Upload
dinh-van-vien
View
221
Download
0
Embed Size (px)
DESCRIPTION
Luận văn Thạc sỹ về Lễ hội của người Cao Lan
Citation preview
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, với 54 dân tộc anh em cùng sinh sống,
mỗi một cộng đồng dân tộc có một nét văn hoá riêng độc đáo tạo nên một nền
văn hoá Việt Nam đa dạng trong thống nhất. Hiện nay, quá trình phát triển kinh
tế - xã hội cũng như hội nhập quốc tế đã có ảnh hưởng tích cực cũng như hạn
chế tới văn hoá của các dân tộc thiểu số. Trong đó dân tộc Cao Lan ở Tuyên
Quang cũng vậy. Quá trình hình thành và phát triển tại Tuyên Quang của dân tộc
Cao Lan đã tạo nên nét văn hoá độc đáo cho riêng mình. Tuy nhiên, hiện nay
văn hoá của dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang đang đứng trước nhiều thách thức,
một số giá trị văn hoá truyền thống có nguy cơ bị mai một thậm chí mất hẳn,
việc tiếp thu tràn lan, không có chọn lọc các yếu tố văn hoá của các dân tộc khác
đã dần làm mất đi bản sắc riêng của mình, đặc biệt là đối với lễ hội đình làng -
nét sinh hoạt truyền thống cộng đồng hết sức ý nghĩa và độc đáo của dân tộc
Cao Lan.
Thực hiện chủ trương xây dựng nền văn hoá “Tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc” theo tinh thần Nghị quyết Trung ương V khoá VIII của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng về xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc những năm gần đây việc khôi phục và phát triển lễ hội đình làng của dân
tộc Cao Lan đã được chú trọng và đạt một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, việc
giữ gìn và phát triển loại hình lễ hội truyền thống này còn một số hạn chế nhất
định như: Phát triển tự phát, thiếu tính định hướng; nhiều giá trị văn hoá truyền
thống tại lễ hội có nguy cơ mai một dần; chính sách của các cấp chính quyền đối
với việc phát triển lễ hội này còn hạn chế…Thực tế đó đòi hỏi phải có những
giải pháp quản lý Nhà nước phù hợp để giữ gìn và phát huy loại hình lễ hội này.
Trước nhu cầu mang tính cấp thiết đó, tác giả mạnh dạn lựa chọn “ Một số giải
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
2
pháp quản lý Nhà nƣớc để giữ gìn và phát triển lễ hội đình làng của dân tộc
Cao Lan ở Tuyên Quang ” làm đề tài cho khoá luận tốt nghiệp của mình.
Vì vấn đề nghiên cứu là một vấn đề rộng, phức tạp, thời gian nghiên cứu
còn hạn chế và một số khó khăn trong thu thập tài liệu nên khoá luận luận chắc
chắn không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Do đó, rất mong được sự đóng
góp ý kiến của quý thầy cô và các bạn để khoá luận được hoàn thiện hơn.
2. Tình hình nghiên cứu.
Nhận thức được vai trò quan trọng của việc bảo tồn và phát huy bản sắc
văn hoá dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang, những năm qua đã có một số công
trình nghiên cứu khoa học về văn hoá đồng bào dân tộc Cao Lan trong đó có đi
sâu nghiên cứu lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan như:
- Đề tài: “ Văn hoá truyền thống dân tộc Cao Lan ” năm 1993 – 1994;
Đề tài: “ Văn hoá truyền thống của một số dân tộc Tỉnh Tuyên Quang ” năm
1999 – 2000;
- Đề tài: “ Bảo tồn hát Sình ca dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang ” năm
2003 của Nịnh Văn Độ;
- Đề tài Luận văn Cao học của Đặng Chí Thông về “ Phong tục tập quán
và lễ hội của người Cao Lan ở xã Kim Phú, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang.
Tuy vậy chưa có đề tài nào nghiên cứu sâu về các giải pháp quản lý Nhà
nước để giữ gìn và phát triển lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan ở Tuyên
Quang, mặc dù vai trò của quản lý Nhà nước là hết sức quan trọng trong giai
đoạn hiện nay.
3. Mục tiêu của đề tài.
Trên cơ sở nghiên cứu, nhận xét đánh giá về một số thực trạng quản lý
Nhà nước đối với việc giữ gìn và phát triển lễ hội đình làng của đồng bào dân
tộc Cao Lan thời gian qua tại tỉnh Tuyên Quang, từ đó kiến nghị một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý Nhà nước đối với việc giữ gìn
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
3
và phát triển lễ hội đình làng của đồng bào dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang
trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: là hoạt động quản lý nhà nước đối với việc giữ
gìn và phát triển lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan.
- Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động quản lý Nhà nước trên địa bàn tỉnh
Tuyên Quang đặc biệt là huyện Yên Sơn – địa phương có đông dân cư là người
Cao Lan và là nơi duy nhất còn tồn tại lễ hội đình làng truyền thống.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
- Trong quá trình nghiên cứu, hoàn thành khoá luận tác giả triệt để sử
dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê
nin;
- Phương pháp thống kê, so sánh, đánh giá, điều tra xã hội học, phân tích
tổng hợp…;
- Phương pháp quan sát thực tiễn, trừu tượng hoá đối tượng;
6. Những đóng góp của khoá luận
Sau khi khoá luận hoàn thiện sẽ có những đóng góp nhất định xét trên
nhiều góc độ khác nhau, cụ thể là những đóng góp sau:
- Việc hoàn thiện vấn đề nghiên cứu sẽ giúp bổ sung lý luận về quản lý
Nhà nước đối với việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc thiểu số ở
Tuyên Quang;
- Góp phần bổ sung kiến thức thực tiễn về hoạt động quản lý Nhà nước
trên một lĩnh vực xã hội nhất định, cụ thể là lễ hội văn hoá - truyền thống của
đồng bào dân tộc thiểu số;
- Góp phần giới thiệu lễ hội đình làng - nét sinh hoạt văn hoá độc đáo của
đồng bào dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang với các địa phương cũng như với các
dân tộc thiểu số khác trên đất nước Việt Nam;
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
4
- Tìm kiếm một số giải pháp quản lý Nhà nước mang tính thực tiễn cao để
giữ gìn và phát triển lễ hội truyền thống của dân tộc Cao Lan trong thời gian tới.
7. Kết cấu của Khoá luận:
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, khoá luận được chia thành các phần như
sau:
Chƣơng 1. Khái quát chung về văn hoá truyền thống, lễ hội và vai trò của
Nhà nƣớc trong việc duy trì và phát triển văn hoá truyền thống.
Phần này tập trung giải thích một số nét khái quát về văn hoá truyền
thống, lễ hội truyền thống cũng như lý luận về vai trò của Nhà nước đối với
quản lý văn hoá truyền thống - lễ hội truyền thống làm nền tảng cho nghiên cứu
vấn đề ở các chương tiếp theo. Nội dung của chương này bao gồm khái quát về
văn hoá truyền thống trong thời kỳ hội nhập, vai trò của lễ hội truyền thống đối
với việc bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống, vai trò của Nhà nước đối với
việc duy trì và phát huy văn hoá truyền thống, hệ thống chính sách của Nhà
nước đối với việc duy trì và phát huy văn hoá truyền thống.
Chƣơng 2. Thực trạng về quản lý Nhà nƣớc đối với việc giữ gìn và phát
triển lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang.
Trong chương này, tác giả tập trung phân tích thực trạng việc tổ chức và
quản lý lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan để thấy được những mặt đã đạt
được và chưa đạt được trong việc bảo tồn và phát triển loại hình lễ hội này trên
địa bàn tỉnh Tuyên Quang. Phần này sẽ bao gồm các nội dung như: Khái quát
chung về lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang, cơ chế quản lý
đối với lễ hội truyền thống ở Tuyên Quang trong đó có lễ hội đình làng của dân
tộc Cao Lan, thực trạng tổ chức và quản lý lễ hội đình làng, đánh giá những kết
quả và hạn chế trong tổ chức và quản lý lễ hội đình làng của người Cao Lan, tìm
hiểu nguyên nhân của những hạn chế đó.
Chƣơng 3. Một số giải pháp quản lý Nhà nƣớc để giữ gìn và phát triển lễ
hội đình làng của dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang.
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
5
Chương này tập trung đề ra phương hướng giữ gìn và phát triển lễ hội
đình làng của dân tộc Cao Lan trong thời gian tới và kiến nghị một số giải pháp
về quản lý Nhà nước để giữ gìn và phát triển lễ hội đình làng của người Cao Lan
trên cơ sở phân tích đánh giá thực trạng của tổ chức và quản lý lễ hội trong thời
gian qua, cũng như kinh nghiệm của các địa phương trong việc tổ chức và quản
lý lễ hội và phương hướng giữ gìn, phát triển lễ hội đình làng của dân tộc Cao
Lan đã nêu.
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
6
CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VĂN HOÁ TRUYỀN THỐNG, LỄ HỘI VÀ
VAI TRÒ CỦA NHÀ NƢỚC TRONG VIỆC DUY TRÌ VÀ PHÁT TRIỂN
VĂN HOÁ TRUYỀN THỐNG
1.1 Văn hoá truyền thống trong thời kỳ hội nhập và phát triển
1.1.1 Các cách tiếp cận về văn hoá truyền thống
Để tìm hiểu về văn hoá truyền thống, trước hết cần tìm hiểu về văn hoá -
một khái niệm quan trọng khi nói đến văn hoá truyền thống.
a. Văn hoá
Văn hoá là một khái niệm rộng được bắt nguồn từ chữ Latinh: “ Cultura”
có nghĩa là sự cày cấy, vun trồng. Cùng với quá trình phát triển văn hoá ngày
càng có nội dung phong phú và có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Các nhà
nghiên cứu đã đưa ra nhiều khái niệm để phản ánh các góc độ của văn hoá. Bản
chất của văn hoá là rộng và đa dạng , do vậy các khái niệm về văn hoá chỉ mang
tính chất tương đối. Có thể đưa ra một số khái niệm về văn hoá như sau:
Theo nghĩa hẹp: Văn hoá là những chính kiến xã hội để quyết định những ứng
xử cá nhân trong xã hội đó.
Theo nghĩa rộng:
- Quan điểm của UNESCO : “ Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hoá là tổng
thể những nét riêng biệt về tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định
tính cách của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội. Văn hoá bao gồm
nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người,
những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng ”
Trong diễn văn khai mạc lễ phát động “ Thập niên thế giới phát triển văn hoá”
tại Pháp ngày 21-1-1998, ngài Tổng thư ký UNESCO cũng từng phát biểu: văn
hoá là tổng thể sống động các hoạt động dân tộc trong quá khứ cũng như trong
hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo đó đã hình thành nên một hệ thống
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
7
giá trị , các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định riêng biệt của mỗi
dân tộc ”
- Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, tại Hội Nghị Ban Chấp Hành
Trung Ương lần thứ V ( Khoá VIII ) Đảng ta xác định: “ Văn hoá là nền tảng
tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh
tế xã hội ”, và xác định “ Văn hoá Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao
động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn
minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Văn hoá đã hun đúc nên tâm
hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc ”.
Còn Chủ tịch Hồ Chí Minh định nghĩa “ Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của
cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo
đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn hoá, văn nghệ, những công cụ cho sinh
hoạt hàng ngày về mặc, ở và các phương thức sử dụng toàn bộ những sáng tạo
và phát minh đó tức là văn hoá ”
Như vậy, văn hoá có nhiều khái niệm khác nhau dưới các góc độ khác
nhau. Quan trọng nhất văn hoá được xem như tất cả những giá trị vật chất và
tinh thần do con người sáng tạo ra phục vụ nhu cầu sống của con người trong
quá trình phát triển và là một nền tảng tinh thần không thể thiếu trong đời sống
của con người.
b. Văn hoá truyền thống.
Văn hoá truyền thống là một khái niệm chỉ những nét văn hoá riêng biệt
của một cộng đồng xã hội, được hình thành cùng với quá trình phát triển của
cộng đồng xã hội đó và được lưu truyền qua các thế hệ; cụ thể là tính cách, là
đạo đức, là phong tục tập quán, tư tưởng, lối sống, thói quen…. Văn hoá truyền
thống tạo nên bản sắc dân tộc, là nét văn hoá riêng biệt của một cộng đồng xã
hội, tồn tại và phát triển cùng lịch sử phát triển cộng đồng. Nét văn hoá đó đã ăn
sâu vào trong nếp sống cũng như nếp nghĩ của cộng đồng xã hội đó.
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
8
Như vậy có thể quan niệm văn hoá truyền thống là toàn bộ giá trị, thành
quả, thành tựu vật chất và tinh thần của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, được
lưu giữ và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, hun đúc nên tâm hồn, khí
phách, bản lĩnh dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ
vang của dân tộc Việt Nam.
Hay nói cách khác văn hoá truyền thống là đặc điểm đã in thành nếp sâu
đậm trong tâm hồn, tình cảm , lối diễn đạt, tư duy của một cộng đồng qua bao
thế kỷ gắn bó với nhau cùng phát triển.
Có thể nói văn hoá truyền thống là yếu tố cốt lõi của văn hoá dân tộc, nó
là yếu tố quyết định bản sắc độc đáo của một nền văn hoá. Nền văn hoá truyền
thống mà bị mai một hay mất đi thì một dân tộc sẽ mất đi chính bản thân mình.
Do đó, việc giữ gìn và phát triển văn hoá truyền thống là một nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu của mỗi cộng đồng dân tộc, quốc gia trong giai đoạn hiện nay.
1.1.2 Đặc trƣng văn hoá truyền thống.
Văn hoá truyền thống là những giá trị sáng tạo, quan điểm thẩm mỹ của
dân tộc, các chuẩn mực về tư tưởng đạo đức, giao tiếp ứng xử, phong tục, lễ
nghi… thông qua đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc. Do đó văn hoá
truyền thống có các đặc trưng như sau:
Thứ nhất, văn hoá truyền thống mang tính lịch sử: Văn hoá truyền thống
hình thành và bồi đắp qua quá trình phát triển lâu dài của cộng đồng, dân tộc.
Cộng đồng chính là nơi văn hoá truyền thống được hình thành và phát triển. Qua
quá trình lao động sáng tạo của con người, những nét đẹp văn hoá dần được hình
thành và bồi đắp qua thời gian. Văn hoá truyền thống không phải cái có sẵn, và
khi có rồi không phải không cần bồi đắp. Có những giá trị nếu không được bồi
đắp cùng với quá trình phát triển của con người sẽ bị mai một dần và mất hẳn.
Tính lịch sử của văn hoá truyền thống thể hiện qua sự kế thừa các giá trị truyền
thống. Văn hoá truyền thống của mỗi thời kỳ lịch sử mang dấu ấn của thời kỳ đó
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
9
đồng thời kế thừa những giá trị của thời kỳ trước đó và là nền tảng cho thời kỳ
tiếp theo phát triển.
Thứ hai, văn hoá truyền thống là một bộ phận của văn hoá, nó được dùng
để phân biệt với tính hiện đại mà nền văn hoá đã tiếp thu trong quá trình phát
triển. Nếu như văn hoá hiện đại là những giá trị văn hoá mới được tiếp thu thì
văn hoá truyền thống là những giá trị đã hình thành và tồn tại từ lâu, được bồi
đắp qua nhiều thế hệ, nhiều giai đoạn. Tuy vậy, trên thực tế thì văn hoá truyền
thống và tính hiện đại của văn hoá cũng có sự đan xen và kế thừa lẫn nhau. Văn
hoá truyền thống là hệ thống các giá trị và các chuẩn mực lâu đời điều chỉnh các
hoạt động cũng như quan hệ cộng đồng xã hội. Chẳng hạn những giá trị truyền
thống văn hoá như tương thân tương ái, đồng cam cộng khổ hay yêu nước
thương dân, tính cố kết cộng đồng… là những giá trị văn hoá tốt đẹp đã tồn tại
lâu đời và được bồi đắp qua nhiều thế hệ. Do đó có thể khẳng định văn hoá
truyền thống mang tính lâu đời.
Thứ ba, Văn hoá truyền thống cũng mang tính giá trị. Xét về giá trị của
văn hoá truyền thống thì nó bao gồm cả những giá trị mang tính tích cực và
những giá trị không còn phù hợp với đời sống hiện tại nữa. Những giá trị tích
cực và còn phù hợp với đời sống hiện tại sẽ được giữ gìn, bảo tồn và phát huy.
Còn những giá trị văn hoá không còn phù hợp nữa sẽ bị cải biến dần cho phù
hợp hoặc sẽ bị loại bỏ khỏi nền văn hoá mới mà xã hội đang xây dựng. Chẳng
hạn như, những giá trị truyền thống tốt đẹp như truyền thống tương thân tương
ái, truyền thống đoàn kết… sẽ được phát huy, còn những giá trị truyền thống
không còn phù hợp như những tập tục rườm rà, những hủ tục lạc hậu, mê tín dị
đoan không còn phù hợp…sẽ bị cải tiến thành phong tục phù hợp, hay loại bỏ
hẳn để nền văn hoá phát huy vai trò đối với sự phát triển xã hội. Do đó vấn đề
giữ gìn và phát huy văn hoá dân tộc cần xác định rõ đâu là những giá trị văn hoá
cần giữ gìn và phát huy và cái nào cần cải tiến hay loại bỏ.
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
10
Thứ tư, văn hoá truyền thống mang tính giáo dục sâu sắc. Văn hoá truyền
thống mang trong mình những khuôn mẫu ứng xử, làm nền tảng cho những hành
vi trong xã hội. Văn hoá truyền thống cũng thể hiện tính giáo dục của mình đối
với xã hội thông qua việc hướng con người hành động đúng với truyền thống
vốn có của cộng đồng mà cả xã hội đã thừa nhận và làm theo. Nó là chuẩn mực
xã hội để con người noi theo và thực hiện. Những phong tục tập quán, những
hoạt động văn hoá mang tính cộng đồng như các lễ nghi, lễ hội đều mang trong
mình những giá trị giáo dục cộng đồng sâu sắc. Phần lớn những nét truyền thống
văn hoá đó giáo dục cho cộng đồng xã hội biết trân trọng và phát huy thành quả
của quá trình xây dựng và phát triển xã hội mà cha ông nhiều thế hệ đã dày công
vun đắp. Hơn nữa thông qua các lễ nghi truyền thống giáo dục con người biết ơn
tổ tiên cha ông đã sinh thành và dưỡng dục, biết ơn các thế hệ đi trước. Đây là
một nét văn hoá tốt đẹp của cộng đồng xã hội. Phát huy những giá trị văn hoá
này cũng đồng nghĩa với việc phát huy nền tảng tinh thần cho xã hội, định
hướng cho xã hội hoạt động tốt hơn, phù hợp hơn với môi trường sống hiện đại.
Thứ năm, văn hoá truyền thống mang tính bền vững. Những giá trị văn
hoá truyền thống bao giờ cũng tồn tại lâu đời và được xã hội thừa nhận và trân
trọng giữ gìn qua nhiều thế hệ. Nó trở thành một bộ phận không thể thiếu của xã
hội. Nó giống như động lực cho con người lao động sản xuất tốt hơn. Chẳng hạn
như truyền thống các ngày lễ tết là một thí dụ. Trải qua bao biến cố của lịch sử
phát triển, truyền thống lễ tết ở Việt Nam vẫn tồn tại và phát triển, nó là một bộ
phận của cuộc sống con người Việt Nam. Sau những tháng ngày lao động vất vả
dịp lễ tết là thời gian để mọi người nghỉ ngơi lấy lại tinh thần tiếp tục công việc,
là dịp để mọi người thể hiện lòng biết ơn tới tổ tiên, ông bà, cha mẹ, và cũng là
dịp mọi người quan tâm tới nhau, tới tình làng nghĩa xóm... Có lẽ không một gia
đình Việt Nam nào lại nằm ngoài giá trị văn hoá truyền thống đó. Dó đó có thể
nói rằng văn hoá truyền thống là một hiện tượng xã hội gắn liền với sự phát triển
xã hội, khó có thể mất đi cho dù xã hội có nhiều biến động. Đồng thời tính bền
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
11
vững của văn hoá còn thể hiện cả những mặt bảo thủ, trì trệ. Những mặt bảo thủ,
trì trệ này tồn tại một cách bền bỉ, dai dẳng cùng với quá trình phát triển. Đặc
điểm này đòi hỏi trong quản lý Nhà nước đối với văn hoá truyền thống cần có
tác động thích hợp để nhanh chóng loại bỏ tính bảo thủ, trì trệ của những giá trị
đã lạc hậu không phù hợp với quá trình phát triển, nhằm tạo điều kiện cho văn
hoá truyền thống phát triển tốt nhất theo định hướng.
1.1.3 Vai trò của văn hoá truyền thống đối với sự phát triển xã hội và quá
trình hội nhập quốc tế.
Đánh giá vai trò của văn hoá Đảng ta đã khẳng định: “ Văn hoá là nền
tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển
kinh tế xã hội ”( Nghị quyết trung ương V khoá VIII của Ban Chấp Hành Trung
ương Đảng ).
Văn hoá truyền thống là nòng cốt của nền văn hoá nói chung, quá trình
phát triển xã hội không thể không trân trọng những vai trò to lớn của văn hoá
truyền thống. Văn hoá truyền thống là nền tảng tinh thần cho xã hội, nó biểu
hiện sức mạnh tiềm tàng và bản lĩnh của một dân tộc và được biểu hiện thông
qua những truyền thống và hệ giá trị mang tính đặc trưng cho bản sắc văn hoá
của dân tộc. Truyền thống và hệ giá trị này được thấm nhuần trong mỗi con
người và cả cộng đồng, dân tộc; được chắt lọc, kế thừa và phát triển, phát huy
qua các thế hệ; được vật chất hoá trong các cấu trúc thiết chế chính trị - xã hội
và trong hoạt động sống của cả dân tộc. Là nền tảng tinh thần của xã hội, văn
hoá truyền thống cũng như văn hoá biểu hiện sức sống, sức phát triển, sự hiểu
biết và trí tuệ, đạo lý, tâm hồn…của con người, của dân tộc và trong mối quan
hệ của con người với đồng loại, với xã hội, với tự nhiên được xây dựng và bồi
đắp nên trong suốt chiều dài lịch sử.
Đối với xã hội có một nền tảng tinh thần vững chắc thì mới có sự phát
triển về kinh tế xã hội. Nhìn nhận yếu tố quyết định đối với sự phát triển xã hội
thì con người đứng ở vị trí trung tâm. Chính con người chứ không phải lực
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
12
lượng nào khác quyết định sự phát triển của mình. Đánh giá vai trò của con
người đối với sự phát triển thì con người “vừa là mục tiêu vừa là động lực” của
sự phát triển. Con người với tài năng và óc sáng tạo của mình làm ra của cải vật
chất cho chính bản thân mìn và cho xã hội. Muốn có được năng suất lao động
cao, hiệu quả con người phải có trí tuệ, phải có trình độ khoa học công nghệ, và
đặc biệt phải có sức khoẻ, sức khoẻ ở đây bao gồm thể lực và trí lực. Mà con
người có phát triển toàn diện thì mới có được sức khoẻ đó, văn hoá truyền thống
chính là một yếu tố quan trọng hàng đầu tạo nên một con người vừa có sức khoẻ
về thể chất vừa khoẻ về tâm hồn để lao động và sáng tạo.
Hơn thế nữa, văn hoá truyền thống là một phương tiện giáo dục xã hội
góp phần tạo nên một giá trị vô cùng quan trọng đối với bản thân mỗi con người
và với cả xã hội. Đó là yếu tố tài và đức. Đây là hai yếu tố tạo nên một con
người mới với trình độ văn hoá cao, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự
phát triển của xã hội. Văn hoá truyền thống với những hệ giá trị như chăm chỉ
cần cù, chịu thương chịu khó, tương thân tương ái… sẽ giúp con người phát huy
được mọi khả năng sáng tạo của mình trong học tập cũng như trong lao động sản
xuất, dưới sự giúp đỡ của cộng đồng. Cũng nhờ những giá trị của văn hoá truyền
thống đã giáo dục cho con người dần hoàn thiện giá trị đạo đức của mình trở
thành con người có trí đức hoàn thiện để cùng cộng đồng phát triển.
Như vậy, văn hoá truyền thống là một yếu tố vô cùng quan trọng trong
việc xây dựng con người mới – mục tiêu và động lực của sự phát triển. Con
người mới với sức khoẻ và trí tuệ mới sẽ là lực lượng quyết định đối với mọi sự
phát triển. Vì thế chăm lo xây dựng con người mới không thể không chăm lo
xây dựng văn hoá cho cộng đồng xã hội, đặc biệt là văn hoá truyền thống dân
tộc. Hay nói cách khác chăm lo giữ gìn và phát huy văn hoá truyền thống chính
là chăm lo xây dựng con người mới, là tạo động lực cho các quá trình phát triển.
Không chỉ có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội của
đất nước, văn hoá truyền thống còn đóng vai trò quan trọng trong giao lưu hội
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
13
nhập với quốc tế. Quá trình hội nhập là một quá trình giao lưu giữa các quốc gia
với nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực văn
hoá. Các quốc gia thông qua quá trình hội nhập, sẽ giao lưu, trao đổi kinh
nghiệm cũng như các tinh hoa văn hoá với nhau làm phong phú thêm nền văn
hoá nước nhà. Tham gia hội nhập quốc tế là một đòi hỏi tất yếu khách quan của
các quốc gia. Muốn phát triển, các quốc gia không thể không tham gia vào quá
trình vận động chung của quá trình hội nhập. Hội nhập chính là cơ hội để các
quốc gia cùng nhau giải quyết nhiều vấn đề kinh tế xã hội mang tính toàn cầu.
Phải nhận thấy rằng vấn đề tham gia hội nhập với khu vực và thế giới của các
quốc gia không chỉ là sự hội nhập về mặt chính trị, do các Chính Phủ đảm nhận,
mà có cả sự tham gia của người dân. Có thể nói sự tham gia hội nhập của người
dân chính là yếu tố mở đường cho các quốc gia hội nhập sâu rộng hơn. Quan hệ
giữa nhân dân các nước là điều kiện tiền đề cho các quốc gia quan hệ với nhau
thân thiết hơn về mọi mặt. Sự giao lưu của nhân dân các nước trên nhiều lĩnh
vực trước hết phải là sự giao lưu về mặt văn hoá. Văn hoá truyền thống tham gia
vào quá trình hội nhập quốc tế hay toàn cầu hoá với tư cách là yếu tố khẳng định
tính riêng biệt độc đáo của một dân tộc. Tính riêng biệt độc đáo đó là nền tảng
để các quốc gia khẳng định bản sắc của riêng mình, từ đó có thể mở rộng quan
hệ trên nhiều lĩnh vực xã hội khác nhau như kinh tế, chính trị, giáo dục hay y
tế…
Trong giao lưu hợp tác quốc tế, tính dân tộc của văn hoá truyền thống
nhiều khi quyết định đến tính chất và mức độ của quan hệ quốc tế trên các lĩnh
vực. Chẳng hạn như, với những nét văn hoá đặc sắc, truyền thống văn hoá mang
đậm nét cổ truyền sẽ giúp các quốc gia mở rộng hợp tác về du lịch văn hoá
truyền thống, với truyền thống cần cù, ham học hỏi của người lao động Việt
Nam là yếu tố thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam để phát triển kinh tế.
Cùng với quá trình hội nhập, văn hoá truyền thống sẽ làm sợi dây liên kết các
quốc gia lại với nhau cùng hợp tác và phát triển trên nhiều lĩnh vực khác. Đồng
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
14
thời văn hoá truyền thống của dân tộc cũng chính là yếu tố để khẳng định mình
cùng với bạn bè thế giới. Một quốc gia dân tộc tham gia vào một sân chơi rộng
lớn lại không khẳng định được mình là ai thì chắc chắn một điều rằng mối quan
hệ với các quốc gia khác không thể bền vững được. Điều này khẳng định rằng,
không có tính độc đáo cá biệt của mình sẽ không thể tham gia hội nhập được.
Tính độc đáo của riêng mình trong mỗi quốc gia chỉ có được nhờ văn hoá truyền
thống dân tộc hay bản sắc dân tộc đó mà thôi.
Chính vì những điều này mà UNESCO đã phát động “ Thập niên thế giới
phát triển văn hoá ” trong đó có đề cao yếu tố các quốc gia phải đặc biệt quan
tâm tới quá trình bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá độc đáo của mình. Đó
chính là nền tảng cho sự phát triển và tham gia hội nhập quốc tế. Hễ quốc gia
nào mà không quan tâm phát triển văn hoá, đặc biệt văn hoá truyền thống và coi
văn hoá như một nhân tố điều tiết xã hội, gắn với phát triển kinh tế thì quốc gia
đó sẽ bị mất cân đối trong phát triển và không còn là bản thân mình nữa. Điều
này cho thấy vai trò của văn hoá truyền thống đã được các quốc gia thừa nhận,
và đã trở thành một chương trình hoạt động chung của cộng đồng quốc tế vì mục
tiêu phát triển con người. Không chăm lo bảo vệ và phát huy văn hoá truyền
thống đồng nghĩa với dân tộc đó tự đánh mất mình, đồng nghĩa với việc mất văn
hoá dân tộc là mất nước, chịu sự lệ thuộc về văn hoá, đất nước, dân tộc đó sẽ
không thể tồn tại độc lập được.
Như vậy, văn hoá, và văn hoá truyền thống là một yếu tố có ý nghĩa và
vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển nói chung và quá trình hội nhập
quốc tế nói riêng. Chăm lo giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá truyền thống dân
tộc chính là chăm lo cho sự phát triển bền vững của dân tộc và làm cho văn hoá
nhân loại thêm phong phú hơn.
1.2 Lễ hội truyền thống - một hoạt động quan trọng góp phần duy trì và
phát triển văn hoá truyền thống
1.2.1 Lễ hội truyền thống và các loại hình lễ hội
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
15
a. Lễ hội truyền thống
Lễ hội truyền thống là loại hình sinh hoạt văn hoá, sản phẩm tinh thần của người
dân được hình thành và phát triển trong quá trình lịch sử. Người Việt Nam từ
hàng ngàn đời nay có truyền thống “uống nước nhớ nguồn”. Lễ hội là sự kiện
thể hiện truyền thống quý báu đó của cộng đồng, tôn vinh những hình tượng
thiêng, được định danh là những vị “Thần” - những người có thật trong lịch sử
dân tộc hay huyền thoại. Hình tượng các vị thần linh đã hội tụ những phẩm chất
cao đẹp của con người. Đó là những anh hùng chống giặc ngoại xâm; những
người khai phá vùng đất mới, tạo dựng nghề nghiệp; những người chống chọi
với thiên tai, trừ ác thú; những người chữa bệnh cứu người; những nhân vật
truyền thuyết đã chi phối cuộc sống nơi trần gian, giúp con người hướng thiện,
giữ gìn cuộc sống hạnh phúc... Lễ hội là sự kiện tưởng nhớ, tỏ lòng tri ân công
đức của các vị thần đối với cộng đồng, dân tộc và là dịp để mọi người gặp gỡ
nhau, giao lưu sinh hoạt văn hoá với nhau.
b. Các loại hình lễ hội
Theo tính chất của lễ hội truyền thống, có:
- Lễ hội mang tính tính ngưỡng: Tết truyền thống, Lễ hội Đền Hùng, Lễ hội
Chùa Hương, Lễ hội Cầu Mùa… Đây là loại lễ hội truyền thống có số lượng lớn
nhất
- Lễ hội văn nghệ dân gian: Hội Chèo, Hội Lim…
Theo phạm vi, quy mô:
- Lễ hội cấp quốc gia: Lễ hội Đền Hùng,
- Lễ hội cấp Tỉnh: Lễ hội truyền thống Cố đô Hoa Lư ( Ninh Bình ), Lễ hội
Chùa Hương ( Hà Tây ), Hội Lim ( Bắc Ninh )…
- Lễ hội cấp Huyện: Hội đền Thái Vi ( Ninh Bình), Hội chùa Keo ( Hà Tây),…
- Lễ hội cấp xã: Đây là loại lễ hội chiếm số lượng lớn nhất với các hình thức tổ
chức phong phú mang đậm nét truyền thống của cộng đồng từng làng quê Việt
Nam
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
16
Theo quy chế tổ chức và quản lý lễ hội, gồm
- Lễ hội dân gian
- Lễ hội lịch sử cách mạng
- Lễ hội tôn giáo
- Lễ hội có nguồn gốc từ nước ngoài du nhập vào Việt Nam
1.2.2 Đặc điểm của lễ hội truyền thống
Tính cộng đồng. Mỗi một lễ hội truyền thống đều mang tính cộng đồng
sâu sắc. Tính cộng đồng của lễ hội thể hiện ở chỗ chính từ cộng đồng mà lễ hội
truyền thống được hình thành nên. Lễ hội truyền thống được ra đời phục vụ nhu
cầu của cộng đồng, đó là nhu cầu tín ngưỡng; nhu cầu giao lưu, sinh hoạt văn
hoá với nhau…Hơn nữa cộng đồng chính là mảnh đất để cho các lễ hội truyền
thống tồn tại và phát triển. Lễ hội ra đời phục vụ cho nhu cầu văn hoá cũng như
tâm linh của con người. Vì thế lễ hội truyền thống gắn kết chặt chẽ với cộng
đồng xã hội. Một lễ hội được tổ chức mà không được cộng đồng tham gia,
không được cộng đồng coi trọng thì chắc chắn lễ hội đó không mang tính cộng
đồng cao.
Hầu hêt các lễ hội truyền thống đều có đặc điểm là bao gồm hai phần
chính là phần lễ và phần hội. Phần lễ mang tính trang nghiêm, mang ý nghĩa tín
ngưỡng sâu sắc. Phần lễ thường là những nghi thức trang trọng thể hiện sự tạ ơn
đối với những người có công với cộng đồng và cầu mong cho mưa thuận gió
hoà, cầu cho cuộc sống được bình an, hạnh phúc. Còn phần hội chính là phần
sinh hoạt văn hoá của cộng đồng. Phần hội này bao gồm các trò chơi dân gian
truyền thống, vừa có tác dụng thu hút mọi người tham gia lễ hội vừa có tác dụng
giải trí, tạo tâm lý thoản mái cho người dân để chuẩn bị bước vào vụ sản xuất
mới, đồng thời làm tăng tính cố kết cộng đồng, tinh thần đoàn kết của người dân
trong làng xã. Xét về nguồn gốc, phần lớn các trò chời dân gian đều xuất phát từ
ước vọng thiêng liêng của người nông dân. Ví dụ trò pháo đất, đốt pháo, trò thả
diều… xuất phát từ tiếng sấm cầu mưa thuận gió hoà; trò cướp cầu, đánh đáo,
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
17
ném còn thì thể hiện ước vọng cầu an; trò thi bắt lợn, thi thổi cơm, trò đập niêu
thể hiện mong ước chân cứng đa mềm, nhanh chân nhanh tay, sức khoẻ dẻo
dai…..
Tính giáo dục sâu sắc.
Lễ hội truyền thống là dịp để cho mỗi người trở về với cội nguồn, vừa là
dịp để cho mỗi người gặp nhau sau những lo toan của cuộc sống hàng ngày. Lễ
hội là dịp để mọi người thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, biết ơn với
những người có công với làng xã, với đất nước. Qua lễ hội, mỗi người có dịp
bày tỏ lòng biết ơn đó, được ôn lại lịch sử cũng như được thấm nhuần các giá trị
to lớn của truyền thống mà cha ông đã để lại. Qua các nghi thức cúng lễ, qua các
trò chơi dân gian, các thế hệ truyền lại cho nhau những giá trị truyền thống to
lớn mà cha ông đã dày công vun đắp nên. Tất cả đều một mục đích giáo dục cho
thế hệ sau biết trân trọng, giữ gìn những gì cha ông đã hy sinh cả sương máu và
tính mạng tạo nên, đồng thời giáo dục cho các thế hệ đạo lý uống nước nhớ
nguồn của dân tộc, khơi dậy tinh thần đoàn kết tương thân tương ái, giúp đỡ
nhau cùng phát triển
1.2.3 Vai trò của lễ hội truyền thống trong việc duy trì và phát triển văn hoá
truyền thống
Lễ hội truyền thống là một hoạt động sinh hoạt văn hoá của cộng đồng xã
hội. Nó có vai trò quan trọng đối với đời sống xã hội nói chung và với việc duy
trì và phát huy văn hoá truyền thống nói riêng. Vai trò đó được biểu hiện qua các
mặt như sau:
Lễ hội là dịp con người được trở về nguồn, nguồn cội tự nhiên hay nguồn
cội của dân tộc đều có ý nghĩa thiêng liêng trong tâm trí mỗi người. Trở về với
cội nguồn con người thể hiện lòng tri ân của mình với các thế hệ trước, thể hiện
tấm trân tình đối với cha ông đã sinh thành, dưỡng dục và để lại thành quả cho
các thế hệ kế tiếp. Nhớ về cội nguồn, nhớ về công lao của cha ông chính là đạo
lý “ uống nước nhớ nguồn ”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây ” đã tồn tại từ bao đời
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
18
nay của dân tộc Việt Nam. Lễ hội chính là dịp để mỗi người thể hiện đạo lý
truyền thống tốt đẹp đó của dân tộc ta. Do đó có thể nói rằng, lễ hội đóng vai trò
hết sức quan trọng trong việc giữ gìn các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc
ta.
Lễ hội còn thể hiện sức mạnh cộng đồng làng xã, địa phương hay rộng
hơn là quốc gia dân tộc. Họ thờ chung vị thần, có chung mục tiêu đoàn kết để
vượt qua gian khó, giành cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Sức mạnh to lớn của tinh
thần đoàn kết từ bao đời nay của cha ông ta được thể hiện thông qua lễ hội.
Cộng đồng cùng nhau chia sẻ những kinh nghiệm lao động sản xuất, chia sẻ
kinh nghiệm sống, tương trợ lẫn nhau theo tinh thần “ là lành đùm lá rách” để
cùng nhau phát triển. Lễ hội cũng chính là nơi con người có thể hiểu nhau hơn.
Nếu không có lễ hội thì cơ hội để cộng đồng hiểu biết nhau, chia sẻ với nhau
những kinh nghiệm của cuộc sống sẽ khó khăn hơn do những lo toan, bươn trải
cho cuộc sống. Vì vậy, lễ hội là mảnh đất cho tinh thần đoàn kết giúp đỡ nhau
trong cộng đống xã hội phát triển.
Lễ hội cũng là nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ những giá trị văn hoá vật
chất và tinh thần của mọi tầng lớp dân cư; là hình thức giáo dục, lưu giữ và
chuyển giao cho các thế hệ sau biết giữ gìn, kế thừa và phát huy những giá trị
đạo đức truyền thống quý báu của dân tộc theo cách riêng, kết hợp giữa yếu tố
tâm linh và các trò chơi đua tài, giải trí…Lễ hội là nơi có tính giáo dục sâu sắc,
đặc biệt là giáo dục về những giá trị truyền thống. Cùng với lễ hội các giá trị
truyền thống của dân tộc được tái hiện lại một cách sinh động thông qua các
nghi lễ, các trò chơi dân gian, các làn điệu dân ca dân vũ…tất cả đều tái hiện lại
những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Việc tái hiện lại những giá trị
truyền thống đó chính là việc chuyển giao lại cho các thế hệ sau giữ gìn, bảo tồn
và phát huy giá trị của chúng. Bên cạnh đó, lễ hội cũng là dịp để con người sáng
tạo văn hoá, giao lưu văn hoá với các nền văn hoá khác. Đây cũng là cơ hội để
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
19
cho các giá trị truyền thống được quảng bá rộng rãi và phát huy trong cuộc sống
của cộng đồng.
Như vậy, có thể nói lễ hội truyền thống là nơi hội tụ, là mảnh đất màu mỡ
để cho văn hoá truyền thống phát triển. Những giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc được lưu giữ , bảo tồn và phát huy thông qua lễ hội. Do vậy lễ hội là một
điều kiện quan trọng để văn hoá truyền thống tại và phát huy, việc khôi phục và
phát triển các lễ hội truyền thống cũng chính là việc giữ gìn và phát triển văn
hoá truyền thống của dân tộc.
1.3 Sự cần thiết của quản lý Nhà nƣớc về văn hoá để duy trì và phát huy
văn hoá - lễ hội truyền thống
1.3.1 Vai trò của Nhà nƣớc đối với việc duy trì và phát huy văn hoá - lễ hội
truyền thống
a. Vai trò của Nhà nước.
Vai trò định hướng hoạt động
Duy trì và phát huy văn hoá truyền thống là nhiệm vụ quan trọng của toàn
xã hội trong sự nghiệp phát triển văn hoá nước nhà. Muốn cho nền văn hoá của
đất nước đặc biệt là văn hoá truyền thống phát triển một cách đúng đắn thì phải
có một định hướng nhất định. Vai trò định hướng cho văn hoá truyền thống
được bảo tồn và phát triển thuộc về Nhà nước. Nhà nước định hướng cho văn
hoá truyền thống phát triển theo một mục tiêu, một đường hướng nhất định. Sự
định hướng của Nhà nước giúp cho văn hoá truyền thống dân tộc được chọn lọc
và phát huy những giá trị văn hoá tốt đẹp của mình đồng thời loại bỏ những giá
trị mang tính lạc hậu, không còn phù hợp với cuộc sống đương đại nữa. Như
vậy, vai trò định hướng của Nhà nước ở đây chính là việc hướng cho những giá
trị nào là tốt đẹp, là tích cực có vai trò quan trọng trong cuộc sống cộng đồng
được bảo tồn và phát huy, đồng thời xác định những gì đã lạc hậu hay mang tính
chất không có lợi cũng như không còn phù hợp nữa để có biện pháp loại bỏ hoặc
thay thế cho phù hợp.
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
20
Trong những năm qua, vai trò định hướng của Nhà nước đối với việc duy
trì và phát huy văn hoá truyền thống đã được thể hiện thông qua các chủ trương,
đường hướng phát triển văn hoá và các văn bản quản lý. Trong đó có định
hướng những giá trị truyền thống cần được bảo tồn và phát triển, đồng thời cũng
quy định những giá trị lạc hậu cần loại bỏ. Chẳng hạn như trong Quy chế tổ
chức lễ hội ban hành kèm theo Quyết định số 09/2001/QĐ-BVHTT của Bộ
trưởng Bộ Văn hoá Thông tin có quy định về mục tiêu của việc tổ chức lễ hội tại
điều 2 như sau:
“ 1. Tưởng nhớ công đức các anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa, các liệt sĩ,
các bậc tiền bối đã có công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tinh thần của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam.
3. Đáp ứng nhu cầu văn hóa, tín ngưỡng, tham quan các di tích lịch sử - văn
hóa, danh lam thắng cảnh, công trình kiến trúc nghệ thuật, cảnh quan thiên
nhiên và các nhu cầu chính đáng khác của nhân dân. ”
Đồng thời quy định cả những điều cấm trong lễ hội, được quy định tại điều 3
như sau:
“1. Lợi dụng lễ hội để tổ chức các hoạt động chống lại Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, gây mất trật tự, an ninh, tuyên truyền trái pháp luật,
chia rẽ đoàn kết dân tộc.
2. Tổ chức các hoạt động mê tín dị đoan, phục hồi hủ tục trái với thuần phong
mỹ tục của dân tộc.
3. Tổ chức các dịch vụ sinh hoạt ăn nghỉ và dịch vụ tín ngưỡng trong khu vực
nội tự.
4. Đánh bạc dưới mọi hình thức.
5. Đốt đồ mã (nhà lầu, xe, ngựa, đồ dùng sinh hoạt...).
6. Những hành vi vi phạm pháp luật khác.”
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
21
Như vậy, Quy chế đã quy định những mục đích cụ thể của việc tổ chức lễ hội,
đồng thời nghiêm cấm các hành vi không đi đúng với mục đích tổ chức lễ hội
gây ảnh hưởng xấu đến môi trường văn hoá truyền thống. Điều này thể hiện rõ
sự định hướng của Nhà nước cho việc tổ chức và quản lý lễ hội, một nét sinh
hoạt văn hoá truyền thống của cộng đồng xã hội.
Vai trò hỗ trợ.
Nhà nước không chỉ có vai trò định hướng đối với sự phát triển văn hoá
truyền thống mà còn đóng vai trò là lực lượng hỗ trợ cho văn hoá truyền thống
được duy trì và phát huy theo sự định hướng của Nhà nước. Nhà nước hỗ trợ
cho văn hoá truyền thống được duy trì và phát triển thông qua các hình thức sau:
Thứ nhất là hỗ trợ về mặt kinh phí hoạt động. Văn hoá truyền thống để
được duy trì và phát huy theo định hướng của Nhà nước cần có kinh phí để thực
hiện. Ngoài kinh phí do cộng đồng xã hội đóng góp, cần có một khoản kinh phí
hỗ trợ từ phía Nhà nước cũng như hỗ trợ về mặt quản lý và sử dụng kinh phí cho
các hoạt động. Kinh phí thực hiện việc duy trì và phát huy văn hoá truyền thống
là yếu tố hết sức quan trọng, nó là một yếu tố quyết định tới sự thành công hay
không của sự nghiệp phát triển văn hoá. Trong thực tế của sự nghiệp phát triển
văn hoá, đặc biệt là vấn đề bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống đã có nhiều
trường hợp do thiếu kinh phí tổ chức hoạt động mà các giá trị của văn hoá không
được bảo tồn và phát huy. Do đó, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ về mặt
kinh phí để thực hiện việc duy trì và phát huy văn hoá truyền thống.
Thứ hai là hỗ trợ về mặt pháp lý. Cũng như các lĩnh vực khác, văn hoá
truyền thống cũng cần có một môi trường pháp lý để hoạt động. Môi trường
pháp lý chính là yếu tố tạo cho văn hoá truyền thống được diễn ra theo đúng
mục tiêu và chính sách của Nhà nước. Có một môi trường pháp lý an toàn, văn
hoá truyền thống có điều kiện được phát triển mạnh mẽ dưới sự hỗ trợ cũng như
đảm bảo của Nhà nước. Bằng việc ghi nhận các lĩnh vực văn hoá truyền thống
như văn nghệ dân gian, các nét sinh hoạt truyền thống, các phong tục tập quán…
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
22
trong các văn bản pháp luật và quy định có cơ chế bảo vệ văn hoá truyền thống
bằng pháp luật chính là việc thể hiện vai trò hỗ trợ về mặt pháp lý hay nói cách
khác chính là việc tạo môi trường pháp lý cho văn hóa truyền thống phát triển
theo định hướng.
Thứ ba là hỗ trợ về mặt chuyên môn cũng như phương thức thực hiện.
Việc giữ gìn và phát huy văn hoá truyền thống là một nhiệm vụ khó khăn và
phức tạp cần có chương trình và kế hoạch cụ thể cho từng giai đoạn. Cộng đồng
xã hội hơn ai hết hiểu rất rõ về những giá trị tốt đẹp của văn hoá truyền thống.
Tuy nhiên, cùng với quá trình phát triển, nhiều khi việc cộng đồng tự đánh mất
những giá trị văn hoá truyền thống mà không hề hay biết, khi biết rồi thì cũng
không biết phải khôi phục bằng cách nào. Thậm chí chính cộng đồng cũng
không biết trong các giá trị của văn hoá truyền thống thì những giá trị nào cần
phải lưu giữ, phát huy và những giá trị nào cần thay đổi. Nhà nước thông qua
các cơ quan chuyên môn quản lý Nhà nước về văn hoá có vai trò quan trọng
giúp cho cộng đồng thấy được điều đó, đồng thời hỗ trợ về mặt chuyên môn để
các giá trị của văn hoá truyền thống được duy trì và phát triển tốt hơn. Thí dụ
như việc tổ lễ hội truyền thống, Nhà nước sẽ hỗ trợ việc tổ chức thông qua cơ
quan chuyên môn quản lý về văn hoá. Các cơ quan chuyên môn quản lý Nhà
nước về văn hoá sẽ hỗ trợ về mặt chương trình, cố vấn về các nghiệp vụ tổ chức
lễ hội, trong đó sưu tầm các hoạt động văn hoá dân gian như dân ca, dân vũ, các
trò chơi dân gian trong lễ hội…Đồng thời hỗ trợ về mặt kiểm tra giám sát các
quy định chung để thực hiện các hoạt động giữ gìn và phát triển văn hoá truyền
thống.
Như vậy, với sự hỗ trợ to lớn từ phía Nhà nước giúp cho văn hoá truyền
thống phát triển theo chiều hướng tích cực, góp phần bảo vệ, duy trì và phát
triển văn hoá dân tộc, chống ảnh hưởng xấu, đồng thời giao lưu học hỏi những
tinh hoa văn hoá thế giới để góp thêm hơi thở hiện đại cho văn hoá - yếu tố quan
trọng để văn hoá truyền thống có thể duy trì và phát triển trong bối cảnh mới.
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
23
Vai trò nòng cốt trong việc giữ gìn và phát huy văn hoá truyền thống.
Nhà nước thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực văn
hoá, trong đó có nhiệm vụ giữ gìn và phát huy văn hoá truyền thống. Do đó Nhà
nước đóng vai trò là lực lượng tiên phong đi đầu. Chủ trương xây dựng nền văn
hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc được Nhà nước xây dựng thành các chương
trình, kế hoạch cụ thể. Nhà nước cần có chương trình và kế hoạch huy động,
khuyến khích cả xã hội cùng tham gia.
b. Quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước đối với việc giữ gìn và phát
triển văn hoá tuyền thống.
Quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng trên nhiều lĩnh vực đã và đang diễn ra
hiện nay làm cho văn hoá cũng trở thành một lĩnh vực của hội nhập. Trong đó
việc giao lưu về văn hoá giữa các quốc gia là một tất yếu khách quan. Muốn
phát triển văn hoá các quốc gia không thể khép kín trong mỗi quốc gia, dân tộc.
Do đó, nhất định sẽ có sự tác động qua lại giữa các quốc gia về văn hoá. Điều
này dẫn đến hai hệ quả khác nhau. Nếu biết tiếp thu và chọn lọc những tinh hoa
văn hoá của các quốc gia khác sẽ làm cho nền văn hoá dân tộc thêm đa dạng,
phong phú và phát triển. Ngược lại, nếu tiếp thu không chọn lọc và không chú ý
giữ gìn văn hoá truyền thống sẽ làm mai một đi văn hóa truyền thống. Vì vậy,
việc tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại phải đi đôi với giữ gìn và phát huy văn
hoá truyền thống. Nhận thức được vai trò quan trọng của vấn đề giữ gìn và phát
huy văn hoá truyền thống, tại Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII ( 1991 ),
Đảng ta đã xác định rõ mục tiêu xây dựng nền văn hoá “ tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc”.
Quá trình phát triển kinh kế - xã hội của đất nước cùng với quá trình hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng thì vấn đề giữ gìn và phát huy văn hoá truyền
thống càng được chú trọng hơn, nó không chỉ là nhiệm vụ của từng quốc gia mà
của cả nhân loại. Chính vì thế mà UNESCO đã phát động “Thập niên quốc tế
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
24
phát triển văn hoá” và nhấn mạnh các quốc gia cần phải có chương trình nhằm
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc của quốc gia mình.
Như vậy, việc giữ gìn và phát huy văn hoá truyền thống không chỉ là
nhiệm vụ của riêng Việt Nam hay một quốc gia nào mà của cả cộng đồng thế
giới. Để nền văn hoá Việt Nam phát triển là một nền văn hoá tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc, Đảng ta đã ra một Nghị quyết riêng về vấn đề này. Đó là Nghị
quyết của Hội nghị lần thứ V - Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII về “ xây
dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc ”. Tại Nghị quyết
này, Đảng ta đã chủ trương giữ gìn và phát huy văn hoá truyền thống để xây
dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc thông qua các
nhiệm vụ cụ thể là nhiệm vụ bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá; đồng thời
bảo tồn, phát huy và phát triển vǎn hóa các dân tộc thiểu số. Trong đó khẳng
định “ Di sản vǎn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi
của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu vǎn hóa.
Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị vǎn hóa truyền thống
(bác học và dân gian), vǎn hóa cách mạng, bao gồm cả vǎn hóa vật thể và phi
vật thể ”.
Đồng thời “ Coi trọng và bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống và
xây dựng, phát triển những giá trị mới về vǎn hóa, vǎn học, nghệ thuật của các
dân tộc thiểu số…
Bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, chữ viết của các dân tộc. Đi đôi với việc sử
dụng ngôn ngữ, chữ viết phổ thông, khuyến khích thế hệ trẻ thuộc đồng bào các
dân tộc thiểu số học tập, hiểu biết và sử dụng thành thạo tiếng nói, chữ viết của
dân tộc mình. Phát hiện, bồi dưỡng, tổ chức lực lượng sáng tác, sưu tầm, nghiên
cứu vǎn hóa, vǎn học, nghệ thuật là người dân tộc thiểu số. Ưu tiên tài trợ cho
các tác giả dân tộc thiểu số có tài nǎng sáng tạo các tác phẩm về đề tài dân tộc
và miền núi. Đào tạo đội ngũ trí thức thuộc đồng bào các dân tộc thiểu số và tạo
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
25
điều kiện để trí thức, cán bộ dân tộc thiểu số trở về phục vụ quê hương. Phát
huy tài nǎng các nghệ nhân…”
Tinh thần Nghị quyết Trung ương V khoá VIII được tiếp tục khẳng định
qua các kỳ Đại hội IX, X của Đảng ta. Trong đó tại Nghị quyết Đại hội Đảng lần
thứ IX, văn hoá truyền thống được định hướng phát triển như sau: “ Đẩy mạnh
cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá"; "Xây dựng nếp
sống văn minh và gia đình văn hoá"; phong trào "Người tốt, việc tốt". Thực hiện
tốt phong trào thi đua yêu nước, ..., kiên quyết đấu tranh loại trừ các hiện tượng
tiêu cực và các tệ nạn xã hội.
Phát huy bản sắc văn hoá dân tộc; bảo tồn và tôn tạo các di sản văn hoá vật thể
và phi vật thể làm nền tảng cho sự giao lưu văn hoá giữa các cộng đồng, giữa
các vùng cả nước và giao lưu văn hoá với bên ngoài. Tiếp tục đưa các hoạt
động văn hoá thông tin về cơ sở, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc;
phát động phong trào toàn dân tham gia thực hiện nếp sống văn minh, gia đình,
bản, làng văn hoá;...”. Chủ trương này tiếp tục được khẳng định tại định hướng
phát triển văn hoá của Đại hội Đảng X: “ Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội và con
người trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh
tế quốc tế ...; chống những hiện tượng phản văn hoá, phi văn hoá”.
Thực hiện chủ trương của Đảng về xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc trong đó có nhiệm vụ duy trì và phát huy văn hoá truyền thống,
Nhà nước ta đã có nhiều chương trình cụ thể. Thông qua hệ thống chính sách, văn
bản quản lý Nhà nước đã và đang từng bước có các hoạt động cụ thể hoá các chủ
trương lớn của Đảng về văn hoá truyền thống của Việt Nam. Chẳng hạn như Luật
Di sản văn hoá được Quốc Hội ban hành ngày 29/6/2001 là cơ sở pháp lý cao nhất
cho việc bảo vệ và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống, trong đó có các giá trị
văn hoá phi vật thể và văn hóa vật thể. Ngày 31/7/2007 Thủ tướng Chính Phủ ban
hành quyết định số 125/2007/QĐ-TTg về phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
26
gia về văn hoá giai đoạn 2006-2010, trong đó nêu rõ mục tiêu, các dự án cụ thể
như: dự án chống xuống cấp và tôn tạo di tích; dự án sưu tầm, bảo tồn và phát huy
giá trị các di sản văn hoá phi vật thể của các dân tộc Việt Nam; dự án điều tra,
nghiên cứu, bảo tồn một số làng, bản tiêu biểu và lễ hội truyền thống đặc sắc của
dân tộc ít người...Hay như quyết định số 124/2003/QĐ-TTg ngày 17/6/2003, Thủ
Tướng Chính Phủ đã ký phê duyệt Đề án Bảo tồn phát triển văn hoá các dân tộc
thiểu số Việt Nam, trong đó có nêu rõ lộ trình, chủ đề án, nội dung bảo tồn và phát
huy văn hoá dân tộc thiểu số... Đây là một trong những biện pháp cụ thể nhằm duy
trì và phát huy văn hoá truyền thống của các dân tộc thiểu số nói chung và của văn
hoá truyền thống dân tộc nói chung. Bên cạnh đó cơ quan Trung ương quản lý Nhà
nước về văn hoá là Bộ Văn Hoá - Thể Thao và Du Lịch cũng đã có các chương
trình cụ thể, chẳng hạn như Quyết định số 214/2007/QĐ-BVHTTDL ngày
29/8/2007 của Bộ trưởng Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch về phân bổ ngân sách sự
nghiệp 2007 của mục tiêu điều tra, sưu tầm và bảo tồn di sản văn hoá phi vật thể
thuộc diện văn hoá – thông tin... Đó chính là sự cụ thể hoá đường lối, chủ trương
của Đảng về phát triển văn hoá trong đó có giữ gìn và phát huy văn hoá truyền
thống của Nhà nước ta.
1.3.2 Những yêu cầu chung quản lý Nhà nƣớc đối với văn hoá truyền thống
Do những đặc trưng cơ bản của văn hoá truyền thống nên trong quá trình
quản lý Nhà nước cần chú ý những yêu cầu sau:
Thứ nhất, phải xác định rõ đối tượng quản lý. Văn hoá truyền thống là
một lĩnh vực rộng lớn bao gồm nhiều lĩnh vực về văn hoá khác nhau, mỗi lĩnh
vực về văn hoá truyền thống lại có một đặc thù riêng, tính chất riêng. Vì vậy
trong quản lý nhất thiết phải xác định rõ đặc điểm riêng có của đối tượng quản
lý để có phương thức quản lý thích hợp, đặc biệt cần xác định đối tượng nào cần
có sự quản lý của Nhà nước, đối tượng nào có thể giao cho cộng đồng tự quản
lý. Chẳng hạn như đối với các lễ hội truyền thống, trong quản lý cần xác định
các lễ hội nào cần phải có sự xét duyệt và cho phép của cơ quan quản lý Nhà
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
27
nước, lễ hội nào không cần phải xin phép. Hay như đối với quản lý văn nghệ dân
gian, cần xác định rõ những loại hình biểu diễn nào cần có sự xét duyệt và cho
phép của cơ quan quản lý Nhà nước, loại hình nào không phải xin phép…Việc
xác định rõ đối tượng quản lý Nhà nước sẽ tránh cho các hoạt động văn hoá
truyền thống phát triển lệch với mục tiêu và định hướng chung. Đồng thời nó
giúp cho cơ quan quản lý tránh hiện tượng ôm đồm trong quản lý trong khi có
những hoạt động không nhất thiết phải Nhà nước quản lý mà vẫn đem lại hiệu
quả cao.
Thứ hai, Văn hoá truyền thống mang tính giá trị hai mặt, do đó trong quản
lý Nhà nước cần xác định rõ đâu là những giá trị cần bảo tồn và phát huy, đâu là
những giá trị đã lạc hậu cần loại bỏ. Xác định được đúng các giá trị này của văn
hoá truyền thống sẽ giúp cho Nhà nước có định hướng đúng đắn cho việc phát
triển nền văn hoá nói chung và viềc giữ gìn và phát huy văn hoá truyền thống
nói riêng, đồng thời có biện pháp hỗ trợ thích hợp cho việc thực hiện các mục
tiêu quản lý đã đề ra.
Thứ ba, Văn hoá truyền thống do cộng đồng sản sinh ra. Vì vậy trong
quản lý Nhà nước đối với văn hoá truyền thống cần phải kết hợp chặt chẽ với
cộng đồng xã hội. Đây là yếu tố quan trọng quyết định tới thành công của hoạt
động quản lý Nhà nước trong lĩnh vực này. Nếu không kết hợp với cộng đồng
trong quản lý, nhà quản lý sẽ không tránh khỏi tình trạng thụ động, chủ quan
duy ý trí khi đưa ra chủ trương, chính sách cho phát triển văn hoá. Bởi lẽ, không
gắn kết với cộng đồng thì nhà quản lý sẽ không hiểu hết các nhu cầu về văn hoá
truyền thống, không hiểu được một cách cặn kẽ, sâu sắc các giá trị mà cộng
đồng xã hội muốn lưu giữ và phát triển cũng như những giá trị muốn loại bỏ.
Trong việc bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống thì cộng đồng chính là
nhân tố quyết định. Bởi không phải ai khác chính cộng đồng xã hội là nơi lưu
giữ các giá trị của văn hoá truyền thống. Việc phát huy các giá trị ấy cũng do
chính cộng đồng quyết định. Việc gắn kết với cộng đồng trong quản lý được thể
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
28
hiện thông qua việc Nhà nước và nhân dân cùng làm, tức là việc đưa ra chính
sách phải phù hợp với nguyện vọng của cộng đồng và phải được cộng đồng
tham gia thực hiện. Có như vậy các chính sách mới thành công được.
Thứ tư, phải kết hợp các phương pháp quản lý Nhà nước với cơ chế quản
lý mềm. Văn hoá truyền thống là những giá trị lâu đời, do cộng đồng xã hội sản
sinh ra qua nhiều thế hệ. Do văn hoá truyền thống là do cộng đồng sáng tạo ra
qua quá trình lịch sử, nên nó cũng có sự bảo vệ và quản lý theo các quy định
riêng của cộng đồng, đó là cơ chế quản lý mang tính cộng đồng hay chính là các
cơ chế mềm. Ở đây các quy định chuẩn mực được cộng đồng tự giác thực hiện
một cách tự nguyện. Do đó trong quá trình quản lý Nhà nước về văn hoá truyền
thống cần kết hợp một cách khéo léo giữa các phương pháp quản lý nhà nước
với cơ chế quản lý cộng đồng.
1.4 Nội dung một số chính sách lớn của Nhà nƣớc để bảo tồn và phát huy lễ
hội truyền thống
1.4.1 Hệ thống chính sách của Nhà nƣớc.
Giữ gìn và phát triển lễ hội truyền thống là một nội dung quan trọng trong
nhiệm vụ duy trì và phát huy văn hoá truyền thống của Nhà nước ta. Để lễ hội
truyền thống được duy trì và phát triển theo định hướng, trong những năm qua
Nhà nước ta đã ban hành các chính sách tạo điều kiện cho các lễ hội được tổ
chức và được quản lý theo đúng chủ trương và định hướng. Hệ thống các văn
bản liên quan đến việc tổ chức và quản lý lễ hội do Nhà nước ta ban hành bao
gồm:
- Luật Di sản văn hoá năm 2001;
- Quyết định số 308/2005/QĐ-TTg ngày 25 tháng 11 năm 2005 của Thủ
tướng Chính Phủ về việc ban hành Quy chế thực hiện nếp sống văn minh trong
việc cưới, việc tang và lễ hội;
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
29
- Nghị định số 11/2006/NĐ-CP ngày 18 tháng 01 năm 2006 của Chính
Phủ về việc ban hành Quy chế hoạt động văn hoá và kinh doanh dịch vụ văn hoá
công cộng;
- Nghị định số 56/2006/NĐ-CP ngày 06 tháng 6 năm 2006 của Chính Phủ
về xử phạt hành chính trong hoạt động văn hoá – thông tin;
- Quyết định số 39/2001/QĐ-BVHTT ngày 23 tháng 8 năm 2001 của Bộ
trưởng Bộ Văn Hoá Thông Tin về việc ban hành Quy chế tổ chức lễ hội ;
- Văn bản số 04/VHTTCS-DĐSVH gửi Sở VH-TT các địa phương yêu
cầu chỉ đạo, quản lý và tổ chức lễ hội năm 2007 theo tinh thần Nghị định số
11/2006/NĐ-CP của Chính Phủ…
Luật Di sản văn hoá năm 2001 quy định việc bảo vệ các di sản văn hoá
gồm di sản văn hoá phi vật thể và di sản văn hoá vật thể - là sản phẩm tinh thần,
vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học được lưu truyền từ thế hệ này qua
thế hệ khác. Luật ban hành nhằm bảo vệ và phát huy các giá trị di sản văn hoá,
đồng thời xác định quyền và nghĩa vụ của các cá nhân tổ chức đối với di sản văn
hoá của Việt Nam. Phạm vi điều chỉnh của luật Di sản là di sản văn hoá vật thể
và phi vật thể. Trong đó những di sản văn hoá phi vật thể được xác định “ sản
phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ,
chữ viết, được lưu truyền bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình
thức lưu giữ, lưu truyền khác, bao gồm tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học,
nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, nếp
sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ công truyền thống, tri thức về y, dược học cổ
truyền, về văn hóa ẩm thực, về trang phục truyền thống dân tộc và những tri
thức dân gian khác ” và di sản văn hoá vật thể được điều chỉnh trong luật này
được xác định “ sản phẩm vật chất có giá trị líchử, văn hoá, khoa học, bao gồm
di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia ”.
Theo đó lễ hội nói chung và lễ hội truyền thống nói riêng là di sản văn hoá phi
vật thể, Việc bảo vệ và tạo điều kiện để phát huy lễ hội truyền thống được quy
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
30
định như sau: “ Nhà nước tạo điều kiện duy trì và phát huy giá trị văn hoá của
các lễ hội truyền thống, bài trừ hủ tục và chống các biểu hiện tiêu cực, thương
mại hoá trong tổ chức và hoạt động lễ hội. Việc tổ chức lễ hội truyền thống phải
theo quy định của pháp luật ”.
Trong Quy chế thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và
lễ hội có quy định khi tổ chức lễ hội các cá nhân, tổ chức phải thực hiện đúng
quy định của pháp luật về di sản văn hoá và Quy chế tổ chức lễ hội của Bộ Văn
hóa Thông tin. Quy chế cũng quy định cụ thể những yêu cầu đối với tổ chức lễ
hội như:
“ 1. Không trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc; không được thực hiện các
hoạt động mê tín dị đoan như xem số, xem bói, xóc thẻ, yểm bùa, trừ tà và các
hình thức mê tín dị đoan khác.
2. Không gây mất trật tự, an ninh xã hội; không lợi dụng để truyền đạo trái phép
và có các hoạt động chia rẽ đoàn kết dân tộc.
3. Không làm cản trở giao thông và các hoạt động công cộng.
4. Không tổ chức hoặc tham gia đánh bạc dưới mọi hình thức.
5. Giữ gìn sự yên tĩnh, hạn chế gây tiếng ồn vào ban đêm.”
Đồng thời quy định phải quản lý chặt chẽ, ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành
vi vi phạm: “ Chính quyền địa phương, cơ quan, đơn vị, tổ chức phải có biện
pháp quản lý chặt chẽ, ngăn chặn và xử lý kịp thời những hành vi vi phạm di
tích, danh lam thắng cảnh; lừa đảo, trộm cắp của du khách; thương mại hoá và
các hoạt động mê tín dị đoan trong lễ hội theo phạm vi và thẩm quyền của mình
khi tổ chức lễ hội
Quy chế tố chức lễ hội ban hành kèm theo Quyết định số 39/2001 của Bộ
Trưởng Bộ Văn hóa Thông tin quy định cụ thể các mục tiêu của việc tổ chức lễ
hội, các loại hình lễ hội được điều chỉnh, quy định cụ thể các loại lễ hội phải
được cấp phép tổ chức và các loại không phải xin phép, quy định thủ tục xin
phép tổ chức lễ hội, quy định trong việc tổ chức lễ hội như: Ban Tổ chức lễ hội,
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
31
các hành vi bị cấm tại lễ hội…Quy chế tổ chức lễ hội là cơ sở pháp lý để cho các
cơ quan quản lý Nhà nước về lễ hội thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình,
đảm bảo cho các lễ hội diễn ra theo đúng mục đích và nhu cầu của cộng đồng.
Nghị định số 56/2006/NĐ-CP của Chính Phủ về xử phạt vi phạm hành
chính trong hoạt động văn hoá - thông tin có quy định các mức xử phạt đối với
các hành vi vi phạm tại lễ hội như: Phạt từ 300.000 đồng đến 1000.000 đồng đối
với việc sử dụng âm thanh quá mức độ ồn tối đa để tuyên truyền, quảng bá các
loại trò chơi, dịch vụ ở lễ hội; phạt tiền từ 500.000 đồng đến 2000.000 đồng
trong trường hợp tổ chức lễ hội phải báo cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền mà không báo cáo hoặc có báo cáo nhưng không được cơ quan có thẩm
quyền đồng ý mà vẫn tổ chức; phạt tiền từ 5000.000 đồng đến 15 000.000 đồng
đối với trường hợp tổ chức lễ hội theo quy định phải có giấy phép mà không
có…Ngoài ra Nghị định cũng quy định cụ thể các cơ quan có thẩm quyền xử
phạt hành chính đối với các hành vi vi phạm. Như vậy, Nghị định là cơ sở để
kiểm tra và xử lý vi phạm trong tổ chức và quản lý lễ hội.
Trong Quy chế Hoạt động văn hoá và kinh doanh dịch vụ văn hoá công
cộng ban hành kèm theo Nghị định số 11/2006/NĐ-CP của Chính Phủ có quy
định về việc tổ chức lễ hội như các lễ hội phải xin phép, các lễ hội không phải
xin phép, hồ sơ xin cấp phép tổ chức lễ hội…
Như vậy, vấn đề tổ chức và quản lý lễ hội được Nhà nước rất chú trọng.
Các cơ quan quản lý về văn hoá nói chung và quản lý về lễ hội truyền thống nói
riêng đã có nhiều văn bản để thực hiện quản lý và tổ chức các lễ hội. Từ việc
quy định các điều kiện tổ chức, cấp phép, các hành vi bị cấm đến các quy định
về xử phạt hành chính đều được quy định rõ tại các văn bản đã kể trên. Tuy
nhiên việc tổ chức và quản lý lễ hội còn có quá nhiều văn bản điều chỉnh, chẳng
hạn như việc tổ chức và quản lý lễ hội đã có quy chế riêng của Bộ Văn hoá
Thông tin nhưng vẫn có các văn bản khác quy định về tổ chức lễ hội như đã nêu
ở trên. Điều này làm chức năng quản lý chồng chéo nhau, gây ảnh hưởng đến
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
32
quản lý về lễ hội của các cơ quan cấp dưới. Chẳng hạn như trong Quy chế tổ
chức lễ hội có quy định các lễ hội phải có sự xin phép của UBND cấp tỉnh như:
lễ hội được tổ chức lần đầu; lễ hội lần đầu được khôi phục sau nhiều năm gián
đoạn; lễ hội tổ chức định kỳ nhưng có thay đổi nội dung, thời gian, địa điểm so
với truyền thống; lễ hội du nhập từ nước ngoài vào do người nước ngoài hoặc
người Việt Nam tổ chức; những lễ hội không phải là lễ hội Đền Hùng ( Phú
Thọ), lễ hội Chùa Hương ( Hà Tây ), lễ hội Phủ Dầy ( Nam Định ), lễ hội Xuân
núi Bà Đen ( Tây Ninh ), lễ hội Bà Chúa Xứ núi Sam ( An Giang ); lễ hội tôn
giáo vượt ra ngoài khuôn viên cơ sở thờ tự hoặc trong khuôn viên cơ sở thờ tự
nhưng chưa đăng ký tổ chức hàng năm theo quy định của pháp luật. Nhưng quy
chế hoạt động văn hoá và kinh doanh dịch vụ văn hoá công cộng lại không quy
định những lễ hội không phải là lễ hội Đền Hùng, lễ hội Chùa Hương, lễ hội Phủ
Dầy, lễ hội Xuân núi Bà Đen,…; lễ hội tôn giáo vượt ra ngoài khuôn viên cơ sở
thờ tự hoặc trong cơ sở thờ tự nhưng chưa đăng ký tổ chức thường xuyên theo
quy định của pháp luật phải có sự xin phép của UBND cấp Tỉnh. Sự khác biệt
trong quy định của các văn bản điều chỉnh lễ hội dẫn đến hiện tượng không đồng
nhất trong tổ chức thực hiện ở cấp dưới.
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
33
1.4.2 Hệ thống quản lý về lễ hội ở nƣớc ta
a. Sơ đồ hệ thống quản lý Nhà nước về văn hoá - lễ hội
Trong đó: Chỉ đạo, điều hành trực tiếp
Chỉ đạo về mặt chuyên môn
CHÍNH PHỦ
BỘ VĂN HOÁ THỂ
THAO VÀ DU
LỊCH
UBND CẤP
TỈNH
SỞ VĂN HOÁ -
THỂ THAO VÀ DU
LICH
UBND CẤP
HUYỆN
PHÒNG VĂN HOÁ
THÔNG TIN
UBND CẤP
XÃ
CÁN BỘ VĂN
HOÁ XÃ
QUỐC HỘI
HĐND
TỈNH
HĐND
HUYỆN
HĐND XÃ
Lễ hội cấp
Nhà nước
Lễ hội cấp
Tỉnh
Lễ hội cấp
huyện
Lễ hội cấp
xã
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
34
b. Chức năng quản lý cụ thể:
Quốc Hội là cơ quan quyền lực cao nhất, là cơ quan có quyền ban hành
luật di sản văn hoá là văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất để quản lý Nhà nước
đối với văn hoá nói chung và văn hoá truyền thống nói riêng trong đó có lễ hội
truyền thống. Đồng thời Quốc Hội cũng thực hiện chức năng giám sát của mình
đối với việc tổ chức và quản lý lễ hội trong phạm vi cả nước qua các đại biểu
Quốc Hội cũng như các cơ quan chuyên trách của Quốc Hội, từ đó Quốc Hội có
yêu cầu các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền thực hiện việc tổ chức và
quản lý lễ hội truyền thống theo đúng quy định của pháp luật.
Chính Phủ là cơ quan quản lý hành chính cao nhất của nước ta, đối với
lĩnh vực quản lý lễ hội Chính Phủ là cơ quan ban hành các chủ trương, các chính
sách và văn bản chỉ đạo nói chung về việc quản lý đối với lễ hội. Các chính sách
này của Chính Phủ sẽ là cơ sở để các cơ quan chuyên môn quản lý về lễ hội
truyên thống cấp dưới cụ thể hoá thành các văn bản cụ thể hơn. Như vậy Chính
Phủ ở đây có chức năng định hướng về mặt chỉ đạo cũng như hỗ trợ về mặt
chính sách đối với việc quản lý lễ hội truyền thống của các cơ quan chuyên môn
cấp dưới.
Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch là cơ quan chuyên môn của Chính Phủ
chịu trách nhiệm quản lý Nhà nước về lễ hội nói chung và lễ hội truyền thống
nói riêng. Bộ là cơ quan tham mưu cho Chính Phủ ban hành các chính sách quản
lý đối với lễ hội, trình Chính Phủ phê duyệt các chủ trương cũng như các chính
sách lớn đối với lễ hội. Đồng thời, Bộ là cơ quan quản lý Nhà nước về văn hoá
trong đó có lễ hội truyền thống. Trong đó chức năng quản lý lễ hôi của Bộ Văn
hoá Thể thao và Du lịch được thể hiện như sau: Bộ ban hành Quy chế tổ chức và
quản lý lễ hội làm cơ sở pháp lý để thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về lễ
hội thống nhất từ Trung ương tới cơ sở; Phân công chức năng cho cấp dưới thực
hiện chức năng quản lý đối với lễ hội, tức phân cấp quản lý, chẳng hạn như chức
năng quản lý lễ hội của Bộ do Cục Văn hoá Thông tin cơ sở chịu trách nhiệm.
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
35
Còn các địa phương thực hiện việc quản lý đối với các lễ hội tuân theo Quy chế
tổ chức và quản lý lễ hội do Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch ban hành; Thực
hiện chức năng kiểm tra giám sát hoạt động quản lý nhà nước về lễ hội theo quy
định của Chính Phủ và Quy chế của Bộ đã ban hành, đồng thời xử phạt hành
chính đối với các hành vi vi phạm theo quy định tại Nghị định 56/2006/NĐ-CP
của Chính Phủ về xử phạt hành chính trong hoạt động văn hoá – thông tin ; Chỉ
đạo, điều hành các cơ quan quản lý cấp dưới như UBND cấp Tỉnh, Sở Văn hoá
Thể thao và Du Lịch về chuyên môn trong việc quản lý đối với lễ hội theo sự
phân cấp quản lý trong Quy chế tổ chức và quản lý lễ hội mà Bộ đã ban hành.
Hội đồng nhân dân các cấp có chức năng thông qua các chủ trương lớn
về việc duy trì và phát triển các lễ hội truyền thống tại địa phương, thông qua
các chương trình, các hoạt động cụ thể của UBND cùng cấp về việc tổ chức và
quản lý lễ hội tại địa phương. Đồng thời thực hiện chức năng giám sát đối với
hoạt động tổ chức và quản lý lễ hội của các cơ quan quản lý cùng cấp là UBND
và các cơ quan chuyên môn quản lý Nhà nước về văn hoá của UBND cùng cấp.
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh là cơ quan quản lý hành chính tại địa phương,
chịu trách nhiệm chỉ đạo điều hành, quản lý Nhà nước đối với lễ hội truyền
thống trong địa bàn tỉnh. Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh ban hành các chính sách đối
với việc tổ chức và quản lý lễ hội trong địa bàn toàn tỉnh trên cơ sở chính sách
chung của cơ quan quản lý cấp trên là Chính Phủ và Bộ Văn hoá Thể thao và Du
Lịch, đồng thời phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương. Bên cạnh đó,
UBND cấp Tỉnh thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với các lễ hội theo
sự phân công trong quy chế của Bộ Văn hoá – Thông tin ( cũ ) đã ban hành, cụ
thể là cấp phép tổ chức lễ hội theo thẩm quyền và tiến hành kiểm tra giám sát và
xử lý kịp thời các hành vi vi phạm trong tổ chức và quản lý lễ hội theo Nghị
định số 56/2006/NĐ-CP của Chính Phủ về xử phạt hành chính trong hoạt động
văn hoá – thông tin.
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
36
Sở Văn hoá – Thông tin nay là Sở Văn hoá Thể thao và Du lịch là cơ
quan chuyên môn của UBND cấp tỉnh, thực hiện chức năng tham mưu cho
UBND ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quản lý về lễ hội, các chính
sách đối với việc tổ chức lễ hội, thực hiện chức năng xử lý vi phạm theo thẩm
quyền và chỉ đạo về mặt chuyên môn cho các cơ quan cấp dưới về quản lý lễ
hội. Đồng thời là cơ quan thực hiện sự quản lý ngành của Bộ Văn hoá, Thể thao
và Du lịch.
Uỷ ban nhân dân cấp Huyện là cơ quan quản lý hành chính trên địa bàn
huyện, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với lễ hội theo sự phân công,
phân cấp trong Quy chế tổ chức và quản lý lễ hội.
Phòng Văn hoá – Thông tin là cơ quan chuyên môn của UBND cấp
Huyện thực hiện chức năng tham mưu cho Uỷ ban Nhân dân huyện ban hành
chính sách cũng như các văn bản chỉ đạo điều hành về quản lý lễ hội; thực hiện
chức năng thẩm định hồ sơ xin cấp phép tổ chức lễ hội theo thẩm quyền để
UBND cấp huyện cấp phép tổ chức lễ hội trong phạm vi quản lý lễ hội đã được
phân cấp; hướng dẫn nghiệp vụ quản lý lễ hội đối với UBND cấp xã và cán bộ
văn hoá của xã;
Uỷ ban Nhân dân cấp xã: là cơ quan hành chính ở cơ sở, thực hiện chức
năng quản lý lễ hội theo sự phân công của Quy chế Tổ chức và quản lý lễ hội,
giúp UBND cấp xã thực hiện chức năng quản lý lễ hội là cán bộ văn hoá xã.
Như vậy, quản lý Nhà nước về lễ hội truyền thống nói riêng và lễ hội nói
chung được phân công chức năng nhiệm vụ nhất định. Trong đó việc ban hành
luật để điều chỉnh việc quản lý đối với các lĩnh vực văn hóa trong đó có lễ hội
thuộc về Quốc Hội, việc ban hành các chính sách quản lý nói chung thuộc về
Chính Phủ, thực hiện chức năng quản lý về mặt chuyên môn, hướng dẫn chuyên
môn thuộc chức năng của các cơ quan chuyên môn quản lý về văn hoá từ trung
ương tới địa phương theo thẩm quyền, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước cụ
thể là ban hành các văn bản chỉ đạo, điều hành là chức năng của các cơ quan
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
37
hành chính có thẩm quyền chung ở địa phương là Uỷ ban nhân dân các cấp. Còn
HĐND các cấp là cơ quan thông qua các chủ trương, chính sách của UBND
cùng cấp về tổ chức và quản lý lễ hội truyền thống. Việc phân công chức năng
quản lý lễ hội cụ thể giữa các cơ quan là cơ sở cho hoạt động quản lý diễn ra
đúng mục tiêu và tránh hiện tượng chồng chéo trong quản lý.
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
38
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI VIỆC GIỮ GÌN VÀ
PHÁT TRIỂN LỄ HỘI ĐÌNH LÀNG CỦA DÂN TỘC CAO LAN Ở
TUYÊN QUANG
2. 1 Lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang
2.1.1 Văn hoá các dân tộc ở Tuyên Quang trong bối cảnh kinh tế xã hội hiện
nay
Tuyên Quang là một tỉnh miền núi phía Bắc, trong đó có 22 dân tộc anh
em cùng sinh sống. Mỗi một dân tộc có một bản sắc văn hoá riêng, tạo nên một
nét văn hoá độc đáo, đa dạng và phong phú của Tuyên Quang. Điều kiện lịch sử
cũng như truyền thống tương thân tương ái, các dân tộc sống hoà thuận với
nhau, tạo cơ hội cho văn hoá được giao thoa làm nên nền văn hoá đa dạng mà lại
thống nhất. Có thể nói văn hoá ở Tuyên Quang là một nền văn hóa đa sắc màu.
Mỗi dân tộc có màu sắc văn hoá riêng. Từ những làn điệu dân ca truyền thống
như hát then của dân tộc Tày, hát Soọng cô của dân tộc Sán Dìu, hát Sình Ca
của dân tộc Cao Lan; các điệu múa dân vũ độc đáo như múa Chim Gâu, Múa
Xúc tép của dân tộc Cao Lan đến các lễ hội truyền thống hết sức hấp dẫn và độc
đáo như Lễ hội Lồng Tồng của dân tộc Tày, Lễ hội Đình Làng của dân tộc Cao
Lan, Lễ hội Cấp Sắc của dân tộc Dao, Lễ hội Đền Hạ của dân tộc Kinh…tạo nên
một diện mạo văn hoá đa sắc tộc hết sức độc đáo tại Tuyên Quang. Trong bối
cảnh kinh tế xã hội hiện nay, cùng với chủ trương xây dựng và phát triển nền
văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong đó có bảo tồn và phát
huy các giá trị văn hoá của đồng bào dân tộc thiểu số những năm gần đây nhiều
hoạt động nhằm khôi phục lại các giá trị văn hoá truyền thống của các dân tộc
trên điạ bàn tỉnh được tiến hành rộng rãi. Nhất là sau khi Chủ tịch UBND ký
quyêt định số 46/2006/QĐ-UBND ngày 31/10/2006 về Phê duyệt Dự án bảo tồn
và phát huy giá trị di sản văn hóa các dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang, thì nhiều
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
39
giá trị văn hoá của các dân tộc được khôi phục và phát triển như các lễ hội, các
làn điệu dân ca dân vũ, các câu truyện cổ, trang phục truyền thống… Như vậy
xu hướng phát triển của văn hoá các dân tộc ở Tuyên Quang hiện nay là khôi
phục lại, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống kết hợp với nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn.
2.1.2 Văn hoá dân tộc Cao Lan
a. Văn hoá dân tộc Cao Lan
Lịch sử nghiên cứu tộc người cho thấy đã có nhiều ý kiến khác nhau về
tộc người Cao Lan. Có ý kiến cho rằng người Cao Lan có nguồn gốc với các
nhóm Mán ( Dao ) hay thuộc khối các tộc người nhóm ngôn ngữ Tày – Thái. Có
ý kiến lại cho rằng tộc người Cao Lan có nguồn gốc riêng, lịch sử riêng hoặc lại
xếp Cao Lan – Sán Chí vào một dân tộc ( Sán Chay )…Nhưng đến nay các nhà
nghiên cứu đều đi đến kết luận tộc người Cao Lan thuộc nhóm ngôn ngữ Tày –
Thái là cộng đồng người riêng biệt có lịch sử phát triển riêng mang đặc điểm tộc
người của mình.
Ở Tuyên Quang, người Cao Lan có mặt khoảng trên dưới 200 năm nay.
Trải qua quá trình hình thành và phát triển, tộc người Cao Lan đã định hình cho
mình cốt cách, diện mạo văn hoá riêng. Và cũng do quá trình di cư lâu dài và có
sự tiếp xúc giao thoa văn hoá, tộc người Cao Lan đã tiếp thu có chọn lọc các yếu
tố văn hoá của dân tộc khác, để bổ sung làm phong phú thêm văn hoá dân tộc
mình.
Vốn là dân tộc không có thói quen sống du canh du cư, nên tộc người Cao
Lan đã sớm ổn định đời sống, họ lập thành từng làng ở những vùng núi thấp
tương đối bằng phẳng, cạnh nguồn nước. Địa bàn cư trú của người Cao Lan khá
tập trung , họ sống quần tụ với nhau thành từng xóm, từng làng, mỗi làng cố kêt
với nhau bằng quan hệ anh em thân tộc và nhiều dòng họ. Do sống tập trung
thuần nhất nên tộc người Cao Lan ở Tuyên Quang đã tạo nên nền văn hoá bền
vững mang những đặc điểm riêng của tộc người Cao Lan. Thể hiện trong kho
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
40
tàng văn hoá dân gian truyền thống vật thể, phi vật thể đã được cộng đồng người
Cao Lan lưu giữ và phát triển qua nhiều giai đoạn biến động của lịch sử nhưng
vẫn tồn tại lâu bền cho tới ngày nay trong cộng đồng người Cao Lan ở Tuyên
Quang.
Về văn hoá vật chất, tộc người Cao Lan có ngôi nhà sàn cổ truyền mang
những nét độc đáo trong sinh hoạt của các gia đình người Cao Lan, có trang
phục truyền thống gồm cả trang phục phụ nữ và nam giới đều rất độc đáo mang
tính chất cổ truyền riêng biệt của tộc người. Về trang phục thường ngày, phụ nữ
thường mặc váy áo, có khăn quấn đầu, có yếm, có thắt lưng, vòng cổ, xà tích,
vòng tay, nhẫn, trâm cài đầu, xà cạp…; còn nam giời thì trang phụ đơn giản hơn,
áo mặc của nam giới là áo loại năm thân cài cúc bên cạnh,có màu nâu; và quần
của nam giới gần giống quần bà ba của người Kinh. Ngoài trang phục thường
ngày còn có trang phục riêng trong đám cưới, trang phục tang ma – cúng lễ và
trang phục trong ngày lễ tết, hội hè…
Về văn hoá tinh thần, cộng đồng người Cao Lan có hệ thống tín ngưỡng
và phong tục tập quán rất độc đáo, thể hiện bản sắc riêng biệt của cộng đồng
người. Trong hệ thống phong tục tập quán cũng như tín ngưỡng đó có phong tục
trong đám cưới, trong ma chay cúng lễ, đặc biệt là có lễ hội đình làng là nét sinh
hoạt văn hoá cộng đồng của dân tộc Cao Lan. Bên cạnh đó, nói đến văn hoá tinh
thần của đồng bào dân tộc Cao Lan còn phải kể đến văn nghệ dân gian truyền
thống. Văn nghệ dân gian truyền thống của dân tộc Cao Lan hết sức đa dạng và
phong phú. Cũng giống như nhiều dân tộc thiểu số khác dân tộc Cao Lan cũng
có các nhạc cụ phục vụ cho sinh hoạt văn nghệ của cộng đồng như: trống,
chiêng, chập xeng, thanh la, kèn tổ sâu, nhị, sáo, trống tang sành…Hơn nữa,
trong sinh hoạt văn hoá còn có các điệu múa đặc sắc như múa phát đường, múa
giờ chia ly, múa chim gâu, múa xúc tép, múa đâm cá, múa thắp đèn, múa trống,
múa Tam Thanh…Về dân ca, có hát ru và ca dao độc đáo, đặc biệt là làn điệu
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
41
hát Sình Ca, một hình thức hát đối đáp giữa nam và nữ độc đáo trong các lễ hội,
các ngày vui như đám cưới, lễ tết…
Như vậy, dân tộc Cao Lan có một nét văn hoá độc đáo, phong phú và đa
dạng tạo nên một bản sắc riêng của cộng động tộc người mình. Cùng với các dân
tộc anh em khác, dân tộc Cao Lan đã và đang tạo nên một bản sắc văn hoá riêng
phục vụ nhu cầu phát triển của tộc người nói riêng và của cộng đồng các dân tộc
anh em trong tỉnh nói chung.
b. Ý nghĩa của văn hoá dân tộc Cao Lan
Đối với đồng bào dân tộc Cao Lan
Đối với đồng bào dân tộc Cao Lan, có được một nét văn hoá riêng cho
mình đã khẳng định tính riêng biệt của mình trong cộng đồng các dân tộc ở
Tuyên Quang, đồng thời khẳng định quá trình hình thành và phát triển của mình
trong tiến trình chung của cộng đồng. Đối với bản thân cộng đồng dân tộc Cao
Lan thì văn hoá chính là nền tảng tinh thần của mình. Những nét văn hoá của
dân tộc Cao Lan đã ăn sâu trong tâm hồn của họ, đó là nguồn nuôi dưỡng tinh
thần của họ để tồn tại và phát triển. Từ nếp ăn, nếp sống, đi lại đến nếp nghĩ nếp
làm đếu in đậm dấu ấn của văn hoá cộng đồng dân tộc Cao Lan. Có thể nói, bên
cạnh những giá trị vật chất thì những giá trị tinh thấn đối với người Cao Lan là
cả một nguồn sống. Những giá trị về văn hoá như phong tục tập quán, những tư
tưởng, tín ngưỡng, nếp sinh hoạt đều in đậm vào trong mỗi con người. Những
giá trị đó giống như một bộ phận không thể thiếu được đối với cộng đồng dân
tộc Cao Lan. Do đó, trong quá trình phát triển thì việc bảo tồn và phát triển các
giá trị văn hoá truyền thống của đồng bào dân tộc Cao Lan cũng chính là việc
nuôi dưỡng nền tảng tinh thần cho họ phát triển về mọi mặt.
Văn hoá dân tộc Cao Lan đối với văn hoá các dân tộc ở Tuyên Quang.
Ở Tuyên Quang dân tộc Cao Lan là một trong những dân tộc thiểu số có
số lượng dân cư đông nhất, xếp thứ ba toàn tỉnh sau dân tộc Tày và Nùng. Cùng
với các dân tộc thiểu số khác thì văn hoá của dân tộc Cao Lan đã góp phần làm
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
42
phong phú thêm nền văn hoá các dân tộc tỉnh nhà. Hơn nữa, là một dân tộc có số
lượng dân cư khá lớn cộng với đặc điểm sống xen kẽ với các dân tộc thiểu số
khác nên văn hoá của dân tộc Cao Lan có ảnh hưởng tới văn hoá chung của các
dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh. Nếu những giá trị văn hoá truyền thống của
đồng bào dân tộc Cao Lan được bảo tồn và phát huy tốt sẽ giúp các dân tộc khác
tiếp thu và học tập, từ đó các dân tộc khác cũng ý thức hơn về văn hoá của dân
tộc mình. Tuy là một dân tộc riêng biệt, có văn hoá của riêng mình nhưng lối
sống đoàn kết, hoà thuận với các dân tộc anh em khác là điều kiện để giao thoa
văn hoá, góp phần bổ sung văn hoá cho nhau, tạo nên một nét văn hoá đa dạng
trong thống nhất với các nét văn hoá của các dân tộc khác. Như vậy văn hoá dân
tộc Cao Lan là một bộ phận của văn hoá các dân tộc Tỉnh Tuyên Quang, là một
bộ phận tạo nên một nét văn hoá đa dân tộc ở Tuyên Quang.
Ý nghĩa đối với phát triển kinh tế - xã hội ở Tuyên Quang.
Văn hoá của đồng bào dân tộc Cao Lan không chỉ có ý nghĩa đối với sự
nghiệp phát triển văn hoá mà còn có ỹ nghĩa to lớn đối với phát triển kinh tế - xã
hội. Những giá trị văn hoá truyền thống đó còn có tiềm năng khai thác thế mạnh
về phát triển du lịch văn hoá tại địa phương. Cùng với thế mạnh tổ chức các
chương trình dân ca dân vũ của dân tộc Cao Lan, kết hợp với việc tổ chức lễ hội
thu hút khách thập phương tham gia là một hoạt động quảng bá du lịch hữu hiệu
tại địa phương. Việc gắn kết phát triển văn hoá truyền thống của dân tộc Cao
Lan với phát triển kinh tế đặc biệt là du lịch văn hoá truyền thống là một hoạt
động phát triển kinh tế tại địa phương. Do đó văn hoá dân tộc Cao Lan còn có ý
nghĩa to lớn đối với phát triển kinh tế trên địa bàn tỉnh.
2.1.3 Lễ hội Đình làng – nét sinh hoạt văn hoá truyền thống của dân tộc Cao
Lan
a. Đôi nét về Đình làng - thiết chế văn hoá của đồng bào dân tộc Cao Lan
Đình làng là một thiết chế văn hoá của đồng bào dân tộc Cao Lan, nó trở
thành một thực thể gắn gắn kết với cuộc sống cộng đồng. Đình làng là nơi diễn
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
43
ra các hoạt động sinh hoạt cộng đồng chung của người dân trong làng như các
cuộc họp những vấn đề chung của làng, là nơi thờ tự Thành Hoàng làng - người
có công khai phá và xây dựng nên ngôi làng. Đình làng thường được xây dựng
trên khoảng không gian rộng rãi, bên dưới các cây đa hoặc cây cổ thụ lớn, vì
theo người Cao Lan thì xây dựng dưới các cây cổ thụ sẽ có các vị thần che chở
ngôi đình. Các ngôi đình thường được bố trí phong thuỷ, chọn hướng theo các
nguyên tắc nhất định. Thông thường đình làng được xây dựng theo hướng, lưng
tựa về phía núi, trước mặt là một khoảng sân rộng phục vụ cho hoạt động của
các lễ hội như tung còn hay các trò chơi dân gian…Ngôi đình làng được người
Cao Lan rất coi trọng vì họ coi ngôi đình là nơi thiêng liêng, mọi người đều tự
giác tôn trọng và bảo vệ ngôi đình, khi chưa được sự cho phép của ông mo tức
người được dân làng bầu làm chủ cai quản đình thì không được thực hiện bất kỳ
hoạt động nào tại đình làng. Các hoạt động được phép diễn ra tại đình làng là
những buổi họp các vấn đề chung của làng và việc cúng tễ trong các dịp lễ hội.
Ngôi đình làng là nơi sinh hoạt tín ngưỡng chung của đồng bào dân tộc Cao Lan.
Nó trở thành một thực thể của cộng đồng được cộng đồng bảo vệ, giữ gìn và tôn
tạo cùng với quá trình phát triển của người Cao Lan tại Tuyên Quang.
b. Lễ hội Đình làng của dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang
Lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan thường được tổ chức vào tháng
Giêng Âm lịch, thông thường là vào hai ngày 9-10, tháng Giêng hàng năm. Đây
là lễ hội lớn nhất của người Cao Lan ở Tuyên Quang. Lễ hội là dịp để cộng đồng
người Cao Lan gặp gỡ nhau, cùng nhau ôn lại lịch sử dân tộc, cầu chúc cho cuộc
sống được thuận lợi, mùa màng tốt tươi và đặc biệt là tạ ơn những người đã có
công bảo trợ dân làng làm ăn yên ổn. Lễ hội Đình làng của dân tộc Cao Lan
thường gồm hai phần Lễ và Hội. Phần lễ thường được tổ chức từ đêm hôm trước
đến nửa ngày hôm sau, còn lại nửa ngày và một đêm dành cho phần Hội.
Phần Lễ.
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
44
Phần lễ là phần cúng tế với các nghi thức cũng tế trang trọng thể hiện lòng
biết ơn của dân làng đối với Thành Hoàng làng và cầu cho cuộc sống của dân
làng được bình yên, ấm no hạnh phúc và mùa màng bội thu. Phần Lễ này do các
vị cao niên biết cúng tế chủ trì. Thông thường thì phần Lễ này được tiến hành
bởi 7 vị bô lão: người chủ tế mặc áo đỏ, người xướng tế, người đọc văn tế và 4
chấp sự, những người này đều mặc áo xanh. Phần lễ được tiến hành qua các nghi
thức dâng lễ vật, thắp hương, đọc văn tế lễ, phát lộc…Tất cả các nghi lễ đều
trang nghiêm và long trọng. Phần lễ là phần thể hiện đạo lý uống nước nhớ
nguồn của cộng đồng dân tộc đối với với có công với làng bản. Tham gia lễ hội
các gia đình đều chuẩn bị những đồ lễ như mâm sôi, thịt gà, lợn…để dâng lên vị
thần Hoàng Làng để tỏ lòng biết ơn và cầu mong một năm mới ăn nên làm ra.
Phần Hội.
Phần Hội trong lễ hội là hoạt động thu hút được sự tham gia của nhiều
người nhất, cả người già đến trẻ em đều tham gia phần hội này. Phần Hội được
tổ chức với nhiều trò chơi dân gian hấp dẫn như tung còn, kéo co, đẩy
gậy,…Trong đó tung còn là một hoạt động hấp dẫn nhất thu hút nhiều thanh
niên nam nữ tham gia. Hội tung còn được tổ chức trên một bãi đất bằng phẳng,
rộng rãi, chính giữa được dựng lên một cây nêu cao làm bằng cây tre hay nứa,
chính giữa cây nêu có khoanh phần ngọn thành một hình tròn dán giấy hình âm
ương thể hiện cho trời và đất. Quả còn được chuẩn bị trước đó có đường kính cỡ
10cmx10cm, được cấu tạo thành 5 màu, 5 góc, 5 dây tượng trưng cho ngũ hành (
Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ ), bên trong quả còn được đựng gạo hay thóc. Hội
còn hay còn gọi là hội thi tung còn diễn ra ngay từ khi phần Lễ trong đình còn
chưa kết thúc. Ở bãi đất rộng trước đình các nam nữ thanh niên thi nhau tung
còn. Quy định của hội thi tung còn là làm sao tung được quả còn trúng vòng tròn
trên ngọn cây nêu. Ai tung trúng sẽ có phần thưởng của làng gồm một mâm lễ
và được tôn vinh về mặt tinh thần. Theo quan niệm của đồng bào dân tộc Cao
Lan thì hội tung còn là dịp thể hiện sức mạnh của các thế hệ dân tộc mình. Ai
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
45
tung được trúng vòng tròn trên cây nêu sẽ là người may mắn và khoẻ mạnh
trong năm, và cả làng năm đó sẽ gặp may mắn, ăn nên làm ra. Ngược lại khi
vòng trong trên ngọn cây nêu mà không được ném thủng thì dân làng năm đó sẽ
không gặp may mắn, trong hội tung còn có sự tham gia cổ vũ của những người
cao tuổi trong làng trong không khí trống hội tưng bừng. Như vậy hội còn không
chỉ mang ý nghĩa giải trí, rèn luyện sức khoẻ mà còn mang ý nghĩa về mặt tín
ngưỡng nữa.
Sau khi Hội còn kết thúc tức là hình tròn trên cây nêu bị ném thủng, đại
diện các bô lão đã trao tặng phần thưởng cho người ném thủng hình tròn của cây
nêu mọi người tản ra tham gia các trò chơi dân gian truyền thống. Có nhiều trò
chơi dân gian: Trò “ Chọi gà ” dành cho thanh niên nam, trò kéo co, chơi quay,
đánh đu…Bên cạnh các trò chơi dân gian đó, một hoạt động văn hoá mang nét
đặ trưng của người Cao Lan không thể thiếu trong lễ hội là sinh hoạt văn nghệ,
bao gồm các làn điệu dân ca, và các điệu múa độc đáo. Đặc biệt Hát Sình ca, là
một sinh hoạt văn nghệ đặc trưng cho dân ca của dân tộc Cao Lan.
Hát Sình ca là lối hát đối đáp giữa thanh niên nam nữ, được sáng tác theo
thể thơ tứ tuyệt, ghi chép bằng chữ Hán. Nó là vốn văn học dân gian phong phú.
Theo truyền thuyết của người Cao Lan, tác giả của những bài hát Sình Ca là
nàng Lưu Ba ( Lầu Slam ) – cô gái đẹp đã đặt lời ca cho các điệu hát ( 13 tập) và
nàng đã hát suốt 13 ngày đêm không ăn không ngủ rồi chết. Người đời sau
mượn lời ca của nàng để sinh hoạt văn nghệ, thể hiện tâm tình với con người và
cuộc sống. Nội dung hát Sình Ca rất phong phú có đề cập đến mọi lĩnh vực của
cuộc sống. Trong lễ hội đình làng truyền thống, hát Sình Ca được chia thành
nhiều tốp hát, thường là một bên nam, một bên nữ, người ở thôn này hát với
người thôn kia. Những người già thì hát với nhau để so tài cao thấp còn thanh
niên thì hát để làm quen nhau, để giao duyên tỏ tình. Từ những cuộc hát này mà
nhiều nam nữ thanh niên đã trở thành vợ chồng của nhau. Trong lễ hội, hát Sình
Ca càng trở nên hấp dẫn và thu hút được đông đảo nam nữ thanh niên tham gia
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
46
khi có thêm cả phần dân vũ phụ hoạ. Các điệu múa độc đáo của dân tộc Cao Lan
như múa Chim Gâu, Múa Xúc Tép, Múa Phát Đường… diễn ra đồng thời với
các cuộc hát đối đáp Sình Ca càng làm không khí lễ hội thêm vui vẻ và hấp dẫn.
Các điệu múa, các điệu hát hoà cùng với nhịp trống hội, các nhạc cụ dân gian
của dân tộc như trống đất, kèn ống nứa, thanh la, chập xeng, trống tang sành, các
loại kèn,… càng làm cho không khí lễ hội thêm náo nức, hồ hởi thêm bội phần.
Như vậy hát Sình Ca trong lễ hội của người Cao Lan chủ yếu dành cho
nam nữ thanh niên làm quen, tìm hiểu nhau và có thể trở thành vợ chồng. Hát
Sình Ca tuy rằng có nét mộc mạc nhưng vẫn hội tụ các giá trị văn hoá đạo đức
đặc trưng của người Cao Lan: Kính già yêu trẻ, trung thực, không làm điều ác,
sống tôn trọng, hài hoà với thiên nhiên, với con người, biết sống lạc quan, yêu
cuộc sống vượt lên khó khăn gian khổ để tồn tại và phát triển. Sình Ca thực sự là
một di sản quý báu cần giữ gìn và phát huy trong các lễ hội của dân tộc Cao
Lan.
Có thể nói, lễ hội Đình làng của dân tộc Cao Lan là một nét sinh hoạt văn
hoá cộng đồng đặc sắc chứa đựng trong đó khá đầy đủ những yếu tố phản ánh về
lịch sử cội nguồn, về diện mạo văn hoá tinh thần của người Cao Lan. Lễ hội là
môi trường lưu giữ một cách sống động các giá trị văn hoá dân tộc truyền thống,
là kho tư liệu quý báu giúp cho việc nghiên cứu và phát triển nền văn hoá phục
vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của người Cao Lan nói
riêng và của các dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang nói chung.
2.2 Hiện trạng quản lý văn hoá - lễ hội truyền thống ở Tuyên Quang
2.2.1 Chính sách của Tuyên Quang đối với việc quản lý văn hoá truyền
thống - lễ hội ở Tuyên Quang.
Lễ hội đình làng của đồng bào dân tộc Cao Lan là một di sản văn hoá phi
vật thể của cộng đồng người Cao Lan nói chung và của các dân tộc Tỉnh Tuyên
Quang nói chung. Do vậy vấn đề quản lý Nhà nước nhằm giữ gìn và phát huy lễ
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
47
hội này là một nhiệm vụ quan trọng trong việc bảo tồn và phát triển các di sản
văn hoá các dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về bảo tồn và phát huy các
giá trị văn hoá truyền thống cũng như các văn bản quản lý Nhà nước của các cơ
quan cấp trên, đặc biệt trong vấn đề quản lý Nhà nước đối với các lễ hội truyền
thống, Tuyên Quang cũng đã có các chính sách về việc tổ chức và quản lý lễ hội
truyền thống theo quy định.
Các lễ hội truyền thống là một di sản văn hoá phi vật thể cần được bảo tồn
và phát triển. Đây cũng là một nội dung được quy định trong Dự án bảo tồn và
phát huy giá trị di sản văn hoá các dân tộc thiểu số tỉnh Tuyên Quang của Sở
Văn hoá – Thông tin đã được Chủ tịch UBND Tỉnh phê duyệt theo Quyết định
số 467/QĐ-UBND ngày 31/10/2006. Trong Dự án có nêu: “ Tổng điều tra văn
hoá phi vật thể của 7 dân tộc…để đánh giá, kiểm kê, lập hồ sơ khoa học góp
phần nghiên cứu bản sắc văn hoá các dân tộc Tỉnh Tuyên Quang” trong đó co
văn hoá phi vật thể của dân tộc Cao Lan. Bên cạnh đó Dự án còn chủ trương
“Bảo tồn làng văn hoá gắn với du lịch” trong đó có nội dung “ baot tồn làng
văn hoá thôn Giếng Tanh, xã Kim Phú, huyện Yên Sơn ( dân tộc Cao Lan ) và
“phục hồi và duy trì các sinh hoạt văn hóa truyền thống: lễ hội, nhạc cụ, trang
phục, dân ca, dân vũ…” của các dân tộc trên địa bàn tỉnh. Như vậy việc duy trì
và phát triển các lễ hội văn hoá truyền thống của các dân tộc thiểu số Tỉnh
Tuyên Quang trong đó có lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan đã được xây
dựng thành chương trình phát triển cụ thể và có lộ trình nhất định.
Bên cạnh các chủ trương và chính sách đó, việc quản lý Nhà nước đối với
các lễ hội truyền thống ở Tuyên Quang trong đó có lễ hội đình làng của dân tộc
Cao Lan cũng được quan tâm chặt chẽ. Với mục đích quản lý Nhà nước với lễ
hội truyền thống để duy trì và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống lễ hội
của các dân tộc thiểu số, ngày 28 tháng 5 năm 2007, Uỷ ban Nhân dân Tỉnh
Tuyên Quang đã ban hành Quyết định số 14/2007/QĐ-UBND về việc ban hành
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
48
Quy định thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội.
Trong quy định về tổ chức lễ hội có quy định “Khi tổ chức lễ hội trên địa bàn
tỉnh các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân phải thực hiện đúng quy định của
pháp luật về di sản văn hoá và Quy chế tổ chức lễ hội do Bộ trưởng Bộ Văn hoa
– Thông tin ban hành”. Bên cạnh đó văn bản còn quy định cụ thể về yêu cầu khi
tổ chức lễ hội, về tổ chức và quản lý lễ hội, về hồ sơ xin cấp phép tổ chức lễ hội,
về quy định báo cáo việc tổ chức lễ hội của các cấp, về các hoạt động trong lễ
hội…Đây là văn bản mang tính chất chỉ đạo thực hiện tổ chức và quản lý lễ hội
trên địa tỉnh trên cơ sở các văn bản quản lý của cấp trên.
Có thể thấy rằng lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang
thuộc loại hình lễ hội tín ngưỡng độc đáo. Hiện nay, việc quản lý lễ hội đình
làng của dân tộc Cao Lan thưòng mang tính linh hoạt. Hầu hết các lễ hội đình
làng đều do các thôn bản của người Cao Lan tự đứng ra tổ chức, đáp ứng nhu
cầu sinh hoạt văn hoá của cộng đồng làng bản đó. Việc tổ chức và quản lý đối
với lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan tuân theo các quy định của Quy chế tổ
chức lễ hội do Bộ Văn hoá – Thông tin ban hành và Quy định về việc thực hiện
nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội do UBND tỉnh Tuyên
Quang ban hành. Do hầu hết các lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan đều là các
lễ hội mang tính chất làng bản, do các làng bản tự đứng ra tổ chức nên việc tổ
chức và quản lý lễ hội theo quy chế thì không phải xin phép và báo cáo với cơ
quan quản lý văn hoá. Tuy nhiên, có một số lễ hội đình làng được nâng thành lễ
hội cấp tỉnh, huyện, xã thì việc tổ chức và quản lý phải tuân theo đúng quy định
của Quy chế tổ chức lễ hội do Bộ Văn hoá – Thông tin ban hành và các quy định
khác của địa phương như lễ hội đình làng Giếng Tanh ( xã Kim Phú ), lễ hội
đình làng Minh Cầm ( xã Đội Bình ) là lễ hội cấp huyện, còn lễ hội đình làng
Song Lĩnh ( Xã Lưỡng Vượng ) là lễ hội cấp xã.
2.2.2 Các cơ quan quản lý Nhà nƣớc về lễ hội ở Tuyên Quang
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
49
Uỷ ban Nhân dân tỉnh là cơ quan hành chính Nhà nước tại địa phương,
thực hiện chức năng quản lý Nhà nước trên mọi lĩnh vực trên địa bàn toàn Tỉnh.
Uỷ ban Nhân dân Tỉnh Tuyên Quang thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về
văn hoá trong đó có lễ hội truyền thống theo sự phân cấp quản lý của các cơ
quan quản lý cấp trên là Chính Phủ và Bộ Văn hoá – Thể thao và Du lịch. Cụ thể
thực hiện các chức năng quản lý đối với lễ hội như:
- Ban hành các chính sách đối với tổ chức và quản lý lễ hội truyền thống
của địa phương trên cơ sở các chính sách của Chính Phủ và của Bộ Văn hoá -
Thể thao và Du lịch;
- Ban hành các văn bản chỉ đạo điều hành việc tổ chức và quản lý lễ hội
truyền thống theo quy định của pháp luật;
- Thực hiện quản lý Nhà nước đối với việc Tổ chức và quản lý lễ hội
truyền thống trên địa bàn Tỉnh theo sự phân cấp quản lý của Quy chế tổ chức và
quản lý lễ hội của Bộ Văn hoá – Thông tin ( nay là Bộ Văn hoá - Thể thao và Du
lịch ) ban hành. Cụ thể thực hiện việc quản lý và cấp phép tổ chức lễ hội đối với
các lễ hội tổ chức lần đầu, lễ hội lần đầu được khôi phục lại sau nhiều năm gián
đoạn, lễ hội được tổ chức định kỳ nhưng có thay đổi nội dung, thời gian, địa
điểm so với truyền thống;
- Tổ chức các lễ hội truyền thống có phạm vi cấp Tỉnh và Báo cáo với Bộ
Văn hoá – Thể Thao và Du lịch theo quy định của pháp luật;
Thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát và xử lý các hành vi vi phạm trong tổ
chức và quản lý lễ hội theo quy định của pháp luật.
Sở Văn hoá Thể thao và Du lịch là cơ quan chuyên môn của Uỷ ban
Nhân dân Tỉnh, thực hiện chức năng tham mưu cho UBND thực hiện chức năng
quản lý Nhà nước về văn hoá trong đó có lễ hội truyền thống và các chức năng
khác. Đối với quản lý Nhà nước về lễ hội truyền thống, Sở có chức năng cụ thể
như sau:
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
50
- Tham mưu cho UBND Tỉnh ban hành các chính sách đối với việc tổ
chức và Quản lý lễ hội truyền thống;
- Thực hiện chức năng thẩm định hồ sơ xin cấp phép tổ chức lễ hội đối
với các lễ hội thuộc thẩm quyền cấp phép của UBND Tỉnh;
- Chỉ đạo hướng dẫn về mặt chuyên môn cho các cơ quan quản lý cấp
dưới là UBND cấp huyện, Phòng Văn hoá – Thông tin của UBND huyện thực
hiện các chính sách và chức năng quản lý về lễ hội truyền thống theo quy định
của pháp luật;
- Thực hiện việc thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trong tổ chức và
quản lý lễ hội theo quy định của pháp luật;
Giúp Sở Văn hoá - Thể thao và Du lịch quản lý về lễ hội truyền thống có Trung
tâm văn hoá và Triển lãm Tỉnh chịu trách nhiệm tham mưu về các chương trình
văn hóa nghệ thuật trong lễ hội; có Thanh tra Sở chịu trách nhiệm kiểm tra hoạt
động tổ chức và quản lý lễ hội, phát hiện vi phạm và kiến nghị xử lý theo quy
định.
Uỷ ban Nhân dân cấp Huyện là cơ quan hành chính thực hiện chức năng
quản lý hành chính trên địa bàn huyện. Đối với quản lý nhà nước về lễ hội
truyền thống, Uỷ ban Nhân dân cấp huyện có chức năng như sau:
- Ban hành các chính sách, văn bản quản lý Nhà nước về lễ hội truyền
thống trên địa bàn huyện theo chủ trương chính sách của cấp trên;
- Thực hiện quản lý Nhà nước đối với lễ hội truyền thống do cấp xã tổ
chức theo quy định của pháp luật;
- Tổ chức lễ hội truyền thống cấp huyện theo quy định phân cấp quản lý;
- Thực hiện chức năng giám sát và xử lý vi phạm về tổ chức và quản lý lễ
hội theo quy định của pháp luật.
Phòng Văn hoá – Thông tin là cơ quan chuyên môn của Uỷ ban Nhân
dân Huyện, thực hiện chức năng tham mưu cho UBND Huyện quản lý Nhà nước
đối với văn hoá nói chung và lễ hội truyền thống nói riêng trên địa bàn huyện.
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
51
Chức năng của Phòng Văn hoá – Thông tin Huyện về tổ chức và quản lý lễ hội
như sau:
- Tham mưu cho UBND huyện ban hành các chính sách, các văn bản
quản lý Nhà nước đối với lễ hội truyền thống trên địa bàn huyện;
- Thực hiện việc thẩm định hồ sơ xin cấp phép tổ chức lễ hội cấp xã để
trình UBND quyết định cấp phép;
- Thực hiện chức năng chỉ đạo về chuyên môn đối với UBND cấp xã và
cán bộ văn hoá xã thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về lễ hội truyền thống
theo thẩm quyền;
- Thực hiện chức năng giám sát và xử lý vi phạm trong tổ chức và quản lý
lễ hội truyền thống theo quy định.
Giúp cho phòng văn hoá thông tin thực hiện chức năng về quản lý lễ hội theo
thẩm quyền có Trung tâm Văn hoá Huyện chịu trách nhiệm tổ chức các chương
trình trong lễ hội do UBND huyện tổ chức, tham mưu hướng dẫn tổ chức
chương trình cho các lễ hội do cấp xã tổ chức.
Uỷ ban Nhân dân cấp xã thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với
lễ hội truyền thống thông qua chức năng tổ chức các lễ hội cấp xã, giám sát các
lễ hội do thôn, bản tổ chức theo quy định pháp luật và thực hiện chức năng xử lý
vi phạm theo quy định.
Cán bộ văn hoá xã thực hiện chức năng tham mưu cho UBND xã thực
hiện các chức năng quản lý Nhà nước về lễ hội truyền thống theo thẩm quyền.
2.2.3 Cơ chế quản lý cộng đồng đối với lễ hội đình làng của dân tộc Cao
Lan.
a. Một số nét chung về cơ chế quản lý cộng đồng đối với lễ hội Đình làng của
dân tộc Cao Lan.
Lễ hội Đình làng của dân tộc Cao Lan được hình thành và phát triển cùng
với cộng đồng người Cao Lan. Do đó, việc tổ chức các lễ hội đình làng này hầu
hết là do cộng đồng các thôn, làng đứng ra tổ chức nhằm đáp ứng nhu cầu tâm
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
52
linh cũng như sinh hoạt văn hóa của dân làng. Hầu hết việc tổ chức lễ hội do các
bô lão, các vị cao niên có kinh nghiệm tổ chức trong đó có người đứng đầu cai
quản các công việc của lễ hội là ông mo đame nhiệm. Việc tham gia lễ hội và tổ
chức lễ hội như thế nào là do Hội đồng các vị cao niên trong làng họp bàn trước
khi tổ chức lễ hội. Dần dần các quy định chung của Hội đồng các vị cao niên đó
trở thành một tiền lệ cho việc tổ chức và quản lý các lễ hội đình làng. Các quy
định tập trung vào sự tham gia đóng góp cho tổ chức lễ hội của các hộ gia đình
trong làng, quy định về nghi thức và các chủ lễ trong đình, quy định về trật tự
đối với lễ hội…Các quy định này không có văn bản nào cụ thể, nhưng có sự kế
thừa qua các lần tổ chức và trở thành các quy định riêng của cộng đồng người
Cao Lan về tổ chức và quản lý lễ hội của mình. Các quy định này được mọi
người, mọi gia đình tham gia lễ hội tôn trọng và tuân thủ một cách tự giác và
đầy đủ.
b. Một số quy định cụ thể
Quy định đối với các hộ gia đình tham gia lễ hội.
Lễ hội Đình làng là một nét sinh hoạt truyền thống mang tính cộng đồng của
người Cao Lan ở Tuyên Quang. Đây là lễ hội mang tính đặc trưng cho văn
hoá của cộng đồng người Cao Lan. Lễ hội được người dân các làng bản của
người Cao Lan tổ chức dưới sự tham gia của cộng đồng. Nguồn vật chất cũng
như nguồn lực cho công tác tổ chức là do các hộ gia đình tham gia đóng góp
theo quy định chung của làng. Do đó, để tổ chức lễ hội thành công và theo đúng
mục tiêu thì các hộ gia đình tham gia hội đình làng phải tham gia đóng góp nhất
định. Cứ trước mỗi lễ hội thì các vị cao niên trong làng lại tập trung họp bàn về
kế hoạch tổ chức lễ hội, phân công công việc cho các hộ gia đình và họp bàn
thống nhất quy định tham gia đóng góp nguồn lực cho hội đình. Thông thường
có các quy định đã được hình thành từ lâu và trở thành các tiền lệ để thực hiện.
Các tiền lệ đó bao gồm việc mỗi hộ gia đình đóng góp xôi, thịt gà, rượu, đồ
cúng, tiền...cho việc cúng lễ trong đó có quy định cụ thể về số lượng, chất
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
53
lượng; đóng góp về các trang bị cho phần Hội như: các hộ gia đình đóng góp 5
quả còn khâu đẹp trong quả còn bắt buộc phải đựng gạo hoặc thóc, góp tre, gỗ
và các đồ dùng khác phục vụ lễ hội. Bên cạnh đó tuỳ vào những nội dung phát
sinh trong lễ hội khác với những kỳ hội trước mà có quy định các khoản đóng
góp khác theo quyết định của các vị bô lão trước khi lễ hội diễn ra. Ngoài ra để
đảm bảo lễ hội được tổ chức thành công thì trước khi diễn ra lễ hội Hội đồng các
bô lão cũng họp bàn quy định phân công công việc chuẩn bị cho từng nhóm hộ
gia đình. Trong đó bầu ra một Ban chuẩn bị các công việc cho lễ hội gọi là Cáp
gồm đại diện hai hộ gia đình phân theo các nhiệm kỳ. Nhiệm vụ của Cáp là
chuẩn bị các công việc cho tổ chức lễ hội như ghi sổ sách về các khoản đóng
góp, chuẩn bị các đồ lễ và các công việc cho phần hội, đồng thời chịu trách
nhiệm phân công cho các gia đình từng công việc chuẩn bị theo sự chỉ đạo của
ông mo cũng như Hội đồng các vị cao niên trong làng. Những quy định chung
này đều được các hộ gia đình tham gia thực hiện một các tự giác, tuân thủ chặt
chẽ. Do đó mà lễ hội đình làng diễn ra một cách suôn sẻ và thành công.
Quy định trong tổ chức lễ và tổ chức hội
Bên cạnh các quy định về tham gia và chuẩn bị cho tổ chức lễ hội còn có quy
định cho tổ chức phần lễ và tổ chức phần hội. Về phần lễ có quy định chặt chẽ
những ai được tham gia tế lễ, quy định về nội dung đọc văn tế, trang phục cúng
lễ, đồ cúng lễ…Theo đó chỉ có những vị bô bão trong làng có tài làm phép và
cầu khấn mới được phép thực hiện nghi lễ cúng lễ trong đình làng, văn tế viết
bằng chữ Hán Nôm của người Cao Lan….Ngoài ra còn quy định nội dung phần
lễ là để tỏ lòng tạ ơn của dân làng đối với Thành Hoàng, vị thần có công che
chở, phù hộ cho dân làng làm ăn phát đạt và suộc sống yên bình. Còn về phần
Hội, Ban tổ chức ( Chính là Hội đồng các vị cao niên trong làng ) quy định các
trò chơi bắt buộc tổ chức, vì nó thể hiện các giá trị văn hoá truyền thống to lớn
của người Cao Lan, là một sự tiếp nối truyền thống cha ông của người Cao Lan.
Trong đó có hội thi ném còn là trò chơi bắt buộc phải tổ chức trong phần Hội.
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
54
Quy định của ban tổ chức trong việc đảm bảo trật tự trong lễ hội
Để đảm bảo cho hội đình làng diễn ra thành công, để hội đình làng diễn ra
thật sự có không khí vui vẻ, thể hiện tinh thần đoàn kết và giáo dục truyền thống
cho các thế hệ việc tham gia lễ hội cũng phải tuân theo các quy định về trật tự
nơi lễ hội. Theo quan niệm của người Cao Lan thì tổ chức lễ hội mang tính
thiêng liêng, thể hiện tính tín ngưỡng cao đối với thế giới tâm linh. Lễ hội được
tổ chức thành công là biểu hiện của sự may mắn cho dân làng trong năm mới đó.
Còn nếu trong lễ hội có bất trắc gì tạo nên không khí không vui cho lễ hội thì
năm đó dân làng sẽ không gặp may mắn. Do vậy mà, theo quy định thì tất cả
mọi người tham gia lễ hội đều phải kiểm soát mọi hành vi của mình, tránh các
hiện tượng như cãi nhau, chửi nhau, gây gổ, đánh nhau gây mất trật tự tại lễ hội.
Vì những hành vi này sẽ làm ảnh hưởng đến không khí lễ hội và theo quan niệm
thì sẽ làm cho cả làng không may mắn trong năm đó. Chính vì thế hầu hết các
gia đình đều tự bảo ban nhau, giáo dục cho con cháu tham gia lễ hội một cách
lành mạnh, không đánh chửi nhau trong lễ hội. Đây là một quan niệm mang tính
tín ngưỡng nhưng đồng thời cũng là một cách giáo dục các thế hệ trong việc
quản lý và bảo vệ trật tự nơi lễ hội để hội đình làng diễn ra với một không khí
vui vẻ và phấn khởi. Tuy quy định này không chính thức thành văn bản nhưng
nó là một quy ước ( ngầm ) quan trọng đối với việc quản lý lễ hội.
c. Vai trò của cộng đồng đối với tổ chức và quản lý lễ hội đình làng của dân tộc
Cao Lan
Lễ hội đình làng là hoạt động văn hoá mang tính cộng đồng của người
Cao Lan. Lễ hội được tổ chức trên tinh thần tham gia một cách tự nguyện, tự
giác của người dân trong làng. Sức hấp dẫn cũng như tính giáo dục sâu sắc của
lễ hội chính là yếu tố quyết định đến việc tổ chức và tham gia hội làng của người
dân trong làng theo một định kỳ hàng năm. Việc tổ chức lễ hội là do người dân
trong làng thống nhất quyết định, lễ hội có được duy trì tổ chức định kỳ hay
không là do chính người dân trong làng quyết định. Mọi công việc chuẩn bị và
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
55
đóng góp nguồn lực cho việc tổ chức lễ hội là do cộng đồng tham gia. Hơn nữa
việc tổ chức lễ hội là nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt văn hoá của cộng đồng
người dân trong làng, sức hấp dẫn của lễ hội sẽ thu hút sự tham gia một cách tự
nguyện và đông đảo mọi thế hệ người dân trong làng tham gia. Lễ hội được tổ
chức đáp ứng đúng với nhu cầu của người dân trong làng sẽ quyết định đến việc
tồn tại của chính lễ hội trong cộng đồng. Do vậy, lễ hội được tổ chức thành công
hay không phụ thuộc vào vai trò của cộng đồng đối với lễ hội. Bên cạnh đó cộng
đồng cũng chính là nơi lưu giữ và phát triển các giá trị văn hoá truyền thống của
lễ hội. Lễ hội có giữ được bản sắc truyền thống hay không phụ thuộc rất lớn vào
sự lưu giữ và bảo vệ của cộng đồng. Vì vậy cộng đồng chính là mảnh đất để lễ
hội được duy trì và phát triển.
Do đó có thể nói lễ hội đình làng chính là con đẻ về tinh thần của đồng
bào dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang. Việc duy trì và phát triển hội đình làng
phụ thuộc rất lớn vào vai trò quyết định của cộng đồng làng bản của người Cao
Lan. Do đó, quá trình quản lý Nhà nước và tổ chức lễ hội nhằm duy trì và phát
triển loại hình lễ hội này đòi hỏi phải phát huy cao độ vai trò của cộng đồng.
d. Một số nhận xét
Như vậy việc quản lý Nhà nước đối với các lễ hội truyền thống trong đó
có lễ hội Đình làng của dân tộc Cao Lan là một trong những nội dung nhằm duy
trì và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống của các dân tộc thiểu số ở Tuyên
Quang. Thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với lễ hội truyền thống đã có
hệ thống các cơ quan quản lý theo từng loại hình lễ hội đã được phân cấp quản
lý theo quy định tại Quy chế tổ chức lễ hội do Bộ Văn hoá Thông tin ban hành,
cùng với các văn bản của địa phương ban hành. Bên cạnh đó việc thực hiện chức
năng quản lý Nhà nước đối với các lễ hội truyền thống trên địa bàn tỉnh nói
chung và lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan nói riêng còn có vai trò tự quản
của cộng đồng đối với việc tổ chức và quản lý lễ hội. Các lễ hội truyền thống
của các dân tộc thiểu số gắn kết chặt chẽ với cộng đồng, do vậy mà cộng đồng
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
56
cũng có các quy định riêng trong việc tổ chức và quản lý lễ hội của mình. Vì thế
trong quản lý Nhà nước cần có sự kết hợp các quy định mang tính pháp lý của
Nhà nước với các quy định mang tính tự quản của cộng đồng nhằm phát huy cao
độ vai trò của cộng đồng đối với lễ hội của mình. Tuy nhiên có thể thấy rằng
Quy chế tổ chức lễ hội do Bộ Văn hoá – Thông tin ban hành quy định các lễ hội
do làng, thôn tổ chức thì không cần xin phép, không cần báo cáo với cơ quan
quản lý phần nào đã làm cho các lễ hội này thiếu sự quan tâm của các cấp chính
quyền. Vì thế mà việc quản lý Nhà nước đối với các lễ hội truyền thống do làng,
thôn tổ chức nhiều khi mang tính hình thức, thiếu chặt chẽ dẫn đến việc tổ chức
các lễ hội truyền thống mang tính tự phát, không có mục đích và nội dung rõ
ràng, hơn nữa còn làm mai một dần các lễ hội đó do thiếu sự quản lý và hỗ trợ
của Nhà nước.
2.2.4 Thực tế tổ chức lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang
hiện nay
a. Một số kết quả đã đạt được trong tổ chức và quản lý lễ hội
Hiện nay, Tuyên Quang là một trong những tỉnh có dân số là người Cao
Lan đông nhất cả nước, với 54.095 người sống tập trung chủ yếu ở ba huyện
Sơn Dương, Yên Sơn, Hàm Yên. Đông nhất là huyện Sơn Dương với 27.869
người, Yên Sơn 19.631 người, Hàm Yên 5.840 người, Thị xã Tuyên Quang 409
người, Na Hang 191 người, Chiêm Hoá 155 người ( Số liệu của Cục thống kê
tỉnh năm 1999 ) đông thứ tư toàn tỉnh sau người Kinh, Tày Dao. Thực hiện chủ
trương bảo tồn và phát triển các giá trị văn hoá truyền thống của các dân tộc
thiểu số ở Tuyên Quang, những năm gần đây việc khôi phục và tổ chức các lễ
hội đình làng của người Cao Lan ngày càng được chú trọng. Việc tổ chức các lễ
hội truyền thống của dân tộc Cao Lan đã đạt được những kết quả nhất định:
Về mặt giáo dục truyền thống:
Lễ hội đình làng truyền thống được tổ chức với mục đích đáp ứng nhu cầu sinh
hoạt tín ngưỡng cũng như sinh hoạt văn hoá truyền thống của người Cao Lan ở
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
57
Tuyên Quang. Đây là nền tảng tinh thần của cộng đồng người Cao Lan, nó trở
thành một nhu cầu sinh hoạt không thể thiếu của cuộc sống. Những năm qua
việc tổ chức lễ hội đình làng tại các làng bản đều đáp ứng được nhu cầu tinh
thần của người Cao Lan. Những năm qua việc tổ chức các lễ hội đình làng đều
đã cơ bản đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt của cộng đồng. Điều này được thể
hiện thông qua sức hút của các lễ hội này, theo nghiên cứu thì có tới 100% số hộ
gia đình ở thôn Giếng Tanh, xã Kim Phú, huyện Yên Sơn là tham gia lễ hội đình
làng truyền thống ( Theo thông tin từ cụ Hoàng Trường Vinh – bô lão của thôn
Giếng Tanh phụ trách việc tổ chức lễ hội hàng năm ), có khoảng 80% số hộ gia
đình tham gia ở đình làng Minh Cầm, xã Đội Bình ( Thông tin từ người dân
trong làng Minh Cầm ), và ở các làng khác đều có sự tham gia rất đông của
người dân. Và hầu hết họ tham gia lễ hội là nhằm đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng (
hầu hết là các cụ cao tuổi ) để thể hiện sự biết ơn tới Thành Hoàng Làng - vị
thần có công che chở phù hộ dân làng làm ăn thuận lợi và đem lại may mắn cho
người dân, hơn nữa còn là dịp để giáo dục con cháu đối với công lao cha ông và
truyền thống của dân tộc mình; còn các nam nữ thanh niên, trẻ em tham gia lễ
hội nhằm đáp ứng nhu cầu về vui chơi, giải trí và được hiểu hơn về truyền thống
của dân tộc mình do lễ hội có nhiều trò chơi dân gian mà họ được tham gia. Một
điều dễ nhận thấy ở hầu hết các lễ hội đình làng được tổ chức không chỉ của
riêng người Cao Lan mà có sự tham gia đông đảo của các dân tộc anh em trong
vùng. Sức hút của lễ hội đình làng đã tạo nên một lễ hội mang tính cộng đồng
chung cho cả vùng. Đặc biệt là có sự tham gia các chương trình văn hoá văn
nghệ đặc sắc của các dân tộc anh em khác như Dao đỏ, Kinh, Tày, Sán Dìu…
trong lễ hội đình làng Giếng Tanh và Minh Cầm. Còn các lễ hội đình làng khác
cũng thu hút sự tham gia thi hội tung còn của các nam nữ thanh niên các dân tộc
anh em khác trong vùng đến trảy hội. Như vậy có thể thấy được sức hút, sức lan
toả của lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan hiện nay đã đáp ứng được nhu cầu
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
58
sni hoạt và giao lưu văn hoá của cộng đồng người Cao Lan nói riêng và nhân
dân trong vùng nói chung.
Về mặt tổ chức quản lý: Việc tổ chức và quản lý lễ hội đình làng của
dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang thời gian qua đã tuân theo các quy định của
Nhà nước về tổ chức lễ hội và các quy định của riêng cộng đồng dân tộc Cao
Lan. Việc tổ chức lễ hội đình làng đảm bảo duy trì các yếu tố truyền thống và
tiếp thu các giá trị hiện đại của văn hoá các dân tộc khác. Qua báo cáo tổng kết
công tác của Sở Văn hoá Thông tin Tỉnh năm 2007 thì qua công tác kiểm tra tổ
chức lễ hội trong đó có lễ hội Đình làng của dân tộc Cao Lan ở xã Kim Phú và
Đội Bình thì không có lễ hội vi phạm quy chế. Hơn nữa các lễ hội ở các thôn,
làng khác đều được tổ chức tuân theo các quy định chung của cộng đồng đã
được các vị cao tuổi bàn bạc quyết định. Do vậy các lễ hội đều diễn ra trong
không khí vui vẻ, phấn khởi và thành công, tuân theo các quy định chung của
pháp luật và của cộng đồng.
Về mặt thể hiện các giá trị văn hoá truyền thống trong lễ hội
Hiện nay các lễ hội truyền thống vẫn giữ được một số giá trị văn hoá
truyền thống của cộng đồng dân tộc Cao Lan. Đặc biệt là lễ hội Đình làng Giếng
Tanh hiện nay vẫn giữ được nhiều yếu tố truyền thống nhất của dân tộc Cao
Lan, chẳng hạn như các nghi lễ cúng tế, trang phục làm lễ, sớ văn tế lễ trong
phần Lễ; còn phần Hội thì vẫn lưu giữ được các trò chơi dân gian như hội tung
còn, đẩy gậy, kéo co, các điệu múa như chim gâu, múa xúc tép…đặc biệt vẫn
lưu giữ hình thức hát Sình ca truyền thống giữa nam nữ thanh niên thông qua
các chương trình thi văn nghệ với các dân tộc anh em khác cũng như các thôn
trong xã với nhau. Còn các lễ hội đình làng ở các làng, thôn khác thì vẫn duy trì
được nghi thức cúng lễ trong phần lễ và hội tung còn trong phần hội. Ngoài ra lễ
hội đình làng càng sinh động hơn khi có sự tham gia các chương trình văn hoá
văn nghệ của các dân tộc khác tại lễ hội, đã có sự kế thừa và tiếp thu văn hoá
mới cho lễ hội. Như vậy, có thể nói việc tổ chức các lễ hội đình làng vẫn giữ
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
59
được những giá trị truyền thống, và cơ hội để duy trì, bảo tồn các giá trị văn hoá
truyền thống trong lễ hội vẫn được giữ gìn nếu có sự hỗ trợ và hướng dẫn của
Nhà nước.
Về mặt số lượng lễ hội được tổ chức
Các lễ hội đình làng của người Cao Lan hiện nay hầu hết được tổ chức định kỳ
hàng năm. Theo kết quả khảo sát cũng như thông tin của Phòng Văn hoá Thông
tin huyện Yên Sơn - địa phương duy nhất còn tồn tại hình thức sinh hoạt lễ hội
đình làng của người Cao Lan ở Tuyên Quang thì hiện nay có hai lễ hội đình làng
của người Cao Lan mang tính chính thức và đặc trưng nhất cho văn hoá người
Cao Lan là Đình làng Giếng Tanh ( xã Kim Phú ), lễ hội đình làng Minh Cầm (
xã Đội Bình ), [qua khảo sát cũng như qua nghiên cứu của các tác giả như: Phù
Ninh - Nguyễn Thịnh trong Sách Văn hoá truyền thống Cao Lan ( Nhà xuất bản
văn hoá dân tộc 1999 ), Báo cáo tham luận về “ Thực trạng văn hoá những biểu
hiện tích cực và hạn chế trong hoạt động văn hoá, lễ hội của dân tộc Cao Lan ở
Tuyên Quang ” của Sở Văn hoá – Thông tin trong Hội Nghị tổng kết công tác
ngành văn hoá tại Tuyên Quang năm 2007]. Còn có các lễ hội đình làng không
chính thức như thôn Song Lĩnh ( xã Lưỡng Vượng ), thôn Khe Cua 2 ( xã Đội
Cấn ), Thôn Mỏ Tôm ( xã Thái Long )…Bên cạnh đó có một số lễ hội đình làng
sau nhiều năm gian đoạn nay được khôi phục cùng với thiết chế đình làng như
hội đình làng ở thôn Khe Cua 2, thôn Xã Ngoại ( Đội Cấn )…
Như vậy hiện nay số lượng lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang
chưa có thống kê chính thức. Tuy nhiên, xu hướng hiện nay là các lễ hội truyền
thống của dân tộc Cao Lan dần được khôi phục với số lượng ngày càng nhiều
đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tinh thần của người dân.
b. Những hạn chế thiếu sót trong tổ chức và quản lý lễ hội đình làng của dân tộc
Cao Lan
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
60
Qua khảo sát và nghiên cứu các lễ hội đình làng được tổ chức trong thời
gian vừa qua của đồng bào dân tộc Cao Lan có thể thấy được một số hạn chế
thiếu sót trong quá trình tổ chức cũng như quản lý. Thể hiện như sau:
Về việc tổ chức các lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan ở Tuyên
Quang: Hiện nay có thể thấy việc tổ chức các lễ hội tuy đã có sự hỗ trợ và quản
lý của Nhà nước nhưng có một số lễ hội đình làng của người Cao Lan vẫn mang
tính tự phát và không có định hướng. Hiện nay duy có hai lễ hội đình làng ở
thôn Giếng Tanh ( xã Kim Phú ), và Minh Cầm ( xã Đội Bình ) là phát triển có
định hướng và còn giữ được các giá trị truyền thống của người Cao Lan, và hai
ngôi đình này cũng là hai ngôi đình duy nhất được cộng nhận là di sản kiến trúc
của Tuyên Quang. Còn lại các lễ hội đình làng ở các nơi khác đều duy trì và
phát triển một cách tự phát, nhiều yếu tố truyền thống của lễ hội bị mai một
thậm chí mất dần. Chẳng hạn như hầu hết trong các lễ hội đình làng hiện nay
người dân Cao Lan không còn mặc trang phục truyền thống đi dự hội như trước
nữa, việc tổ chức các trò chơi dân gian cũng dần mất đi trong lễ hội thay vào đó
là các trò chơi mang tính hiện đại như đá bóng, thậm chí có các trò chơi còn
mang tính chất cờ bạc trong các lễ hội còn có chiều hướng gia tăng như trò quay
“ Chiếc nón kỳ diệu”, trò ném vòng vào cổ chai, trò sóc đĩa ăn tiền…, hơn nữa
các chương trình văn nghệ truyền thống trong đó có hát Sình Ca và các điệu múa
truyền thống hầu hết xuất hiện hạn chế trong các lễ hội mà thay vào đó là các
chương trình ca nhạc, các điệu múa, điệu nhảy hiện đại trong các chương trình
thi văn nghệ của chương trình lễ hội. Đó là các biểu hiện về mặt tiêu cực, cũng
như biểu hiện mai một của các giá trị văn hoá truyền thống trong lễ hội đình
làng.
Bên cạnh các lễ hội truyền thống đã được khôi phục và duy trì còn có các
lễ hội bị gián đoạn hay mất hẳn trong sinh hoạt văn hoá của người Cao Lan.
Chẳng hạn như lễ hội đình làng ở thôn Kỳ Lãm ( xã Đội Cấn ) trước đây được tổ
chức thường xuyên định kỳ vào mùng 4 tết âm lịch hàng năm. Nhưng khoảng 5
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
61
năm trở lại đây lễ hội đình làng đã không còn tồn tại phần hội vốn là phần hấp
dẫn thu hút nhiều người tham gia nhất mà chỉ còn phần lễ. Hay như ở thôn Mỏ
Tôm, tuy vẫn tồn tại thiết chế đình làng và phần lễ nhưng phần hội hầu như
không được tổ chức đã nhiều năm nay. Đây là một mất mát lớn trong đời sống
sinh hoạt văn hoá truyền thống của người Cao Lan.
Về vai trò của quản lý Nhà nước đối với lễ hội đình làng của dân tộc
Cao Lan
Hiện nay có thể thấy việc quản lý Nhà nước đối với lễ hội truyền thống
của người Cao Lan còn nhiều hạn chế. Đó là nhiều lễ hội đình làng không được
sự quan tâm hỗ trợ đúng mức từ phía Nhà nước đặc biệt là chính quyền cấp xã,
thiếu sự hướng dẫn chỉ đạo về mặt chuyên môn tổ chức, thiết kế các chương
trình lễ hội từ phía cơ quan chuyên môn quản lý về văn hóa, do đó các lễ hội
diễn ra một cách tự phát, bị biến dạng theo xu thế tiếp nhận lai tạp các giá trị văn
hoá của các dân tộc khác, làm mất đi giá trị truyền thống của dân tộc Cao Lan
trong lễ hội. Sự quan tâm của Nhà nước còn chưa thực sự toàn diện, bởi lẽ một
số lễ hội như Đình làng Giếng Tanh, Đình làng Minh Cầm được Nhà nước hỗ
trợ về kinh phí, chuyên môn tổ chức lễ hội…trong khi đó hầu hết các lễ hội còn
lại là sự tự phát trong tổ chức, không có sự hỗ trợ nào trong tổ chức lễ hội. Điều
này làm cho các lễ hội đình làng phát triển chỉ mang tính cục bộ, không toàn
diện.
Các biểu hiện tiêu cực trong tổ chức và quản lý lễ hội ngày càng có xu
hướng gia tăng do không được quản lý tốt tại các lễ hội đình làng của người Cao
Lan. Trong đó phải kể đến các trò chơi dân gian mất đi thay vào là các trò chơi
ăn tiền, bói toán làm mất đi tình truyền thống của lễ hội thậm chí làm chệch mục
tiêu tổ chức lễ hội, làm ảnh hưởng chung tới trật tự lễ hội và không khí lễ hội.
Hơn nữa còn làm mất đi tính đặc trưng của lễ hội người Cao Lan, đó là cái mất
lớn nhất trong khi chủ trương của Nhà nước là duy trì và phát huy các giá trị
truyền thống dân tộc.
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
62
Ngoài ra cũng cần thấy một thực tế là cùng với việc gắn việc tổ chức lễ
hội với phát triển du lịch ở địa phương thì hiện tượng buôn bán thương mại ngày
càng xuất hiện nhiều tại lễ hội. Mọi người không phải hào hứng đến với lễ hội
để tỏ lòng thành với cha ông, để thoả mãn nhu cầu sinh hoạt văn hoá tinh thần
mà là để kiếm thêm tiền thông qua việc buôn bán các hàng hoá. Điều này làm
cho hiện tượng thương mại trong lễ hội phát triển tràn lan, làm mất đi không khí
và ý nghĩa của lễ hội truyền thống.
Như vậy, tuy rằng đã có những thành công trong tổ chức và quản lý lễ hội
truyền thống của người Cao Lan thì vẫn còn những hạn chế thiếu sót cần được
định hướng và điều chỉnh cho phù hợp với mục tiêu duy trì và phát huy các giá
trị văn hoá truyền thống trong thời kỳ phát triển. Trong đó vai trò của Nhà nước
về định hướng và hỗ trợ là rất quan trọng.
c. Nguyên nhân của những hạn chế trên
Việc tổ chức và quản lý các lễ hội đình làng truyền thống của dân tộc Cao
Lan còn những hạn chế thiếu sót trên là do một số nguyên nhân sau:
Trước hết đó chính là về quản lý Nhà nước và vai trò của Nhà nước đối
với việc duy trì và phát triển các lễ hội đình làng truyền thống của dân tộc Cao
Lan chưa được sâu sắc và chú trọng. Điều này thể hiện qua các chính sách đối
với việc tổ chức và quản lý các lễ hội chưa đồng bộ và toàn diện. Thực tế cho
thấy, hiện nay duy nhất có hai lễ hội đình làng của người Cao Lan ở hai làng
Giếng Tanh ( xã Kim Phú ) và Làng Minh Cầm ( xã Đội Bình ) là được sự hỗ
trợ, đầu tư của chính quyền địa phương cũng như của các cấp. Hai lễ hội này
được đầu tư về cơ sở vật chất như tu sửa lại đình theo nguyên trạng truyền
thống, hỗ trợ kinh phí trong việc xây dựng đường giao thông phục vụ lễ hội, hỗ
trợ về mặt chuyên môn tổ chức lễ hội,…Do đó mà hai lễ hội này vẫn giữ được
những nét văn hoá truyền thống của người Cao Lan. Trong khi đó, các lễ hội
đình làng ở các địa phương khác hầu hết đều duy trì một cách tự phát, chủ yếu
do người dân trong làng tự tổ chức, thiếu sự hỗ trợ về kinh phí, về chuyên môn
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
63
tổ chức nên nhiều giá trị văn hoá truyền thống không những không được khôi
phục mà còn bị mất dần. Đây cũng chính là một nguyên nhân dẫn đến các lễ hội
này diễn ra một cách tự phát, không có sự định hướng của chính quyền địa
phương dẫn đến các lễ hội này tổ chức mờ nhạt, không mang đậm bản sắc riêng,
thậm chí nhiều lễ hội do không có đủ điều kiện tổ chức như không gian lễ hội
mà không thể tổ chức được như ở làng Kỳ Lãm ( xã Đội Cấn ), làng Mỏ Tôm (
xã Thái Long ), hiện nay lễ hội đã mất đi phần hội chỉ còn lại phần lễ do các vị
cao niên trong làng tổ chức. Đây là một mất mát lớn của cộng đồng dân tộc Cao
Lan trong sinh hoạt văn hoá cộng đồng do thiếu sự quan tâm chỉ đạo, hỗ trợ và
quản lý từ phía Nhà nước đối với việc tổ chức lễ hội. Hơn nữa việc quản lý đối
với các lễ hội này của các cấp chính quyền địa phương đặc biệt là cấp xã còn rất
hạn chế, mang tính hình thức. Nhiều lễ hội không hề có sự chỉ đạo và quan tâm
của chính quyền nên có nhiều yếu tố như cờ bạc, mê tín dị đoan như bói toán
diễn ra mà không có biện pháp xử lý.
Do ảnh hưởng của sự phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là kinh tế thị
trường cộng với xu thế giao thoa văn hoá diễn ra mạnh mẽ cũng đã ảnh hưởng
không nhỏ đến các giá trị văn hoá truyền thống trong lễ hội đình làng của người
Cao Lan. Dân tộc Cao Lan vốn là một dân tộc ưa thích những cái mới, kinh tế xã
hội phát triển cùng với cơ chế giao lưu văn hoá như hiện nay, người Cao Lan đã
tiếp thu cho mình những văn hoá mới cho phù hợp. Tuy nhiên việc tiếp thu đó
lại không có định hướng, không có chọn lọc nên đã tiếp thu một cách hoàn toàn
mà không chắt lọc, dẫn đến quay lưng lại với văn hoá truyền thống, coi đó là lạc
hậu, là cổ hủ.
Bên cạnh nguyên nhân mang tính khách quan đó, những hạn chế trên
của lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan còn xuất phát từ chính bản thân của
cộng đồng dân tộc Cao Lan. Do nhận thức chưa được sâu sắc về vai trò của việc
duy trì và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, việc giáo dục và truyền lại
cho các thế hệ sau những giá trị văn hoá của cộng đồng mình không được chú
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
64
trọng và thực hiện thường xuyên đã làm cho nhiều giá trị văn hoá không được
duy trì trong lễ hội như các trò chơi dân gian truyền thống, các làn điệu dân ca,
các điệu múa đặc sắc…, Hơn nữa việc tiếp thu một cách tràn lan không có chọn
lọc các giá trị văn hoá mới trong lễ hội đã làm mất đi tính đặc trưng của văn hoá
lễ hội đình làng của người Cao Lan.
Do vậy, trong việc bảo vệ và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống
trong lễ hội cũng như việc duy trì, khôi phục lại các lễ hội đình làng truyền
thống của người Cao Lan rất cần có các giải pháp quản lý Nhà nước thích hợp
gắn kết chặt chẽ với vai trò chủ động của cộng đồng dân tộc Cao Lan.
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
65
Chƣơng 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỂ GIỮ GÌN VÀ PHÁT
TRIỂN LỄ HỘI ĐÌNH LÀNG CỦA DÂN TỘC CAO LAN Ở
TUYÊN QUANG
3.1 Phƣơng hƣớng giữ gìn và phát triển lễ hội đình làng của dân tộc Cao
Lan ở Tuyên Quang trong thời gian tới.
Qua nghiên cứu thực tiễn lễ hội đình làng và công tác tổ chức, quản lý đối
với lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan trong thời gian vừa qua, để có thể giữ
gìn và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của lễ hội trong thời
gian tới thiết nghĩ trong công tác tổ chức và quản lý cần chú trọng đi theo các
phương hướng cơ bản sau:
3.1.1 Giữ gìn các giá trị truyền thống
Lễ hội đình làng là một hoạt động sinh hoạt văn hoá truyền thống của
người Cao Lan, trong đó chứa đựng và biểu hiện nhiều giá trị truyền thống nhất.
Thông qua các lễ hội mà các giá trị văn hoá truyền thống được thể hiện và phát
huy. Vì vậy trong tổ chức cũng như quản lý đối với lễ hội đình làng trong thời
gian tới cần tâp trung khuyến khích duy trì các hoạt động văn hoá truyền thống
làm nên nét độc đáo riêng có của người Cao Lan trong lễ hội. Cụ thể như sau:
Khuyến khích việc sử dụng các trang phục làm lễ truyền thống trong
phần lễ, duy trì và khôi phục lại các nghi thức làm lễ cổ truyền của người Cao
Lan trong phần Lễ như sử dụng văn tế bằng tiếng chữ Cao Lan cổ ( Chữ Hán
Nôm cổ ), duy trì đội ngũ làm lễ gồm chủ tế, người xướng tế, người đọc văn tế,
và 4 chấp sự.
Duy trì các trò chơi dân gian truyền thống của người Cao Lan trong
phần Hội. Đặc biệt là những trò chơi mang tính thượng võ, thể hiện được sức
mạnh và tinh thần đoàn kết cao của cộng đồng trong phần hội như duy trì hội thi
tung còn đã có từ lâu đời, duy trì trò đẩy gậy, trò chơi đu hay đi kà kheo, khôi
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
66
phục lại các trò chơi truyền thống đã thất truyền như trò thi bắn nỏ, bắn cung
tên, thi khâu còn…tại lễ hội
Duy trì các sinh hoạt văn hoá văn nghệ truyền thống trong phần Hội như
hát Sình Ca, hát ru, đồng thời duy trì và khôi phục lại các điệu múa truyền thống
tại lễ hội như múa Chim Gâu ( Lồng nộc lau ), múa xúc tép, múa Đâm cá, múa
phát đường ( Hoi Lân )…phụ hoạ cho các làn điệu dân ca.
3.1.2 Mở rộng và nâng cao chất lƣợng các chƣơng trình trong lễ hội với
mục tiêu vừa kết hợp truyền thống vừa kết hợp tính hiện đại cho lễ hội.
Xây dựng các chương trình có sự tham gia các hoạt động giao lưu văn
hoá văn nghệ với các dân tộc anh em khác đặc biệt là các điệu hát dân ca và dân
vũ của các dân tộc anh em trong vùng làm phong phú thêm các chương trình cuả
lễ hội. Hơn nữa cần có sự chọn lọc trong việc tổ chức lễ hội có đan xen yếu tố
hiện đại như trong tổ chức các trò chơi của lễ hội có thêm các trò chơi khác như
kéo co, bóng đá, thi đánh cầu lông…tạo không khí vui vẻ cho các dân tộc anh
em khác cùng tham gia, hay như có thêm các chương trình mới như phần thi hoa
hậu các dân tộc tại lễ hội, biểu diễn trang phục của dân tộc Cao Lan và các dân
tộc anh em khác…
3.1.3 Công tác “ Gạn đục khơi trong ” trong tổ chức và quản lý lễ hội
Ban tổ chức lễ hội cần xoá bỏ các thủ tục cũng như nghi thức quá rườm
rà, phức tạp gây hạn chế tới việc tham gia lễ hội của cộng đồng như các quy
định quá chặt chẽ về việc tham gia lễ hội cũng như sự đóng góp quá sức đối với
người dân, dẫn đến tình trạng họ muốn tham gia mà không có đủ điều kiện đóng
góp, có hình thức quản lý đối với các trường hợp kinh doanh buôn bán tràn lan
gây lộn xộn trong lễ hội, các loại hàng hoá được buôn bán nên tập trung vào các
loại vật lưu niệm là đặc trưng của lễ hội. Có biện pháp loại bỏ các biểu hiện tiêu
cực tại lễ hội như bói toán, lên đồng, cờ bạc… làm mất đi sự văn minh và không
khí của lễ hội đình làng.
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
67
3.1.4 Về phát triển các lễ hội: Mở rộng phạm vi tổ chức lễ hội ra các địa
phương khác khi có điều kiện tổ chức. Chú trọng mở rộng số lượng lễ hội, khôi
phục lại lễ hội đã bị thất truyền ở một số địa phương đáp ứng nhu cầu sinh hoạt
văn hoá của người dân tại địa phưong tránh hiện tượng quá tải cho các lễ hội
nhỏ khác mà cơ sở không đáp ứng được.
3.1.5 Kết hợp tổ chức lễ hội đình làng với phát triển kinh tế đặc biệt là các hoạt
động du lịch văn hoá truyền thống tại các làng văn hoá của dân tộc Cao Lan.
Trong đó tiếp tục khảo sát và hỗ trợ việc hoàn thành cơ sở vật chất một số làng
của người Cao Lan khác để được công nhận là làng văn hoá làm cơ sở cho việc
phát triển du lịch lễ hội tại địa phương. Việc kết hợp lễ hội đình làng của người
Cao Lan với phát triển du lịch văn hoá là một chủ trương phù hợp nhằm gắn sự
nghiệp phát triển văn hoá với kinh tế du lịch. Tuy nhiên, các cấp chính quyền
cũng cần có nghiên cứu, có kế hoạch và lộ trình thích hợp.
Thực hiện chủ trương xã hội hoá trong việc tổ chức lễ hội đình làng của
người Cao Lan, nhằm thu hút được nhiều nguồn lực hơn từ nhân dân, các doanh
nghiệp kinh tế cho việc tổ chức để duy trì và phát triển loại hình lễ hội này,
trong đó lấy phương châm “ Nhà nước và nhân dân cùng làm ” là nòng cốt.
3.1.6 Gắn việc tổ chức lễ hội đình làng của người Cao Lan với phong trào “
Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư ” đã được Trung
ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam phát động.
3.2 Một số kinh nghiệm và bài học tổ chức ở các địa phƣơng
3.2.1 Một số nét chung về lễ hội ở Việt Nam
Việt Nam là một đất nước có văn hoá - lễ hội phong phú và đa dạng. Theo
thống kê của Bộ Văn hoá – Thông tin ( nay là Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch )
thì cả nước mỗi năm có gần 9000 lễ hội diễn ra. Mỗi một vùng miền, mỗi một
dân tộc thiểu số trong 54 dân tộc anh em có một loại hình lễ hội truyền thống
đặc trưng cho nét văn hoá độc đáo của mình. Các lễ hội truyền thống đều mang
ý nghĩa tín ngưỡng sâu sắc và sinh hoạt văn hoá độc đáo của cộng đồng. Lễ hội
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
68
là dịp để mỗi người dân thể hiện truyền thống đạo lý “ uống nước nhớ nguồn”
với các thế hệ cha ông đã có công với nước, với làng; là nơi để gặp gỡ và sinh
hoạt văn hoá của cộng đồng. Mỗi địa phương, mỗi vùng miền, mỗi dân tộc lại có
các lễ hội riêng, do vậy có các kinh nghiệp tổ chức và quản lý lễ hội riêng của
mình. Dưới đây là kinh nghiệp tổ chức lễ hội của một số địa phương tiêu biểu.
3.2.2 Kinh nghiệm tổ chức lễ hội Đền Hùng – Phú Thọ
a. Cách thức tổ chức
Lễ hội Đền Hùng là một lễ hội tín ngưỡng truyền thống cấp quốc gia. Đây
là lễ hội thể hiện lòng tri ân sâu sắc của con người Việt Nam đối với tổ tiên đã
sinh thành. Hàng năm lễ hội Đền Hùng được tổ chức long trọng với nghi thức
đại lễ cấp quốc gia, do đó khi tổ chức lễ hội đều có các chương trình kế hoạch cụ
thể và được giao cho Tỉnh Phú Thọ chủ trì tổ chức. Hàng năm, lễ hội Đền Hùng
được tổ chức với quy mô ngày càng lớn và ngày càng đáp ứng nhu cầu chảy hội
của du khách thập phương. Với quy mô cấp quốc gia, lễ hội Đền Hùng được tổ
chức với quy mô “ hoành tráng ” từ khắp các vùng lân cận khu vực Đền Hùng.
Phần lễ được Ban tổ chức chú trọng, chuẩn bị cho lễ dâng hương tưởng niệm các
vua Hùng, Ban Tổ chức đã chủ động bố trí đội hình đoàn hành lễ, vật phẩm, các
nghi thức đảm bảo trang nghiêm – thành kính, thể hiện lòng tri ân công đức tổ
tiên và đạo lý uống nước nhớ nguồn của nhân dân Phú Thọ và đồng bào cả
nước. Trong phần hội, chú trọng tới các hoạt động văn hoá vân nghệ dân gian
như: rước kiệu, hát xoan, hát ghẹo, múa rồng, múa sư tử, thả diều, thi nấu cơm,
thi làm bánh chưng bánh giày…, thêm vào đó là các chương trình giao lưu văn
hoá văn nghệ giữa các vùng miền, các dân tộc anh em ở các địa phương khác,
các chương trình đêm thơ, triển lãm văn hoá, diễn xướng dân gian, hội
trại…được tổ chức hoành tráng thu hút đông đảo thập khách tham gia.
Bên cạnh đó công tác tổ chức chuẩn bị cũng được chú trọng. Để phục vụ tốt lễ
hội tỉnh Phú Thọ đã tập trung chỉ đạo xây dựng tổng thể cảnh quan khu di tích
lịch sử Đền Hùng. Hàng loạt các công trình phụ trợ được tôn tạo, tu bổ, sửa
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
69
chữa, chỉnh trang để đón khách thập phương hành hương về đất cội nguồn tìm
tòi, khám phá những nét đẹp truyền thống và thưởng ngoạn các lễ hội say đắm
lòng người. Tỉnh Phú Thọ cũng chú trọng hơn trong việc sắp xếp các hàng quán,
các đồ lưu niệm để phục vụ nhu cầu đa dạng của du khách. Khu di tích cũng vừa
cho hoàn thành một hội trường lớn với diện tích 1.000m2 để tiếp đón đồng bào
nghỉ chân. Sân lễ hội chính có sức chứa hơn 1 vạn người cũng được chỉnh trang,
hoàn thiện hơn để làm nơi tổ chức triển lãm trái cây 3 miền và là nơi tập trung
thực hiện nghi lễ vào ngày lễ chính. Bên cạnh đó, một màn hình điện tử 50m2
được dựng ngay tại sân chính để phát băng hình phục vụ thập khách hiểu thêm
về đất Tổ. Một số đường mới dẫn lên đền Thượng cũng vừa được xây dựng,
chỉnh trang lại để tránh tình trạng tắc nghẽn đường vào ngày hội.
b. Những thành công trong tổ chức lễ hội
Trước hết là tổ chức lễ hội ngày càng quy mô và có khoa học. Các
chương trình của lễ hội đều được tổ chức công phu, có sự kết hợp chặt chẽ với
các chuyên gia về nghệ thuật. Lễ hội được tổ chức đảm bảo nhu cầu tín ngưỡng
cũng như sinh hoạt văn hoá của khách thập phương.
Về công tác tổ chức, quản lý cũng đã được hoàn thiện. Các cơ sở vật
chất được xây dựng và tu bổ ở các khu di tích, công tác đảm bảo an ninh trật tự
được thắt chặt, quản lý về kinh doanh dịch vụ được đảm bảo. Các chương trình
văn hoá văn nghệ phụ vụ lễ hội cũng được mở rộng và duy trì các giá trị truyền
thống.
Lễ hội Đền Hùng ngày càng thu hút đông đảo nhân dân khắp đất nước
về dự hội. Với các công tác tổ chức và quản lý lễ hội ngày càng được hoàn thiện
và đáp ứng nhu cầu đó của nhân dân. Ước tính năm 2007, lễ hội Đền Hùng thu
hút khoảng 2 triệu lượt khách về trảy hội.
c. Những hạn chế trong tổ chức lễ hội.
Theo tổng kết công tác tổ chức lễ hội của Ban tổ chức thì lễ hội Đền Hùng
vẫn còn một số hạn chế nhất định như: hạn chế về dự báo quy mô nên dẫn đến
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
70
tình trạng quá tải cơ sở vật chất và công tác phục vụ, hoạt động hội được tổ chức
sôi động trên phạm vi rộng, thu hút đông đảo nhân dân tham gia những hoạt
động văn hoá dân gian trong lễ hội chưa phong phú; tình trạng bán hàng rong,
chèo kéo, bắt chẹt khách vẫn xảy ra, vệ sinh môi trường chưa được đảm bảo…
d. Nguyên nhân những hạn chế trên.
Trước hết là do công tác quản lý chưa được toàn diện, việc nghiên cứu
các nhu cầu tham gia lễ hội của nhân dân còn hạn chế nên chưa có phương
hướng mở rộng cơ sở cho phù hợp; việc kiểm soát các hoạt động kinh doanh
dịch vụ của các cơ quan chức năng còn chưa toàn diện dẫn đến tình trạng buôn
bán lộn xộn vẫn diễn ra tại lễ hội.
Thứ hai là do nhận thức của những người tham gia lễ hội còn hạn chế,
nhất là vấn đề vệ sinh môi trường. Khách tham gia lễ hội không có ý thức vệ
sinh chung nên đã vứt rác bừa bãi trong khuôn viên lễ hội, làm mất đi cảnh quan
môi trường nơi không gian lễ hội.
Bên cạnh đó một nguyên nhân dẫn tới hoạt động văn hoá văn nghệ dân
gian chưa được phong phú trong lễ hội là do chưa có biện pháp sưu tầm, bảo tồn
và phát triển các hoạt động này nên không được tổ chức trong lễ hội, đồng thời
việc thiết kế tổ chức các chương trình trong lễ hội còn chưa khoa học, có nhiều
thiếu sót.
3.2.3 Kinh nghiệm tổ chức lễ hội ở Yên Tử - Quảng Ninh
Lễ hội Yên Tử được tổ chức từ ngày mồng 9 tháng Giêng và kéo dài hết
tháng 3. Sau phần nghi lễ long trọng ở chân núi Yên Tử là cuộc hành hương của
hàng vạn người lên đỉnh núi Yên Tử đến với Chùa Đồng. Du khách đến với lễ
hội Chùa Yên Tử để được tách mình khỏi thế giới trần tục, thực hiện cuộc hành
hương tôn giáo giữa thiên nhiên hùng vĩ. Những năm qua, tổ chức lễ hội Yên Tử
đã đạt những thành công nhất định, đáp ứng nhu cầu văn hoá tâm linh của nhân
dân trong vùng cũng như khắp đất nước. Những kết quả đó đã trở thành những
kinh nghiệm quý báu cho các địa phương khác trong tổ chức lễ hội.
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
71
- Trước hết phải kể đến việc tu bổ, xây dựng cơ sở vật chất phụ vụ lễ hội.
Theo báo điện tử An ninh thế giới ( http://antg.cand.com.vn ) thì con đường từ
quốc lộ 18 mới được nâng cấp rộng thênh thang, xuyên qua những cánh rừng
khiến du khách cảm giác như được trở về với vẻ đẹp của thiên nhiên núi rừng
hùng vĩ. Suốt gần chục cây số, không hề gặp một ai đeo đuổi du khách để mời
chào. Trong khi đó ở lễ hội Chùa Hương, “cò” xuống tận Hà Nội, Hà Đông cách
Chùa Hương những 50 km để mời chào, chèo kéo khách. Yên Tử cũng có bãi
gửi xe rộng mênh mông, ẩn trong những ngả rừng. Tại đây có chỗ để ô tô riêng,
xe máy riêng. Giá vé được công khai ghi trên bảng, Bộ Tài chính quy định vé
gửi xe máy không quá 2.000đ, nhưng tại đây, chỉ thu đúng 1.000đ, lại trông cả
mũ bảo hiểm. Còn giá gửi xe đạp là 500đ. Trong khi đó, ở chùa Hương, giá vé
gửi xe máy là 6.000đ, gửi mũ bảo hiểm là 3.000 - 5.000đ.
- Về kiểm soát và đảm bảo văn minh cho lễ hội cũng được thắt chặt và có
những giải pháp hữu hiệu. Chẳng hạn như giải quyết vấn nạn ăn xin tại lễ hội,
Ban tổ chức đã khéo léo bố trí cho những người này một nơi bán hàng tạo thu
nhập và yêu cầu ký cam kết không tái phạm. Với cách làm này, hiện nay lễ hội
Yên Tử không còn hiện tượng ăn xin gây ảnh hưởng xấu tới văn minh trong lễ
hội nữa.
- Công tác tuyên truyền vận động của chính quyền đối với người dân về
việc tổ chức lễ hội cũng như tạo không khí vui vẻ, văn minh cho lễ hội cũng
được chú trọng và đạt được kết quả bất ngờ. Hầu hết tại lễ hội không có hiện
tượng chèo kéo, bắt chẹt khách như ở các nơi khác. Người dân thì rất lịch sự và
nhã nhặn với khách. Các hộ kinh doanh nơi lễ hội đều được đào tạo, tập huấn và
thi chứng chỉ của công ty Tùng Lâm, họ được học cách giao tiếp và ứng xử với
khách hàng, phân chia các khu vực bán hàng hợp lý. Do đó không có hiện tượng
chặt chém khách như ở Chùa Hương. Ngoài ra đi lễ hội Yên Tử khách còn được
tiếp đòn chu đáo và nhiệt tình bởi các gian hàng có chỗ nghỉ cho khách mà
không thu tiền tại các gian hàng dọc đường leo núi, có các nhà vệ sinh công
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
72
cộng thoáng, sạch sẽ…Tất cả đều tạo cho người trảy hội cảm thấy thoải mái và
yên bình khi tham gia lễ hội.
Có thể nói đây chính là những kinh nghiệm quý báu trong công tác tổ
chức và quản lý lễ hội ở Yên Tử, là một bài học hữu hiệu cho các địa phương áp
dụng cho tổ chức và quản lý lễ hội tại địa phương mình.
3.2.4 Bài học kinh nghiệm để tổ chức lễ hội thành công từ các địa phƣơng.
Qua nghiên cứu về kinh nghiệm tổ chức các lễ hội tiêu biểu trên, có thể
rút ra bài học để tổ chức thành công các lễ hội cho các địa phương như sau:
Thứ nhất, kết hợp chặt chẽ các biện pháp quản lý Nhà nước với việc
nâng cao nhận thức của cộng đồng trong việc tổ chức các lễ hội theo chủ trương
và quy định của pháp luật. Đặc biệt là chú trọng tới đầu tư hoàn thiện các cơ sở
vật chất cho lễ hội cũng như phục vụ nhân dân tham gia lễ hội; kiểm soát chặt
chẽ các hoạt động kinh doanh cũng như các biểu hiện tiêu cực trong lễ hội;
Thứ hai, Có định hướng về mục tiêu cho việc tổ chức lễ hội, chú trọng
duy trì và phát huy các yếu tố văn hoá truyền thống trong lễ hội; và tiếp thu các
giá trị văn hoá mới cho lễ hội thêm phong phú, đảm bảo tính truyền thống và
hiện đại cho lễ hội;
Cần khảo sát thực tiễn lễ hội ở các địa phương khác và tiếp thu các kinh
nghiệm hay mà các đại phương khác đã thành công và phát huy tính chủ động
sáng tạo của ban tổ chức lễ hội;
Có kế hoạch xã hội hoá đối với việc tổ chức và quản lý lễ hội. Trong đó
phát huy cao độ tính chủ động của cộng đồng và các doanh nghiệp hỗ trợ kinh
phí, kỹ thuật cho việc tổ chức lễ hội, còn Nhà nước thực hiện chức năng định
hướng, quản lý và giám sát việc tổ chức lễ hội.
Trên là một số bài học kinh nghiệm được rút ra từ thực tế tổ chức và quản
lý một số lễ hội tiêu biểu có thể áp dụng trong việc tổ chức và quản lý lễ hội của
các địa phương khác trên cả nước.
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
73
3.3 Một số giải pháp về quản lý Nhà nƣớc để giữ gìn và phát triển các lễ hội
đình làng của dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang.
3.3.1 Giải pháp hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý Nhà nƣớc
Về hệ thống các cơ quan quản lý Nhà nước của Tuyên Quang đối với lễ
hội truyền thống trong đó có lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan cần hoàn
thiện hơn nữa về việc quy định chức năng quản lý lễ hội. Hiện nay cần tiếp tục
nghiên cứu và phân cấp quản lý cụ thể, quy định nội dung cụ thể đối với việc tổ
chức các loại lễ hội, tránh hiện tượng quản lý mang tính hình thức mà cũng tránh
việc can thiệp quá sâu vào việc tổ chức lễ hội truyền thống của người Cao Lan
làm mất đi tính tự chủ và tính độc đáo riêng của lễ hội. Các cơ quan quản lý lễ
hội cần có quy định về sự phân công cụ thể, ví dụ như việc quản lý Nhà nước
đối với lễ hội thuộc thẩm quyền Uỷ ban Nhân dân các cấp, giúp Uỷ ban Nhân
dân thực hiện các chức năng này là các cơ quan chuyên môn như Sở Văn hoá
Thể thao và Du lịch , Phòng Văn hoá – Thông tin Huyện. Vì thế Uỷ ban Nhân
dân các cấp cũng phải có văn bản quy định cụ thể nội dung, phạm vi thẩm quyền
của các cơ quan chuyên môn này đối với quản lý lễ hội. Điều này có nghĩa là
phải có một sự phân công, phân nhiệm cụ thể, rõ ràng hơn giữa các cơ quan
quản lý Nhà nước về lễ hội truyền thống trong đó có lễ hội đình làng của người
Cao Lan.
3.3.2 Nhóm giải pháp về chính sách pháp luật
Hoàn thiện hệ thống chính sách đối với việc tổ chức và quản lý lễ hội
đình làng của dân tộc Cao Lan. Tuy lễ hội đình làng là hoạt động sinh hoạt văn
hoá của riêng cộng đồng, có được duy trì và phát triển hay không phụ thuộc
hoàn toàn vào cộng đồng nhưng với thực trạng hiện nay vai trò của các chính
sách của Nhà nước là hết sức quan trọng. Để các lễ hội đình làng của người Cao
Lan được duy trì và phát triển các chính sách cần tập trung vào các vấn đề sau:
- Chính sách hỗ trợ kinh phí tổ chức và quản lý từ phía các chính quyền
địa phương đặc biệt là cấp xã, và cấp huyện. Muốn cho các lễ hội vừa giữ được
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
74
các nét văn hoá truyền thống vừa phát triển mang các yếu tố hiện đại thì các
chương trình và nội dung phải phong phú, do vậy cần có kinh phí tổ chức lớn.
Hơn nữa, số lượng người tham gia lễ hội đình làng của người Cao Lan hiện nay
có xu hướng gia tăng và mở rộng. Không chỉ có người dân trong làng bản tổ
chức lễ hội tham gia mà có sự tham gia của các dân tộc anh em trong vùng, do
đó về cơ sở vật chất cần được sửa chữa và tu bổ, mở rộng để đáp ứng nhu cầu
đó. Những công việc mang tính hậu cần này của công tác tổ chức và quản lý lễ
hội đều cần có kinh phí lớn, mà nếu chỉ dựa vào sự đóng góp của các hộ gia đình
tham gia lễ hội trong làng thì không thể đủ kinh phí để tổ chức, trong khi đời
sống đồng bào dân tộc Cao Lan ở nhiều địa phương còn rất khó khăn. Do đó cần
có sự hỗ trợ về mặt kinh phí thông qua các chính sách của Nhà nước, đặc biệt là
chính quyền địa phương các cấp để có thêm các kinh phí tổ chức với quy mô
ngày càng đáp ứng nhu cầu tham gia lễ hội của nhân dân các dân tộc trong vùng.
- Chính sách hỗ trợ về mặt chuyên môn tổ chức lễ hội. Vì các lễ hội đình
làng của người Cao Lan chủ yếu là do các làng bản tự đứng ra tổ chức nên
không tránh khỏi việc diễn ra tự phát, không có chuyên môn nên các chương
trình diễn ra lộn xộn, không có hệ thống. Vì thế rất cần có sự quan tâm của các
cơ quan chuyên môn hỗ trợ về mặt tổ chức chương trình. Việc hỗ trợ chuyên
môn cho các lễ hội này đòi hỏi phải đảm bảo cho các chương trình của lễ hội
diễn ra đúng truyền thống, sắp xếp khoa học hơn chứ không nhằm làm biến dạng
quá nhiều hình thức của lễ hội dẫn đến làm mất đi tính truyền thống đặc trưng
của người Cao Lan. Đặc biệt là lễ hội đình làng còn có sự tham gia của các dân
tộc anh em khác trong vùng, nên việc sắp xếp thế nào cho hợp lý cần có sự
hướng dẫn của các cán bộ có kinh nghiệm tổ chức lễ hội của các cơ quan chuyên
môn về văn hoá - lễ hội.
- Chính sách khôi phục lại các lễ hội không được tổ chức trong thời gian
gần đây. Cần có nghiên cứu cụ thể về nguyên nhân dẫn đến việc các lễ hội
không được duy trì và tổ chức thường xuyên để có chính sách hỗ trợ khôi phục
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
75
lại một cách thích hợp. Chẳng hạn như hai lễ hội đình làng ở Thôn Kỳ Lãm ( xã
Đội Cấn ) và thôn Mỏ Tôm ( xã Thái Long ) hiện nay phần hội không còn được
tổ chức như trước đây mà chỉ còn duy trì phần lễ do vẫn còn duy trì thiết chế
đình làng là do nguyên nhân không có không gian tổ chức phần hội. Trước đây
phần hội thường được tổ chức trên khu đất là đồng ruộng bỏ hoang của các hộ
gia đình, nay phần đất này được sử dụng nên làng không còn địa điểm tổ chức
hội nữa. Từ đó chính quyền cấp xã cần có các chính sách hỗ trợ về địa điểm tổ
chức cho các lễ hội này bằng cách kiến nghị với cấp trên có hỗ trợ các hộ gia
đình này đất sản xuất để nhường lại khu đất để tổ chức phần hội cho các làng.
Nhóm giải pháp này đòi hỏi các chính sách phải toàn diện và đồng bộ.
Tránh tình trạng chính sách không đồng đều đối với việc tổ chức và quản lý lễ
hội đình làng của người Cao Lan tại các địa phương, làm cho sự phát triển các lễ
hội đình làng ở các địa phương quá chênh lệch về chất lượng, nội dung chương
trình của lễ hội. Đặc biệt đòi hỏi các chính sách này phải có tính khả thi cao,
phải xuất phát từ nhu cầu thực tế của người dân về tổ chức và quản lý lễ hội.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức và quản lý lễ hội truyền thống,
đặc biệt là các văn bản pháp luật về quản lý như Quy chế của Trung ương, Quy
định của địa phương đối với lễ hội. Cần có quy định cụ thể hơn của các cấp quản
lý ở địa phương đối với việc duy trì các giá trị văn hoá truyền thống trong lễ hội
của người Cao Lan, và các quy định cấm đối với các biểu hiện tiêu cực trong lễ
hội như thủ tục rườm rà, bói toán, đốt vàng mã tràn lan, cờ bạc, bắt chẹt khách
như thu vé gửi xe quá quy định, bán vé tràn lan…Những quy định cần được
hướng dẫn cụ thể hơn để các cấp quản lý thực hiện, khắc phục tình trạng có văn
bản chung mà chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện nên gây lúng túng trong
công tác tổ chức và quản lý của cấp dưới và của chính cộng đồng dân cư.
Như vậy, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức và quản lý lễ hội
theo hướng quy định cụ thể, chi tiết hơn, văn bản chung ban hành cần có văn
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
76
bản hướng dẫn thực hiện kịp thời khắc phục tình trạng thiếu văn bản hướng dẫn
như hiện nay.
3.3.3 Giải pháp về cơ chế mềm
Cơ chế mềm ở đây chính là cơ chế quản lý cộng đồng, hay cụ thể hơn là
các quy định riêng của cộng đồng thông qua các bản hương ước, quy ước của
làng bản. Đây chính là các quy định truyền thống của cộng đồng mang tính tự
quản đối với việc tổ chức và quản lý lễ hội. Tuy vậy, hiện nay hầu hết các làng
bản của người Cao Lan không còn tồn tại các bản hương ước của làng mà hầu
hết đều là các quy định không thành văn, các quy định này thường không ổn
định, có thể thay đổi theo từng kỳ tổ chức lễ hội. Tuy các quy định này không
mang tính chính thức bằng văn bản nhưng đối với việc tổ chức và quản lý lễ hội
thì đây là một dạng quy định tự quản có vai trò lớn đối với việc duy trì các lễ hội
này. Vì vậy cần duy trì loại quy định này của người Cao Lan đối với việc tổ
chức, duy trì và phát triển lễ hội đình làng của họ, đồng thời khuyến khích việc
phát triển các quy định này thành một văn ước cụ thể để duy trì trong các giai
đoạn tiếp theo. Để xây dựng được một bản quy định về tổ chức lễ hội thành văn
của người Cao Lan đòi hỏi cần có sự sưu tầm, nghiên cứu chọn lọc các quy định
phù hợp vừa giữ được tính truyền thống vừa phù hợp với hiện đại để cho các thế
hệ sau duy trì lễ hội. Việc xây dựng bản hương ước, quy ước này cần có sự tham
gia của các vị cao niên trong làng, đây chính là thế hệ còn được lưu truyền về
các quy định về lễ hội của cha ông để lại, vì thế không thể không huy động vai
trò tham gia của các cụ cao niên trong làng – thành phần chủ chốt để xây dựng
nên một bản hương ước về tổ chức lễ hội cho các thế hệ sau. Các quy định trong
bản văn ước này cần tập trung vào duy trì các yếu tố truyền thống của người Cao
Lan, đồng thời có đan xen các quy định mới để phù hợp với thực tế. Chẳng hạn
như nên có thêm các quy định cụ thể về việc tham gia các chương trình văn hoá
của các dân tộc anh em khác để giao lưu văn hoá của dân tộc mình với các dân
tộc khác, tạo nên sự phong phú trong lễ hội. Đồng thời đi đôi với xây dựng các
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
77
quy định này cũng cần có giải pháp để thực hiện như tuyên truyền cho các hộ
gia đình biết các quy định này và thực hiện, có quy định xử lý cụ thể đối với các
trường hợp không chấp hành các quy định chung này.
3.3.4 Nhóm giải pháp ƣu tiên
Để các lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan được duy trì và phát triển
theo định hướng đòi hỏi cần có các biện pháp thích hợp, cần có các giải pháp ưu
tiên trong giai đoạn hiện nay:
Trước hết cần phải tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân đặc
biệt là đồng bào dân tộc Cao Lan đối với việc duy trì và phát triển lễ hội đình
làng của dân tộc mình, đặc biệt là có ý thức duy trì tổ chức thường xuyên các lễ
hội này.
Trong việc tổ chức lễ hội cần chủ động duy trì các yếu tố văn hoá truyền thống,
đồng thời tiếp thu các yếu tố hiện đại một cách có chọn lọc, có định hướng vào
trong lễ hội. Việc duy trì và tổ chức các lễ hội đình làng là do bản thân cộng
đồng người Cao Lan quyết định, chính cộng đồng là người quyêt định nội dung,
hình thức mang tính truyền thống của lễ hội. Vì thế cần có các biện pháp nâng
cao nhận thức, tính chủ động của người Cao Lan đối với việc duy trì và phát
triển các lễ hội. Các cấp chính quyền địa phương cần có sự quan tâm sâu sát đối
với loại hình lễ hội này. Thông qua việc tuyên truyền chủ trương của Nhà nước
đối với việc duy trì và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống của các dân tộc
thiểu số trong đó có các lễ hội cho người dân. Đồng thời làm cho người dân
nhận thấy được vai trò của lễ hội đối với đời sống cộng đồng để bản thân người
Cao Lan tự chủ động duy trì và phát huy các lễ hội của mình, làm cho người dân
nhận thấy cần duy trì các sinh hoạt văn hoá truyền thống và đòi hỏi phải tổ chức
các hoạt động đó trong lễ hội, đây là yếu tố quyết định tới sự tồn tại cũng như sự
phát triển các lễ hội Đình làng trong giai đoạn hiện nay.
Nâng cao nhận thức của người Cao Lan về các quy định của pháp luật
về tổ chức và quản lý lễ hội, đặc biệt là những người đứng ra tổ chức lễ hội.
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
78
Chính quyền các cấp cũng như các cán bộ văn hoá cần có các chương trình nói
chuyện về pháp luật đối với lễ hội cho người dân hiểu và tuân theo. Đây là một
giải pháp quan trọng để người dân không tham gia, tổ chức các hành vi bị
nghiêm cấm tại lễ hội.
Tăng cường tổ chức kiểm tra giám sát việc tổ chức và quản lý lễ hội
đình làng của người Cao Lan. Thông qua các hoạt động tham gia thị sát lễ hội,
Uỷ ban Nhân dân cấp cơ sở có biện pháp phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi
vi phạm pháp luật đối với việc tổ chức và quản lý lễ hội. Đây là một biện pháp
quan trọng để hạn chế các vi phạm, các biểu hiện thiếu lành mạnh diễn ra trong
lễ hội làm cho lễ hội mất đi tính chất truyền thống và trong sáng.
Gắn kết chặt chẽ hoạt động tổ chức lễ hội đình làng truyền thống với
phong trào “ Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở ” do Trung
ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam phát động là một biện pháp hữu hiệu để nâng
cao đời sống văn hoá trong tổ chức và sinh hoạt của lễ hội.
Chú trọng đầu tư, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh tế, đặc biệt
là xoá đói giảm nghèo, nâng cao dịch vụ y tế, giáo dục cho đồng bào dân tộc
Cao Lan. Đặc biệt chú trọng khuyến nông, đầu tư cho phát triển kinh tế, hỗ trợ
việc làm cho người lao động của dân tộc Cao Lan để nâng cao đời sống vật chất
của người dân. Đây là một tiền đề quan trọng để nâng cao đời sống vật chất và
văn hoá tinh thần cho người dân, làm tiền đề cho việc nâng cao nhận thức đối
với việc bảo tồn và duy trì văn hoá truyền thống của dân tộc đối với cộng đồng
dân tộc Cao Lan. Hơn nữa đây cũng là điều kiện quan trọng để cho đồng bào
dân tộc Cao Lan có thể tham gia lễ hội nhiều hơn, có chất lượng hơn.
Như vậy để cho lễ hội đình làng truyền thống của dân tộc Cao Lan được
duy trì và phát triển đòi hỏi phải có sự kết hợp quản lý Nhà nước với vai trò của
cộng đồng. Đặc biệt chú trọng tới một số giải pháp quản lý Nhà nước mang tính
cấp thiết trong giai đoạn hiện nay để tránh hiện tượng mai một lễ hội đình làng ở
một số nơi trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang như đã nêu trên. Đồng thời khắc phục
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
79
hiện tượng một số lễ hội diễn ra một cách tự phát, không đúng mục tiêu và bị
biến dạng quá nhiều so với truyền thống.
Từ tính chất cũng như những thực tế của lễ hội Đình làng của người Cao
Lan cho thấy hiện nay vấn đề quản lý Nhà nước cần tập trung sâu sắc vào việc
ban hành các chính sách hỗ trợ của các cấp chính quyền là chủ yếu. Đây là nhu
cầu cấp thiết nhất của các lễ hội, do còn thiếu điều kiện để tổ chức nên cái cần
nhất của việc duy trì và phát triển lễ hội đình làng ở đây là Nhà nước quan tâm
tạo điều kiện về mọi mặt để duy trì và phát triển nó. Do đó, có thể thấy vai trò
của Nhà nước cụ thể là các cấp chính quyền địa phương đối với việc duy trì và
phát triển các lễ hội đình làng của người Cao Lan chính là một chất xúc tác quan
trọng để các lễ hội diễn ra thường xuyên và ngày càng phát triển, phát huy vai
trò quan trọng đối với đời sống của đồng bào dân tộc Cao Lan nói riêng và của
nhân dân các dân tộc nói chung. Không có chất xúc tác này, bản thân cộng đồng
người Cao Lan không thể tự mình khôi phục, duy trì và phát triển được lễ hội
đình làng của mình theo hướng bảo vệ và phát huy các giá trị văn hoá truyền
thống của dân tộc mình trong các lễ hội. Điều này cho thấy vai trò hết sức quan
trọng của quản lý Nhà nước trong việc duy trì và phát triển lễ hội đình làng của
dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang hiện nay.
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
80
KẾT LUẬN
Lễ hội đình làng là một hoạt động sinh hoạt văn hoá truyền thống độc đáo
của dân tộc Cao Lan, vừa có ý nghĩa to lớn đối với đồng bào dân tộc Cao Lan
vừa có ý nghĩa to lớn đối với nhân dân các dân tộc anh em trong vùng. Cùng với
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo tồn và phát triển văn hoá
truyền thống trong đó có lễ hội truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số thì lễ
hội đình làng của dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang càng có điều kiện được bảo
tồn và phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng. Đây chính là một điều kiện
thuận lợi để cho các lễ hội này phát huy được vai trò và ý nghĩa to lớn của mình
đối với đời sống kinh tế - xã hội của nhân dân. Việc hỗ trợ từ phía Nhà nước để
cho lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan được bảo tồn và phát triển cũng chính
là một biện pháp để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hoá và nâng cao đời sống
tinh thần cho người dân nói chung và đồng bào dân tộc Cao Lan nói riêng.
Quản lý Nhà nước đối với lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan là một
biện pháp quan trọng để các lễ hội này diễn ra có định hướng, có mục tiêu, đặc
biệt là vừa giữ được các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc Cao Lan vừa
tiếp thu có chọn lọc các yếu tố hiện đại phù hợp với nhu cầu của người dân cũng
như quá trình phát triển. Từ những thực trạng về tổ chức và quản lý lễ hội đình
làng cho thấy việc quản lý Nhà nước đối với hoạt động này là nhu cầu khách
quan của cộng đồng dân tộc Cao Lan nói riêng và cả xã hội nói chung. Do đó có
thể nói các giải pháp quản lý Nhà nước được đưa ra của khoá luận là phù hợp
với nhu cầu thực tế của quản lý Nhà nước hiện nay đối với việc giữ gìn và phát
triển các lễ hội này.
Vấn đề giữ gìn và phát triển các lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan tuy
chỉ là một bộ phận nhỏ của việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá truyền
thống của dân tộc Cao Lan nói riêng và của các dân tộc thiểu số Tuyên Quang
nói chung nhưng lại có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc bảo tồn và phát huy văn
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
http://hanhchinh.com.vn – Sinh viên Học viện Hành chính
81
hoá truyền thống của dân tộc Cao Lan cũng như văn hoá truyền thống của Tuyên
Quang. Bởi lẽ, lễ hội đình làng được duy trì và phát triển đồng nghĩa với các giá
trị văn hoá truyền thống của dân tộc Cao Lan cũng được bảo tồn và phát huy vì
lễ hội đình làng là nơi lưu giữ và biểu hiện hầu hết các giá trị văn hoá của dân
tộc Cao Lan. Do đó, quản lý Nhà nước đối với lễ hội đình làng để duy trì và phát
triển nó là một hoạt động hết sức quan trọng, mang ý nghĩa rộng lớn đối với việc
bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống của các dân tộc thiểu số nói chung ở
Tuyên Quang.
Với phạm vi nghiên cứu là một khoá luận tốt nghiệp, chủ yếu tập trung áp
dụng lý thuyết cho một thực tiễn quản lý cụ thể về văn hoá - lễ hội, cùng với
nhiều hạn chế và một số khó khăn trong nghiên cứu nên tác giả chỉ mạnh dạn
đưa ra một số giải pháp cơ bản nhất mang tính chất kiến nghị đối với việc tổ
chức và quản lý lễ hội nhằm mục đích duy trì và phát triển các lễ hội đình làng
của dân tộc Cao Lan trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng hiện nay ở
Tuyên Quang. Hy vọng các giải pháp kiến nghị trên đây được các cấp các ngành
có chức năng quản lý Nhà nước đối với việc duy trì và phát triển lễ hội đình làng
của người Cao Lan ở Tuyên Quang lưu tâm và vận dụng cho hoạt động quản lý
trên thực tiễn.
Mặc dù đã cố gắng nghiên cứu vấn đề trên nhiều phương diện nhưng chắc
chắn khoá luận không tránh khỏi các thiếu sót, do nhiều nguyên nhân khách
quan và chủ quan. Vì vậy, tác giả mong nhận được các ý kiến đóng góp để vấn
đề nghiên cứu được hoàn thiện hơn và có ích trong thực tế.