lễ hội có nhiều trò chơi dân gian mà họ được tham gia. Một

điều dễ nhận thấy ở hầu hết các lễ hội đình làng được tổ chức không chỉ của

riêng người Cao Lan mà có sự tham gia đông đảo của các dân tộc anh em trong

vùng. Sức hút của lễ hội đình làng đã tạo nên một lễ hội mang tính cộng đồng

chung cho cả vùng. Đặc biệt là có sự tham gia các chương trình văn hoá văn

nghệ đặc sắc của các dân tộc anh em khác như Dao đỏ, Kinh, Tày, Sán Dìu…

trong lễ hội đình làng Giếng Tanh và Minh Cầm. Còn các lễ hội đình làng khác

cũng thu hút sự tham gia thi hội tung còn của các nam nữ thanh niên các dân tộc

anh em khác trong vùng đến trảy hội. Như vậy có thể thấy được sức hút, sức lan

toả của lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan hiện nay đã đáp ứng được nhu cầu

Page 58: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

58

sni hoạt và giao lưu văn hoá của cộng đồng người Cao Lan nói riêng và nhân

dân trong vùng nói chung.

Về mặt tổ chức quản lý: Việc tổ chức và quản lý lễ hội đình làng của

dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang thời gian qua đã tuân theo các quy định của

Nhà nước về tổ chức lễ hội và các quy định của riêng cộng đồng dân tộc Cao

Lan. Việc tổ chức lễ hội đình làng đảm bảo duy trì các yếu tố truyền thống và

tiếp thu các giá trị hiện đại của văn hoá các dân tộc khác. Qua báo cáo tổng kết

công tác của Sở Văn hoá Thông tin Tỉnh năm 2007 thì qua công tác kiểm tra tổ

chức lễ hội trong đó có lễ hội Đình làng của dân tộc Cao Lan ở xã Kim Phú và

Đội Bình thì không có lễ hội vi phạm quy chế. Hơn nữa các lễ hội ở các thôn,

làng khác đều được tổ chức tuân theo các quy định chung của cộng đồng đã

được các vị cao tuổi bàn bạc quyết định. Do vậy các lễ hội đều diễn ra trong

không khí vui vẻ, phấn khởi và thành công, tuân theo các quy định chung của

pháp luật và của cộng đồng.

Về mặt thể hiện các giá trị văn hoá truyền thống trong lễ hội

Hiện nay các lễ hội truyền thống vẫn giữ được một số giá trị văn hoá

truyền thống của cộng đồng dân tộc Cao Lan. Đặc biệt là lễ hội Đình làng Giếng

Tanh hiện nay vẫn giữ được nhiều yếu tố truyền thống nhất của dân tộc Cao

Lan, chẳng hạn như các nghi lễ cúng tế, trang phục làm lễ, sớ văn tế lễ trong

phần Lễ; còn phần Hội thì vẫn lưu giữ được các trò chơi dân gian như hội tung

còn, đẩy gậy, kéo co, các điệu múa như chim gâu, múa xúc tép…đặc biệt vẫn

lưu giữ hình thức hát Sình ca truyền thống giữa nam nữ thanh niên thông qua

các chương trình thi văn nghệ với các dân tộc anh em khác cũng như các thôn

trong xã với nhau. Còn các lễ hội đình làng ở các làng, thôn khác thì vẫn duy trì

được nghi thức cúng lễ trong phần lễ và hội tung còn trong phần hội. Ngoài ra lễ

hội đình làng càng sinh động hơn khi có sự tham gia các chương trình văn hoá

văn nghệ của các dân tộc khác tại lễ hội, đã có sự kế thừa và tiếp thu văn hoá

mới cho lễ hội. Như vậy, có thể nói việc tổ chức các lễ hội đình làng vẫn giữ

Page 59: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

59

được những giá trị truyền thống, và cơ hội để duy trì, bảo tồn các giá trị văn hoá

truyền thống trong lễ hội vẫn được giữ gìn nếu có sự hỗ trợ và hướng dẫn của

Nhà nước.

Về mặt số lượng lễ hội được tổ chức

Các lễ hội đình làng của người Cao Lan hiện nay hầu hết được tổ chức định kỳ

hàng năm. Theo kết quả khảo sát cũng như thông tin của Phòng Văn hoá Thông

tin huyện Yên Sơn - địa phương duy nhất còn tồn tại hình thức sinh hoạt lễ hội

đình làng của người Cao Lan ở Tuyên Quang thì hiện nay có hai lễ hội đình làng

của người Cao Lan mang tính chính thức và đặc trưng nhất cho văn hoá người

Cao Lan là Đình làng Giếng Tanh ( xã Kim Phú ), lễ hội đình làng Minh Cầm (

xã Đội Bình ), [qua khảo sát cũng như qua nghiên cứu của các tác giả như: Phù

Ninh - Nguyễn Thịnh trong Sách Văn hoá truyền thống Cao Lan ( Nhà xuất bản

văn hoá dân tộc 1999 ), Báo cáo tham luận về “ Thực trạng văn hoá những biểu

hiện tích cực và hạn chế trong hoạt động văn hoá, lễ hội của dân tộc Cao Lan ở

Tuyên Quang ” của Sở Văn hoá – Thông tin trong Hội Nghị tổng kết công tác

ngành văn hoá tại Tuyên Quang năm 2007]. Còn có các lễ hội đình làng không

chính thức như thôn Song Lĩnh ( xã Lưỡng Vượng ), thôn Khe Cua 2 ( xã Đội

Cấn ), Thôn Mỏ Tôm ( xã Thái Long )…Bên cạnh đó có một số lễ hội đình làng

sau nhiều năm gian đoạn nay được khôi phục cùng với thiết chế đình làng như

hội đình làng ở thôn Khe Cua 2, thôn Xã Ngoại ( Đội Cấn )…

Như vậy hiện nay số lượng lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang

chưa có thống kê chính thức. Tuy nhiên, xu hướng hiện nay là các lễ hội truyền

thống của dân tộc Cao Lan dần được khôi phục với số lượng ngày càng nhiều

đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tinh thần của người dân.

b. Những hạn chế thiếu sót trong tổ chức và quản lý lễ hội đình làng của dân tộc

Cao Lan

Page 60: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

60

Qua khảo sát và nghiên cứu các lễ hội đình làng được tổ chức trong thời

gian vừa qua của đồng bào dân tộc Cao Lan có thể thấy được một số hạn chế

thiếu sót trong quá trình tổ chức cũng như quản lý. Thể hiện như sau:

Về việc tổ chức các lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan ở Tuyên

Quang: Hiện nay có thể thấy việc tổ chức các lễ hội tuy đã có sự hỗ trợ và quản

lý của Nhà nước nhưng có một số lễ hội đình làng của người Cao Lan vẫn mang

tính tự phát và không có định hướng. Hiện nay duy có hai lễ hội đình làng ở

thôn Giếng Tanh ( xã Kim Phú ), và Minh Cầm ( xã Đội Bình ) là phát triển có

định hướng và còn giữ được các giá trị truyền thống của người Cao Lan, và hai

ngôi đình này cũng là hai ngôi đình duy nhất được cộng nhận là di sản kiến trúc

của Tuyên Quang. Còn lại các lễ hội đình làng ở các nơi khác đều duy trì và

phát triển một cách tự phát, nhiều yếu tố truyền thống của lễ hội bị mai một

thậm chí mất dần. Chẳng hạn như hầu hết trong các lễ hội đình làng hiện nay

người dân Cao Lan không còn mặc trang phục truyền thống đi dự hội như trước

nữa, việc tổ chức các trò chơi dân gian cũng dần mất đi trong lễ hội thay vào đó

là các trò chơi mang tính hiện đại như đá bóng, thậm chí có các trò chơi còn

mang tính chất cờ bạc trong các lễ hội còn có chiều hướng gia tăng như trò quay

“ Chiếc nón kỳ diệu”, trò ném vòng vào cổ chai, trò sóc đĩa ăn tiền…, hơn nữa

các chương trình văn nghệ truyền thống trong đó có hát Sình Ca và các điệu múa

truyền thống hầu hết xuất hiện hạn chế trong các lễ hội mà thay vào đó là các

chương trình ca nhạc, các điệu múa, điệu nhảy hiện đại trong các chương trình

thi văn nghệ của chương trình lễ hội. Đó là các biểu hiện về mặt tiêu cực, cũng

như biểu hiện mai một của các giá trị văn hoá truyền thống trong lễ hội đình

làng.

Bên cạnh các lễ hội truyền thống đã được khôi phục và duy trì còn có các

lễ hội bị gián đoạn hay mất hẳn trong sinh hoạt văn hoá của người Cao Lan.

Chẳng hạn như lễ hội đình làng ở thôn Kỳ Lãm ( xã Đội Cấn ) trước đây được tổ

chức thường xuyên định kỳ vào mùng 4 tết âm lịch hàng năm. Nhưng khoảng 5

Page 61: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

61

năm trở lại đây lễ hội đình làng đã không còn tồn tại phần hội vốn là phần hấp

dẫn thu hút nhiều người tham gia nhất mà chỉ còn phần lễ. Hay như ở thôn Mỏ

Tôm, tuy vẫn tồn tại thiết chế đình làng và phần lễ nhưng phần hội hầu như

không được tổ chức đã nhiều năm nay. Đây là một mất mát lớn trong đời sống

sinh hoạt văn hoá truyền thống của người Cao Lan.

Về vai trò của quản lý Nhà nước đối với lễ hội đình làng của dân tộc

Cao Lan

Hiện nay có thể thấy việc quản lý Nhà nước đối với lễ hội truyền thống

của người Cao Lan còn nhiều hạn chế. Đó là nhiều lễ hội đình làng không được

sự quan tâm hỗ trợ đúng mức từ phía Nhà nước đặc biệt là chính quyền cấp xã,

thiếu sự hướng dẫn chỉ đạo về mặt chuyên môn tổ chức, thiết kế các chương

trình lễ hội từ phía cơ quan chuyên môn quản lý về văn hóa, do đó các lễ hội

diễn ra một cách tự phát, bị biến dạng theo xu thế tiếp nhận lai tạp các giá trị văn

hoá của các dân tộc khác, làm mất đi giá trị truyền thống của dân tộc Cao Lan

trong lễ hội. Sự quan tâm của Nhà nước còn chưa thực sự toàn diện, bởi lẽ một

số lễ hội như Đình làng Giếng Tanh, Đình làng Minh Cầm được Nhà nước hỗ

trợ về kinh phí, chuyên môn tổ chức lễ hội…trong khi đó hầu hết các lễ hội còn

lại là sự tự phát trong tổ chức, không có sự hỗ trợ nào trong tổ chức lễ hội. Điều

này làm cho các lễ hội đình làng phát triển chỉ mang tính cục bộ, không toàn

diện.

Các biểu hiện tiêu cực trong tổ chức và quản lý lễ hội ngày càng có xu

hướng gia tăng do không được quản lý tốt tại các lễ hội đình làng của người Cao

Lan. Trong đó phải kể đến các trò chơi dân gian mất đi thay vào là các trò chơi

ăn tiền, bói toán làm mất đi tình truyền thống của lễ hội thậm chí làm chệch mục

tiêu tổ chức lễ hội, làm ảnh hưởng chung tới trật tự lễ hội và không khí lễ hội.

Hơn nữa còn làm mất đi tính đặc trưng của lễ hội người Cao Lan, đó là cái mất

lớn nhất trong khi chủ trương của Nhà nước là duy trì và phát huy các giá trị

truyền thống dân tộc.

Page 62: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

62

Ngoài ra cũng cần thấy một thực tế là cùng với việc gắn việc tổ chức lễ

hội với phát triển du lịch ở địa phương thì hiện tượng buôn bán thương mại ngày

càng xuất hiện nhiều tại lễ hội. Mọi người không phải hào hứng đến với lễ hội

để tỏ lòng thành với cha ông, để thoả mãn nhu cầu sinh hoạt văn hoá tinh thần

mà là để kiếm thêm tiền thông qua việc buôn bán các hàng hoá. Điều này làm

cho hiện tượng thương mại trong lễ hội phát triển tràn lan, làm mất đi không khí

và ý nghĩa của lễ hội truyền thống.

Như vậy, tuy rằng đã có những thành công trong tổ chức và quản lý lễ hội

truyền thống của người Cao Lan thì vẫn còn những hạn chế thiếu sót cần được

định hướng và điều chỉnh cho phù hợp với mục tiêu duy trì và phát huy các giá

trị văn hoá truyền thống trong thời kỳ phát triển. Trong đó vai trò của Nhà nước

về định hướng và hỗ trợ là rất quan trọng.

c. Nguyên nhân của những hạn chế trên

Việc tổ chức và quản lý các lễ hội đình làng truyền thống của dân tộc Cao

Lan còn những hạn chế thiếu sót trên là do một số nguyên nhân sau:

Trước hết đó chính là về quản lý Nhà nước và vai trò của Nhà nước đối

với việc duy trì và phát triển các lễ hội đình làng truyền thống của dân tộc Cao

Lan chưa được sâu sắc và chú trọng. Điều này thể hiện qua các chính sách đối

với việc tổ chức và quản lý các lễ hội chưa đồng bộ và toàn diện. Thực tế cho

thấy, hiện nay duy nhất có hai lễ hội đình làng của người Cao Lan ở hai làng

Giếng Tanh ( xã Kim Phú ) và Làng Minh Cầm ( xã Đội Bình ) là được sự hỗ

trợ, đầu tư của chính quyền địa phương cũng như của các cấp. Hai lễ hội này

được đầu tư về cơ sở vật chất như tu sửa lại đình theo nguyên trạng truyền

thống, hỗ trợ kinh phí trong việc xây dựng đường giao thông phục vụ lễ hội, hỗ

trợ về mặt chuyên môn tổ chức lễ hội,…Do đó mà hai lễ hội này vẫn giữ được

những nét văn hoá truyền thống của người Cao Lan. Trong khi đó, các lễ hội

đình làng ở các địa phương khác hầu hết đều duy trì một cách tự phát, chủ yếu

do người dân trong làng tự tổ chức, thiếu sự hỗ trợ về kinh phí, về chuyên môn

Page 63: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

63

tổ chức nên nhiều giá trị văn hoá truyền thống không những không được khôi

phục mà còn bị mất dần. Đây cũng chính là một nguyên nhân dẫn đến các lễ hội

này diễn ra một cách tự phát, không có sự định hướng của chính quyền địa

phương dẫn đến các lễ hội này tổ chức mờ nhạt, không mang đậm bản sắc riêng,

thậm chí nhiều lễ hội do không có đủ điều kiện tổ chức như không gian lễ hội

mà không thể tổ chức được như ở làng Kỳ Lãm ( xã Đội Cấn ), làng Mỏ Tôm (

xã Thái Long ), hiện nay lễ hội đã mất đi phần hội chỉ còn lại phần lễ do các vị

cao niên trong làng tổ chức. Đây là một mất mát lớn của cộng đồng dân tộc Cao

Lan trong sinh hoạt văn hoá cộng đồng do thiếu sự quan tâm chỉ đạo, hỗ trợ và

quản lý từ phía Nhà nước đối với việc tổ chức lễ hội. Hơn nữa việc quản lý đối

với các lễ hội này của các cấp chính quyền địa phương đặc biệt là cấp xã còn rất

hạn chế, mang tính hình thức. Nhiều lễ hội không hề có sự chỉ đạo và quan tâm

của chính quyền nên có nhiều yếu tố như cờ bạc, mê tín dị đoan như bói toán

diễn ra mà không có biện pháp xử lý.

Do ảnh hưởng của sự phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là kinh tế thị

trường cộng với xu thế giao thoa văn hoá diễn ra mạnh mẽ cũng đã ảnh hưởng

không nhỏ đến các giá trị văn hoá truyền thống trong lễ hội đình làng của người

Cao Lan. Dân tộc Cao Lan vốn là một dân tộc ưa thích những cái mới, kinh tế xã

hội phát triển cùng với cơ chế giao lưu văn hoá như hiện nay, người Cao Lan đã

tiếp thu cho mình những văn hoá mới cho phù hợp. Tuy nhiên việc tiếp thu đó

lại không có định hướng, không có chọn lọc nên đã tiếp thu một cách hoàn toàn

mà không chắt lọc, dẫn đến quay lưng lại với văn hoá truyền thống, coi đó là lạc

hậu, là cổ hủ.

Bên cạnh nguyên nhân mang tính khách quan đó, những hạn chế trên

của lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan còn xuất phát từ chính bản thân của

cộng đồng dân tộc Cao Lan. Do nhận thức chưa được sâu sắc về vai trò của việc

duy trì và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, việc giáo dục và truyền lại

cho các thế hệ sau những giá trị văn hoá của cộng đồng mình không được chú

Page 64: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

64

trọng và thực hiện thường xuyên đã làm cho nhiều giá trị văn hoá không được

duy trì trong lễ hội như các trò chơi dân gian truyền thống, các làn điệu dân ca,

các điệu múa đặc sắc…, Hơn nữa việc tiếp thu một cách tràn lan không có chọn

lọc các giá trị văn hoá mới trong lễ hội đã làm mất đi tính đặc trưng của văn hoá

lễ hội đình làng của người Cao Lan.

Do vậy, trong việc bảo vệ và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống

trong lễ hội cũng như việc duy trì, khôi phục lại các lễ hội đình làng truyền

thống của người Cao Lan rất cần có các giải pháp quản lý Nhà nước thích hợp

gắn kết chặt chẽ với vai trò chủ động của cộng đồng dân tộc Cao Lan.

Page 65: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

65

Chƣơng 3

MỘT SỐ GIẢI PHÁP VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỂ GIỮ GÌN VÀ PHÁT

TRIỂN LỄ HỘI ĐÌNH LÀNG CỦA DÂN TỘC CAO LAN Ở

TUYÊN QUANG

3.1 Phƣơng hƣớng giữ gìn và phát triển lễ hội đình làng của dân tộc Cao

Lan ở Tuyên Quang trong thời gian tới.

Qua nghiên cứu thực tiễn lễ hội đình làng và công tác tổ chức, quản lý đối

với lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan trong thời gian vừa qua, để có thể giữ

gìn và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của lễ hội trong thời

gian tới thiết nghĩ trong công tác tổ chức và quản lý cần chú trọng đi theo các

phương hướng cơ bản sau:

3.1.1 Giữ gìn các giá trị truyền thống

Lễ hội đình làng là một hoạt động sinh hoạt văn hoá truyền thống của

người Cao Lan, trong đó chứa đựng và biểu hiện nhiều giá trị truyền thống nhất.

Thông qua các lễ hội mà các giá trị văn hoá truyền thống được thể hiện và phát

huy. Vì vậy trong tổ chức cũng như quản lý đối với lễ hội đình làng trong thời

gian tới cần tâp trung khuyến khích duy trì các hoạt động văn hoá truyền thống

làm nên nét độc đáo riêng có của người Cao Lan trong lễ hội. Cụ thể như sau:

Khuyến khích việc sử dụng các trang phục làm lễ truyền thống trong

phần lễ, duy trì và khôi phục lại các nghi thức làm lễ cổ truyền của người Cao

Lan trong phần Lễ như sử dụng văn tế bằng tiếng chữ Cao Lan cổ ( Chữ Hán

Nôm cổ ), duy trì đội ngũ làm lễ gồm chủ tế, người xướng tế, người đọc văn tế,

và 4 chấp sự.

Duy trì các trò chơi dân gian truyền thống của người Cao Lan trong

phần Hội. Đặc biệt là những trò chơi mang tính thượng võ, thể hiện được sức

mạnh và tinh thần đoàn kết cao của cộng đồng trong phần hội như duy trì hội thi

tung còn đã có từ lâu đời, duy trì trò đẩy gậy, trò chơi đu hay đi kà kheo, khôi

Page 66: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

66

phục lại các trò chơi truyền thống đã thất truyền như trò thi bắn nỏ, bắn cung

tên, thi khâu còn…tại lễ hội

Duy trì các sinh hoạt văn hoá văn nghệ truyền thống trong phần Hội như

hát Sình Ca, hát ru, đồng thời duy trì và khôi phục lại các điệu múa truyền thống

tại lễ hội như múa Chim Gâu ( Lồng nộc lau ), múa xúc tép, múa Đâm cá, múa

phát đường ( Hoi Lân )…phụ hoạ cho các làn điệu dân ca.

3.1.2 Mở rộng và nâng cao chất lƣợng các chƣơng trình trong lễ hội với

mục tiêu vừa kết hợp truyền thống vừa kết hợp tính hiện đại cho lễ hội.

Xây dựng các chương trình có sự tham gia các hoạt động giao lưu văn

hoá văn nghệ với các dân tộc anh em khác đặc biệt là các điệu hát dân ca và dân

vũ của các dân tộc anh em trong vùng làm phong phú thêm các chương trình cuả

lễ hội. Hơn nữa cần có sự chọn lọc trong việc tổ chức lễ hội có đan xen yếu tố

hiện đại như trong tổ chức các trò chơi của lễ hội có thêm các trò chơi khác như

kéo co, bóng đá, thi đánh cầu lông…tạo không khí vui vẻ cho các dân tộc anh

em khác cùng tham gia, hay như có thêm các chương trình mới như phần thi hoa

hậu các dân tộc tại lễ hội, biểu diễn trang phục của dân tộc Cao Lan và các dân

tộc anh em khác…

3.1.3 Công tác “ Gạn đục khơi trong ” trong tổ chức và quản lý lễ hội

Ban tổ chức lễ hội cần xoá bỏ các thủ tục cũng như nghi thức quá rườm

rà, phức tạp gây hạn chế tới việc tham gia lễ hội của cộng đồng như các quy

định quá chặt chẽ về việc tham gia lễ hội cũng như sự đóng góp quá sức đối với

người dân, dẫn đến tình trạng họ muốn tham gia mà không có đủ điều kiện đóng

góp, có hình thức quản lý đối với các trường hợp kinh doanh buôn bán tràn lan

gây lộn xộn trong lễ hội, các loại hàng hoá được buôn bán nên tập trung vào các

loại vật lưu niệm là đặc trưng của lễ hội. Có biện pháp loại bỏ các biểu hiện tiêu

cực tại lễ hội như bói toán, lên đồng, cờ bạc… làm mất đi sự văn minh và không

khí của lễ hội đình làng.

Page 67: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

67

3.1.4 Về phát triển các lễ hội: Mở rộng phạm vi tổ chức lễ hội ra các địa

phương khác khi có điều kiện tổ chức. Chú trọng mở rộng số lượng lễ hội, khôi

phục lại lễ hội đã bị thất truyền ở một số địa phương đáp ứng nhu cầu sinh hoạt

văn hoá của người dân tại địa phưong tránh hiện tượng quá tải cho các lễ hội

nhỏ khác mà cơ sở không đáp ứng được.

3.1.5 Kết hợp tổ chức lễ hội đình làng với phát triển kinh tế đặc biệt là các hoạt

động du lịch văn hoá truyền thống tại các làng văn hoá của dân tộc Cao Lan.

Trong đó tiếp tục khảo sát và hỗ trợ việc hoàn thành cơ sở vật chất một số làng

của người Cao Lan khác để được công nhận là làng văn hoá làm cơ sở cho việc

phát triển du lịch lễ hội tại địa phương. Việc kết hợp lễ hội đình làng của người

Cao Lan với phát triển du lịch văn hoá là một chủ trương phù hợp nhằm gắn sự

nghiệp phát triển văn hoá với kinh tế du lịch. Tuy nhiên, các cấp chính quyền

cũng cần có nghiên cứu, có kế hoạch và lộ trình thích hợp.

Thực hiện chủ trương xã hội hoá trong việc tổ chức lễ hội đình làng của

người Cao Lan, nhằm thu hút được nhiều nguồn lực hơn từ nhân dân, các doanh

nghiệp kinh tế cho việc tổ chức để duy trì và phát triển loại hình lễ hội này,

trong đó lấy phương châm “ Nhà nước và nhân dân cùng làm ” là nòng cốt.

3.1.6 Gắn việc tổ chức lễ hội đình làng của người Cao Lan với phong trào “

Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư ” đã được Trung

ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam phát động.

3.2 Một số kinh nghiệm và bài học tổ chức ở các địa phƣơng

3.2.1 Một số nét chung về lễ hội ở Việt Nam

Việt Nam là một đất nước có văn hoá - lễ hội phong phú và đa dạng. Theo

thống kê của Bộ Văn hoá – Thông tin ( nay là Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch )

thì cả nước mỗi năm có gần 9000 lễ hội diễn ra. Mỗi một vùng miền, mỗi một

dân tộc thiểu số trong 54 dân tộc anh em có một loại hình lễ hội truyền thống

đặc trưng cho nét văn hoá độc đáo của mình. Các lễ hội truyền thống đều mang

ý nghĩa tín ngưỡng sâu sắc và sinh hoạt văn hoá độc đáo của cộng đồng. Lễ hội

Page 68: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

68

là dịp để mỗi người dân thể hiện truyền thống đạo lý “ uống nước nhớ nguồn”

với các thế hệ cha ông đã có công với nước, với làng; là nơi để gặp gỡ và sinh

hoạt văn hoá của cộng đồng. Mỗi địa phương, mỗi vùng miền, mỗi dân tộc lại có

các lễ hội riêng, do vậy có các kinh nghiệp tổ chức và quản lý lễ hội riêng của

mình. Dưới đây là kinh nghiệp tổ chức lễ hội của một số địa phương tiêu biểu.

3.2.2 Kinh nghiệm tổ chức lễ hội Đền Hùng – Phú Thọ

a. Cách thức tổ chức

Lễ hội Đền Hùng là một lễ hội tín ngưỡng truyền thống cấp quốc gia. Đây

là lễ hội thể hiện lòng tri ân sâu sắc của con người Việt Nam đối với tổ tiên đã

sinh thành. Hàng năm lễ hội Đền Hùng được tổ chức long trọng với nghi thức

đại lễ cấp quốc gia, do đó khi tổ chức lễ hội đều có các chương trình kế hoạch cụ

thể và được giao cho Tỉnh Phú Thọ chủ trì tổ chức. Hàng năm, lễ hội Đền Hùng

được tổ chức với quy mô ngày càng lớn và ngày càng đáp ứng nhu cầu chảy hội

của du khách thập phương. Với quy mô cấp quốc gia, lễ hội Đền Hùng được tổ

chức với quy mô “ hoành tráng ” từ khắp các vùng lân cận khu vực Đền Hùng.

Phần lễ được Ban tổ chức chú trọng, chuẩn bị cho lễ dâng hương tưởng niệm các

vua Hùng, Ban Tổ chức đã chủ động bố trí đội hình đoàn hành lễ, vật phẩm, các

nghi thức đảm bảo trang nghiêm – thành kính, thể hiện lòng tri ân công đức tổ

tiên và đạo lý uống nước nhớ nguồn của nhân dân Phú Thọ và đồng bào cả

nước. Trong phần hội, chú trọng tới các hoạt động văn hoá vân nghệ dân gian

như: rước kiệu, hát xoan, hát ghẹo, múa rồng, múa sư tử, thả diều, thi nấu cơm,

thi làm bánh chưng bánh giày…, thêm vào đó là các chương trình giao lưu văn

hoá văn nghệ giữa các vùng miền, các dân tộc anh em ở các địa phương khác,

các chương trình đêm thơ, triển lãm văn hoá, diễn xướng dân gian, hội

trại…được tổ chức hoành tráng thu hút đông đảo thập khách tham gia.

Bên cạnh đó công tác tổ chức chuẩn bị cũng được chú trọng. Để phục vụ tốt lễ

hội tỉnh Phú Thọ đã tập trung chỉ đạo xây dựng tổng thể cảnh quan khu di tích

lịch sử Đền Hùng. Hàng loạt các công trình phụ trợ được tôn tạo, tu bổ, sửa

Page 69: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

69

chữa, chỉnh trang để đón khách thập phương hành hương về đất cội nguồn tìm

tòi, khám phá những nét đẹp truyền thống và thưởng ngoạn các lễ hội say đắm

lòng người. Tỉnh Phú Thọ cũng chú trọng hơn trong việc sắp xếp các hàng quán,

các đồ lưu niệm để phục vụ nhu cầu đa dạng của du khách. Khu di tích cũng vừa

cho hoàn thành một hội trường lớn với diện tích 1.000m2 để tiếp đón đồng bào

nghỉ chân. Sân lễ hội chính có sức chứa hơn 1 vạn người cũng được chỉnh trang,

hoàn thiện hơn để làm nơi tổ chức triển lãm trái cây 3 miền và là nơi tập trung

thực hiện nghi lễ vào ngày lễ chính. Bên cạnh đó, một màn hình điện tử 50m2

được dựng ngay tại sân chính để phát băng hình phục vụ thập khách hiểu thêm

về đất Tổ. Một số đường mới dẫn lên đền Thượng cũng vừa được xây dựng,

chỉnh trang lại để tránh tình trạng tắc nghẽn đường vào ngày hội.

b. Những thành công trong tổ chức lễ hội

Trước hết là tổ chức lễ hội ngày càng quy mô và có khoa học. Các

chương trình của lễ hội đều được tổ chức công phu, có sự kết hợp chặt chẽ với

các chuyên gia về nghệ thuật. Lễ hội được tổ chức đảm bảo nhu cầu tín ngưỡng

cũng như sinh hoạt văn hoá của khách thập phương.

Về công tác tổ chức, quản lý cũng đã được hoàn thiện. Các cơ sở vật

chất được xây dựng và tu bổ ở các khu di tích, công tác đảm bảo an ninh trật tự

được thắt chặt, quản lý về kinh doanh dịch vụ được đảm bảo. Các chương trình

văn hoá văn nghệ phụ vụ lễ hội cũng được mở rộng và duy trì các giá trị truyền

thống.

Lễ hội Đền Hùng ngày càng thu hút đông đảo nhân dân khắp đất nước

về dự hội. Với các công tác tổ chức và quản lý lễ hội ngày càng được hoàn thiện

và đáp ứng nhu cầu đó của nhân dân. Ước tính năm 2007, lễ hội Đền Hùng thu

hút khoảng 2 triệu lượt khách về trảy hội.

c. Những hạn chế trong tổ chức lễ hội.

Theo tổng kết công tác tổ chức lễ hội của Ban tổ chức thì lễ hội Đền Hùng

vẫn còn một số hạn chế nhất định như: hạn chế về dự báo quy mô nên dẫn đến

Page 70: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

70

tình trạng quá tải cơ sở vật chất và công tác phục vụ, hoạt động hội được tổ chức

sôi động trên phạm vi rộng, thu hút đông đảo nhân dân tham gia những hoạt

động văn hoá dân gian trong lễ hội chưa phong phú; tình trạng bán hàng rong,

chèo kéo, bắt chẹt khách vẫn xảy ra, vệ sinh môi trường chưa được đảm bảo…

d. Nguyên nhân những hạn chế trên.

Trước hết là do công tác quản lý chưa được toàn diện, việc nghiên cứu

các nhu cầu tham gia lễ hội của nhân dân còn hạn chế nên chưa có phương

hướng mở rộng cơ sở cho phù hợp; việc kiểm soát các hoạt động kinh doanh

dịch vụ của các cơ quan chức năng còn chưa toàn diện dẫn đến tình trạng buôn

bán lộn xộn vẫn diễn ra tại lễ hội.

Thứ hai là do nhận thức của những người tham gia lễ hội còn hạn chế,

nhất là vấn đề vệ sinh môi trường. Khách tham gia lễ hội không có ý thức vệ

sinh chung nên đã vứt rác bừa bãi trong khuôn viên lễ hội, làm mất đi cảnh quan

môi trường nơi không gian lễ hội.

Bên cạnh đó một nguyên nhân dẫn tới hoạt động văn hoá văn nghệ dân

gian chưa được phong phú trong lễ hội là do chưa có biện pháp sưu tầm, bảo tồn

và phát triển các hoạt động này nên không được tổ chức trong lễ hội, đồng thời

việc thiết kế tổ chức các chương trình trong lễ hội còn chưa khoa học, có nhiều

thiếu sót.

3.2.3 Kinh nghiệm tổ chức lễ hội ở Yên Tử - Quảng Ninh

Lễ hội Yên Tử được tổ chức từ ngày mồng 9 tháng Giêng và kéo dài hết

tháng 3. Sau phần nghi lễ long trọng ở chân núi Yên Tử là cuộc hành hương của

hàng vạn người lên đỉnh núi Yên Tử đến với Chùa Đồng. Du khách đến với lễ

hội Chùa Yên Tử để được tách mình khỏi thế giới trần tục, thực hiện cuộc hành

hương tôn giáo giữa thiên nhiên hùng vĩ. Những năm qua, tổ chức lễ hội Yên Tử

đã đạt những thành công nhất định, đáp ứng nhu cầu văn hoá tâm linh của nhân

dân trong vùng cũng như khắp đất nước. Những kết quả đó đã trở thành những

kinh nghiệm quý báu cho các địa phương khác trong tổ chức lễ hội.

Page 71: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

71

- Trước hết phải kể đến việc tu bổ, xây dựng cơ sở vật chất phụ vụ lễ hội.

Theo báo điện tử An ninh thế giới ( http://antg.cand.com.vn ) thì con đường từ

quốc lộ 18 mới được nâng cấp rộng thênh thang, xuyên qua những cánh rừng

khiến du khách cảm giác như được trở về với vẻ đẹp của thiên nhiên núi rừng

hùng vĩ. Suốt gần chục cây số, không hề gặp một ai đeo đuổi du khách để mời

chào. Trong khi đó ở lễ hội Chùa Hương, “cò” xuống tận Hà Nội, Hà Đông cách

Chùa Hương những 50 km để mời chào, chèo kéo khách. Yên Tử cũng có bãi

gửi xe rộng mênh mông, ẩn trong những ngả rừng. Tại đây có chỗ để ô tô riêng,

xe máy riêng. Giá vé được công khai ghi trên bảng, Bộ Tài chính quy định vé

gửi xe máy không quá 2.000đ, nhưng tại đây, chỉ thu đúng 1.000đ, lại trông cả

mũ bảo hiểm. Còn giá gửi xe đạp là 500đ. Trong khi đó, ở chùa Hương, giá vé

gửi xe máy là 6.000đ, gửi mũ bảo hiểm là 3.000 - 5.000đ.

- Về kiểm soát và đảm bảo văn minh cho lễ hội cũng được thắt chặt và có

những giải pháp hữu hiệu. Chẳng hạn như giải quyết vấn nạn ăn xin tại lễ hội,

Ban tổ chức đã khéo léo bố trí cho những người này một nơi bán hàng tạo thu

nhập và yêu cầu ký cam kết không tái phạm. Với cách làm này, hiện nay lễ hội

Yên Tử không còn hiện tượng ăn xin gây ảnh hưởng xấu tới văn minh trong lễ

hội nữa.

- Công tác tuyên truyền vận động của chính quyền đối với người dân về

việc tổ chức lễ hội cũng như tạo không khí vui vẻ, văn minh cho lễ hội cũng

được chú trọng và đạt được kết quả bất ngờ. Hầu hết tại lễ hội không có hiện

tượng chèo kéo, bắt chẹt khách như ở các nơi khác. Người dân thì rất lịch sự và

nhã nhặn với khách. Các hộ kinh doanh nơi lễ hội đều được đào tạo, tập huấn và

thi chứng chỉ của công ty Tùng Lâm, họ được học cách giao tiếp và ứng xử với

khách hàng, phân chia các khu vực bán hàng hợp lý. Do đó không có hiện tượng

chặt chém khách như ở Chùa Hương. Ngoài ra đi lễ hội Yên Tử khách còn được

tiếp đòn chu đáo và nhiệt tình bởi các gian hàng có chỗ nghỉ cho khách mà

không thu tiền tại các gian hàng dọc đường leo núi, có các nhà vệ sinh công

Page 72: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

72

cộng thoáng, sạch sẽ…Tất cả đều tạo cho người trảy hội cảm thấy thoải mái và

yên bình khi tham gia lễ hội.

Có thể nói đây chính là những kinh nghiệm quý báu trong công tác tổ

chức và quản lý lễ hội ở Yên Tử, là một bài học hữu hiệu cho các địa phương áp

dụng cho tổ chức và quản lý lễ hội tại địa phương mình.

3.2.4 Bài học kinh nghiệm để tổ chức lễ hội thành công từ các địa phƣơng.

Qua nghiên cứu về kinh nghiệm tổ chức các lễ hội tiêu biểu trên, có thể

rút ra bài học để tổ chức thành công các lễ hội cho các địa phương như sau:

Thứ nhất, kết hợp chặt chẽ các biện pháp quản lý Nhà nước với việc

nâng cao nhận thức của cộng đồng trong việc tổ chức các lễ hội theo chủ trương

và quy định của pháp luật. Đặc biệt là chú trọng tới đầu tư hoàn thiện các cơ sở

vật chất cho lễ hội cũng như phục vụ nhân dân tham gia lễ hội; kiểm soát chặt

chẽ các hoạt động kinh doanh cũng như các biểu hiện tiêu cực trong lễ hội;

Thứ hai, Có định hướng về mục tiêu cho việc tổ chức lễ hội, chú trọng

duy trì và phát huy các yếu tố văn hoá truyền thống trong lễ hội; và tiếp thu các

giá trị văn hoá mới cho lễ hội thêm phong phú, đảm bảo tính truyền thống và

hiện đại cho lễ hội;

Cần khảo sát thực tiễn lễ hội ở các địa phương khác và tiếp thu các kinh

nghiệm hay mà các đại phương khác đã thành công và phát huy tính chủ động

sáng tạo của ban tổ chức lễ hội;

Có kế hoạch xã hội hoá đối với việc tổ chức và quản lý lễ hội. Trong đó

phát huy cao độ tính chủ động của cộng đồng và các doanh nghiệp hỗ trợ kinh

phí, kỹ thuật cho việc tổ chức lễ hội, còn Nhà nước thực hiện chức năng định

hướng, quản lý và giám sát việc tổ chức lễ hội.

Trên là một số bài học kinh nghiệm được rút ra từ thực tế tổ chức và quản

lý một số lễ hội tiêu biểu có thể áp dụng trong việc tổ chức và quản lý lễ hội của

các địa phương khác trên cả nước.

Page 73: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

73

3.3 Một số giải pháp về quản lý Nhà nƣớc để giữ gìn và phát triển các lễ hội

đình làng của dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang.

3.3.1 Giải pháp hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý Nhà nƣớc

Về hệ thống các cơ quan quản lý Nhà nước của Tuyên Quang đối với lễ

hội truyền thống trong đó có lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan cần hoàn

thiện hơn nữa về việc quy định chức năng quản lý lễ hội. Hiện nay cần tiếp tục

nghiên cứu và phân cấp quản lý cụ thể, quy định nội dung cụ thể đối với việc tổ

chức các loại lễ hội, tránh hiện tượng quản lý mang tính hình thức mà cũng tránh

việc can thiệp quá sâu vào việc tổ chức lễ hội truyền thống của người Cao Lan

làm mất đi tính tự chủ và tính độc đáo riêng của lễ hội. Các cơ quan quản lý lễ

hội cần có quy định về sự phân công cụ thể, ví dụ như việc quản lý Nhà nước

đối với lễ hội thuộc thẩm quyền Uỷ ban Nhân dân các cấp, giúp Uỷ ban Nhân

dân thực hiện các chức năng này là các cơ quan chuyên môn như Sở Văn hoá

Thể thao và Du lịch , Phòng Văn hoá – Thông tin Huyện. Vì thế Uỷ ban Nhân

dân các cấp cũng phải có văn bản quy định cụ thể nội dung, phạm vi thẩm quyền

của các cơ quan chuyên môn này đối với quản lý lễ hội. Điều này có nghĩa là

phải có một sự phân công, phân nhiệm cụ thể, rõ ràng hơn giữa các cơ quan

quản lý Nhà nước về lễ hội truyền thống trong đó có lễ hội đình làng của người

Cao Lan.

3.3.2 Nhóm giải pháp về chính sách pháp luật

Hoàn thiện hệ thống chính sách đối với việc tổ chức và quản lý lễ hội

đình làng của dân tộc Cao Lan. Tuy lễ hội đình làng là hoạt động sinh hoạt văn

hoá của riêng cộng đồng, có được duy trì và phát triển hay không phụ thuộc

hoàn toàn vào cộng đồng nhưng với thực trạng hiện nay vai trò của các chính

sách của Nhà nước là hết sức quan trọng. Để các lễ hội đình làng của người Cao

Lan được duy trì và phát triển các chính sách cần tập trung vào các vấn đề sau:

- Chính sách hỗ trợ kinh phí tổ chức và quản lý từ phía các chính quyền

địa phương đặc biệt là cấp xã, và cấp huyện. Muốn cho các lễ hội vừa giữ được

Page 74: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

74

các nét văn hoá truyền thống vừa phát triển mang các yếu tố hiện đại thì các

chương trình và nội dung phải phong phú, do vậy cần có kinh phí tổ chức lớn.

Hơn nữa, số lượng người tham gia lễ hội đình làng của người Cao Lan hiện nay

có xu hướng gia tăng và mở rộng. Không chỉ có người dân trong làng bản tổ

chức lễ hội tham gia mà có sự tham gia của các dân tộc anh em trong vùng, do

đó về cơ sở vật chất cần được sửa chữa và tu bổ, mở rộng để đáp ứng nhu cầu

đó. Những công việc mang tính hậu cần này của công tác tổ chức và quản lý lễ

hội đều cần có kinh phí lớn, mà nếu chỉ dựa vào sự đóng góp của các hộ gia đình

tham gia lễ hội trong làng thì không thể đủ kinh phí để tổ chức, trong khi đời

sống đồng bào dân tộc Cao Lan ở nhiều địa phương còn rất khó khăn. Do đó cần

có sự hỗ trợ về mặt kinh phí thông qua các chính sách của Nhà nước, đặc biệt là

chính quyền địa phương các cấp để có thêm các kinh phí tổ chức với quy mô

ngày càng đáp ứng nhu cầu tham gia lễ hội của nhân dân các dân tộc trong vùng.

- Chính sách hỗ trợ về mặt chuyên môn tổ chức lễ hội. Vì các lễ hội đình

làng của người Cao Lan chủ yếu là do các làng bản tự đứng ra tổ chức nên

không tránh khỏi việc diễn ra tự phát, không có chuyên môn nên các chương

trình diễn ra lộn xộn, không có hệ thống. Vì thế rất cần có sự quan tâm của các

cơ quan chuyên môn hỗ trợ về mặt tổ chức chương trình. Việc hỗ trợ chuyên

môn cho các lễ hội này đòi hỏi phải đảm bảo cho các chương trình của lễ hội

diễn ra đúng truyền thống, sắp xếp khoa học hơn chứ không nhằm làm biến dạng

quá nhiều hình thức của lễ hội dẫn đến làm mất đi tính truyền thống đặc trưng

của người Cao Lan. Đặc biệt là lễ hội đình làng còn có sự tham gia của các dân

tộc anh em khác trong vùng, nên việc sắp xếp thế nào cho hợp lý cần có sự

hướng dẫn của các cán bộ có kinh nghiệm tổ chức lễ hội của các cơ quan chuyên

môn về văn hoá - lễ hội.

- Chính sách khôi phục lại các lễ hội không được tổ chức trong thời gian

gần đây. Cần có nghiên cứu cụ thể về nguyên nhân dẫn đến việc các lễ hội

không được duy trì và tổ chức thường xuyên để có chính sách hỗ trợ khôi phục

Page 75: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

75

lại một cách thích hợp. Chẳng hạn như hai lễ hội đình làng ở Thôn Kỳ Lãm ( xã

Đội Cấn ) và thôn Mỏ Tôm ( xã Thái Long ) hiện nay phần hội không còn được

tổ chức như trước đây mà chỉ còn duy trì phần lễ do vẫn còn duy trì thiết chế

đình làng là do nguyên nhân không có không gian tổ chức phần hội. Trước đây

phần hội thường được tổ chức trên khu đất là đồng ruộng bỏ hoang của các hộ

gia đình, nay phần đất này được sử dụng nên làng không còn địa điểm tổ chức

hội nữa. Từ đó chính quyền cấp xã cần có các chính sách hỗ trợ về địa điểm tổ

chức cho các lễ hội này bằng cách kiến nghị với cấp trên có hỗ trợ các hộ gia

đình này đất sản xuất để nhường lại khu đất để tổ chức phần hội cho các làng.

Nhóm giải pháp này đòi hỏi các chính sách phải toàn diện và đồng bộ.

Tránh tình trạng chính sách không đồng đều đối với việc tổ chức và quản lý lễ

hội đình làng của người Cao Lan tại các địa phương, làm cho sự phát triển các lễ

hội đình làng ở các địa phương quá chênh lệch về chất lượng, nội dung chương

trình của lễ hội. Đặc biệt đòi hỏi các chính sách này phải có tính khả thi cao,

phải xuất phát từ nhu cầu thực tế của người dân về tổ chức và quản lý lễ hội.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức và quản lý lễ hội truyền thống,

đặc biệt là các văn bản pháp luật về quản lý như Quy chế của Trung ương, Quy

định của địa phương đối với lễ hội. Cần có quy định cụ thể hơn của các cấp quản

lý ở địa phương đối với việc duy trì các giá trị văn hoá truyền thống trong lễ hội

của người Cao Lan, và các quy định cấm đối với các biểu hiện tiêu cực trong lễ

hội như thủ tục rườm rà, bói toán, đốt vàng mã tràn lan, cờ bạc, bắt chẹt khách

như thu vé gửi xe quá quy định, bán vé tràn lan…Những quy định cần được

hướng dẫn cụ thể hơn để các cấp quản lý thực hiện, khắc phục tình trạng có văn

bản chung mà chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện nên gây lúng túng trong

công tác tổ chức và quản lý của cấp dưới và của chính cộng đồng dân cư.

Như vậy, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức và quản lý lễ hội

theo hướng quy định cụ thể, chi tiết hơn, văn bản chung ban hành cần có văn

Page 76: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

76

bản hướng dẫn thực hiện kịp thời khắc phục tình trạng thiếu văn bản hướng dẫn

như hiện nay.

3.3.3 Giải pháp về cơ chế mềm

Cơ chế mềm ở đây chính là cơ chế quản lý cộng đồng, hay cụ thể hơn là

các quy định riêng của cộng đồng thông qua các bản hương ước, quy ước của

làng bản. Đây chính là các quy định truyền thống của cộng đồng mang tính tự

quản đối với việc tổ chức và quản lý lễ hội. Tuy vậy, hiện nay hầu hết các làng

bản của người Cao Lan không còn tồn tại các bản hương ước của làng mà hầu

hết đều là các quy định không thành văn, các quy định này thường không ổn

định, có thể thay đổi theo từng kỳ tổ chức lễ hội. Tuy các quy định này không

mang tính chính thức bằng văn bản nhưng đối với việc tổ chức và quản lý lễ hội

thì đây là một dạng quy định tự quản có vai trò lớn đối với việc duy trì các lễ hội

này. Vì vậy cần duy trì loại quy định này của người Cao Lan đối với việc tổ

chức, duy trì và phát triển lễ hội đình làng của họ, đồng thời khuyến khích việc

phát triển các quy định này thành một văn ước cụ thể để duy trì trong các giai

đoạn tiếp theo. Để xây dựng được một bản quy định về tổ chức lễ hội thành văn

của người Cao Lan đòi hỏi cần có sự sưu tầm, nghiên cứu chọn lọc các quy định

phù hợp vừa giữ được tính truyền thống vừa phù hợp với hiện đại để cho các thế

hệ sau duy trì lễ hội. Việc xây dựng bản hương ước, quy ước này cần có sự tham

gia của các vị cao niên trong làng, đây chính là thế hệ còn được lưu truyền về

các quy định về lễ hội của cha ông để lại, vì thế không thể không huy động vai

trò tham gia của các cụ cao niên trong làng – thành phần chủ chốt để xây dựng

nên một bản hương ước về tổ chức lễ hội cho các thế hệ sau. Các quy định trong

bản văn ước này cần tập trung vào duy trì các yếu tố truyền thống của người Cao

Lan, đồng thời có đan xen các quy định mới để phù hợp với thực tế. Chẳng hạn

như nên có thêm các quy định cụ thể về việc tham gia các chương trình văn hoá

của các dân tộc anh em khác để giao lưu văn hoá của dân tộc mình với các dân

tộc khác, tạo nên sự phong phú trong lễ hội. Đồng thời đi đôi với xây dựng các

Page 77: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

77

quy định này cũng cần có giải pháp để thực hiện như tuyên truyền cho các hộ

gia đình biết các quy định này và thực hiện, có quy định xử lý cụ thể đối với các

trường hợp không chấp hành các quy định chung này.

3.3.4 Nhóm giải pháp ƣu tiên

Để các lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan được duy trì và phát triển

theo định hướng đòi hỏi cần có các biện pháp thích hợp, cần có các giải pháp ưu

tiên trong giai đoạn hiện nay:

Trước hết cần phải tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân đặc

biệt là đồng bào dân tộc Cao Lan đối với việc duy trì và phát triển lễ hội đình

làng của dân tộc mình, đặc biệt là có ý thức duy trì tổ chức thường xuyên các lễ

hội này.

Trong việc tổ chức lễ hội cần chủ động duy trì các yếu tố văn hoá truyền thống,

đồng thời tiếp thu các yếu tố hiện đại một cách có chọn lọc, có định hướng vào

trong lễ hội. Việc duy trì và tổ chức các lễ hội đình làng là do bản thân cộng

đồng người Cao Lan quyết định, chính cộng đồng là người quyêt định nội dung,

hình thức mang tính truyền thống của lễ hội. Vì thế cần có các biện pháp nâng

cao nhận thức, tính chủ động của người Cao Lan đối với việc duy trì và phát

triển các lễ hội. Các cấp chính quyền địa phương cần có sự quan tâm sâu sát đối

với loại hình lễ hội này. Thông qua việc tuyên truyền chủ trương của Nhà nước

đối với việc duy trì và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống của các dân tộc

thiểu số trong đó có các lễ hội cho người dân. Đồng thời làm cho người dân

nhận thấy được vai trò của lễ hội đối với đời sống cộng đồng để bản thân người

Cao Lan tự chủ động duy trì và phát huy các lễ hội của mình, làm cho người dân

nhận thấy cần duy trì các sinh hoạt văn hoá truyền thống và đòi hỏi phải tổ chức

các hoạt động đó trong lễ hội, đây là yếu tố quyết định tới sự tồn tại cũng như sự

phát triển các lễ hội Đình làng trong giai đoạn hiện nay.

Nâng cao nhận thức của người Cao Lan về các quy định của pháp luật

về tổ chức và quản lý lễ hội, đặc biệt là những người đứng ra tổ chức lễ hội.

Page 78: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

78

Chính quyền các cấp cũng như các cán bộ văn hoá cần có các chương trình nói

chuyện về pháp luật đối với lễ hội cho người dân hiểu và tuân theo. Đây là một

giải pháp quan trọng để người dân không tham gia, tổ chức các hành vi bị

nghiêm cấm tại lễ hội.

Tăng cường tổ chức kiểm tra giám sát việc tổ chức và quản lý lễ hội

đình làng của người Cao Lan. Thông qua các hoạt động tham gia thị sát lễ hội,

Uỷ ban Nhân dân cấp cơ sở có biện pháp phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi

vi phạm pháp luật đối với việc tổ chức và quản lý lễ hội. Đây là một biện pháp

quan trọng để hạn chế các vi phạm, các biểu hiện thiếu lành mạnh diễn ra trong

lễ hội làm cho lễ hội mất đi tính chất truyền thống và trong sáng.

Gắn kết chặt chẽ hoạt động tổ chức lễ hội đình làng truyền thống với

phong trào “ Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở ” do Trung

ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam phát động là một biện pháp hữu hiệu để nâng

cao đời sống văn hoá trong tổ chức và sinh hoạt của lễ hội.

Chú trọng đầu tư, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh tế, đặc biệt

là xoá đói giảm nghèo, nâng cao dịch vụ y tế, giáo dục cho đồng bào dân tộc

Cao Lan. Đặc biệt chú trọng khuyến nông, đầu tư cho phát triển kinh tế, hỗ trợ

việc làm cho người lao động của dân tộc Cao Lan để nâng cao đời sống vật chất

của người dân. Đây là một tiền đề quan trọng để nâng cao đời sống vật chất và

văn hoá tinh thần cho người dân, làm tiền đề cho việc nâng cao nhận thức đối

với việc bảo tồn và duy trì văn hoá truyền thống của dân tộc đối với cộng đồng

dân tộc Cao Lan. Hơn nữa đây cũng là điều kiện quan trọng để cho đồng bào

dân tộc Cao Lan có thể tham gia lễ hội nhiều hơn, có chất lượng hơn.

Như vậy để cho lễ hội đình làng truyền thống của dân tộc Cao Lan được

duy trì và phát triển đòi hỏi phải có sự kết hợp quản lý Nhà nước với vai trò của

cộng đồng. Đặc biệt chú trọng tới một số giải pháp quản lý Nhà nước mang tính

cấp thiết trong giai đoạn hiện nay để tránh hiện tượng mai một lễ hội đình làng ở

một số nơi trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang như đã nêu trên. Đồng thời khắc phục

Page 79: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

79

hiện tượng một số lễ hội diễn ra một cách tự phát, không đúng mục tiêu và bị

biến dạng quá nhiều so với truyền thống.

Từ tính chất cũng như những thực tế của lễ hội Đình làng của người Cao

Lan cho thấy hiện nay vấn đề quản lý Nhà nước cần tập trung sâu sắc vào việc

ban hành các chính sách hỗ trợ của các cấp chính quyền là chủ yếu. Đây là nhu

cầu cấp thiết nhất của các lễ hội, do còn thiếu điều kiện để tổ chức nên cái cần

nhất của việc duy trì và phát triển lễ hội đình làng ở đây là Nhà nước quan tâm

tạo điều kiện về mọi mặt để duy trì và phát triển nó. Do đó, có thể thấy vai trò

của Nhà nước cụ thể là các cấp chính quyền địa phương đối với việc duy trì và

phát triển các lễ hội đình làng của người Cao Lan chính là một chất xúc tác quan

trọng để các lễ hội diễn ra thường xuyên và ngày càng phát triển, phát huy vai

trò quan trọng đối với đời sống của đồng bào dân tộc Cao Lan nói riêng và của

nhân dân các dân tộc nói chung. Không có chất xúc tác này, bản thân cộng đồng

người Cao Lan không thể tự mình khôi phục, duy trì và phát triển được lễ hội

đình làng của mình theo hướng bảo vệ và phát huy các giá trị văn hoá truyền

thống của dân tộc mình trong các lễ hội. Điều này cho thấy vai trò hết sức quan

trọng của quản lý Nhà nước trong việc duy trì và phát triển lễ hội đình làng của

dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang hiện nay.

Page 80: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

80

KẾT LUẬN

Lễ hội đình làng là một hoạt động sinh hoạt văn hoá truyền thống độc đáo

của dân tộc Cao Lan, vừa có ý nghĩa to lớn đối với đồng bào dân tộc Cao Lan

vừa có ý nghĩa to lớn đối với nhân dân các dân tộc anh em trong vùng. Cùng với

chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo tồn và phát triển văn hoá

truyền thống trong đó có lễ hội truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số thì lễ

hội đình làng của dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang càng có điều kiện được bảo

tồn và phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng. Đây chính là một điều kiện

thuận lợi để cho các lễ hội này phát huy được vai trò và ý nghĩa to lớn của mình

đối với đời sống kinh tế - xã hội của nhân dân. Việc hỗ trợ từ phía Nhà nước để

cho lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan được bảo tồn và phát triển cũng chính

là một biện pháp để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hoá và nâng cao đời sống

tinh thần cho người dân nói chung và đồng bào dân tộc Cao Lan nói riêng.

Quản lý Nhà nước đối với lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan là một

biện pháp quan trọng để các lễ hội này diễn ra có định hướng, có mục tiêu, đặc

biệt là vừa giữ được các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc Cao Lan vừa

tiếp thu có chọn lọc các yếu tố hiện đại phù hợp với nhu cầu của người dân cũng

như quá trình phát triển. Từ những thực trạng về tổ chức và quản lý lễ hội đình

làng cho thấy việc quản lý Nhà nước đối với hoạt động này là nhu cầu khách

quan của cộng đồng dân tộc Cao Lan nói riêng và cả xã hội nói chung. Do đó có

thể nói các giải pháp quản lý Nhà nước được đưa ra của khoá luận là phù hợp

với nhu cầu thực tế của quản lý Nhà nước hiện nay đối với việc giữ gìn và phát

triển các lễ hội này.

Vấn đề giữ gìn và phát triển các lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan tuy

chỉ là một bộ phận nhỏ của việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá truyền

thống của dân tộc Cao Lan nói riêng và của các dân tộc thiểu số Tuyên Quang

nói chung nhưng lại có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc bảo tồn và phát huy văn

Page 81: Luan Van Tot Nghiep

Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008

http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính

81

hoá truyền thống của dân tộc Cao Lan cũng như văn hoá truyền thống của Tuyên

Quang. Bởi lẽ, lễ hội đình làng được duy trì và phát triển đồng nghĩa với các giá

trị văn hoá truyền thống của dân tộc Cao Lan cũng được bảo tồn và phát huy vì

lễ hội đình làng là nơi lưu giữ và biểu hiện hầu hết các giá trị văn hoá của dân

tộc Cao Lan. Do đó, quản lý Nhà nước đối với lễ hội đình làng để duy trì và phát

triển nó là một hoạt động hết sức quan trọng, mang ý nghĩa rộng lớn đối với việc

bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống của các dân tộc thiểu số nói chung ở

Tuyên Quang.

Với phạm vi nghiên cứu là một khoá luận tốt nghiệp, chủ yếu tập trung áp

dụng lý thuyết cho một thực tiễn quản lý cụ thể về văn hoá - lễ hội, cùng với

nhiều hạn chế và một số khó khăn trong nghiên cứu nên tác giả chỉ mạnh dạn

đưa ra một số giải pháp cơ bản nhất mang tính chất kiến nghị đối với việc tổ

chức và quản lý lễ hội nhằm mục đích duy trì và phát triển các lễ hội đình làng

của dân tộc Cao Lan trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng hiện nay ở

Tuyên Quang. Hy vọng các giải pháp kiến nghị trên đây được các cấp các ngành

có chức năng quản lý Nhà nước đối với việc duy trì và phát triển lễ hội đình làng

của người Cao Lan ở Tuyên Quang lưu tâm và vận dụng cho hoạt động quản lý

trên thực tiễn.

Mặc dù đã cố gắng nghiên cứu vấn đề trên nhiều phương diện nhưng chắc

chắn khoá luận không tránh khỏi các thiếu sót, do nhiều nguyên nhân khách

quan và chủ quan. Vì vậy, tác giả mong nhận được các ý kiến đóng góp để vấn

đề nghiên cứu được hoàn thiện hơn và có ích trong thực tế.