Upload
thaodinh83
View
645
Download
4
Embed Size (px)
Citation preview
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH Tế NGOạI THươNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÀNH MÍA ĐƯỜNG
VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ:THỰC
TRẠNG VÀ GIẢI PHÁPGiáo viên hướng dẫn : PGS.TS. Nguyễn Phúc
KhanhSinh viên thực hiện : Phùng Nguyệt Minh Lớp : A13
- K38 Hà Nội - 2003Mục lục
TrangMở đầu
1Chương 1: Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam và 3mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành mía
đường1.1 Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
31.1.1 Hội nhập kinh tế quốc tế – Xu thế tất yếu đối với Việt Nam
31.1.2 Đặc trưng cơ bản của tiến trình hội nhập
51.1.3 Những kết quả ban đầu của Việt Nam trong tiến trình hội
8 nhập vào khu vực và thế giới.1.2 Tác động của hội nhập
kinh tế quốc tế đến ngành mía đường 121.2.1 Lộ trình cam kết
121.2.2 Các tác động
131.3 Khái niệm về cạnh tranh và năng
lực cạnh tranh 151.3.1 Khái niệm về cạnh tranh
151.3.2 Khái niệm về năng lực cạnh tranh
161.4 Xây dựng mô hình đánh giá năng lực
cạnh tranh của ngành 18 mía đường Việt Nam1.4.1 Các phương
2
pháp đánh giá năng lực cạnh tranh của một ngành 181.4.2 Mô hình đánh giá
năng lực cạnh tranh của ngành mía đường 20 Việt Nam Chương 2: Đánh
giá thực trạng năng lực cạnh tranh của ngành mía 26đường Việt Nam bằng mô
hình trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế Năng lực sản xuất
262.1.1 Điều kiện sản xuất
262.1.2 Kết quả năng lực sản xuất
332.2 Thị trường tiêu thụ
452.2.1 Thị trường trong nước
452.2.2 Thị trường thế giới
482.3 Đối thủ cạnh tranh và sản phẩm bổ sung, thay thế
502.3.1 Đối thủ cạnh tranh
502.3.2 Sản phẩm bổ sung, thay thế
542.4 Các ngành hỗ trợ, liên quan
572.4.1 Các ngành công nghiệp chế biến các sản phẩm sau đường
572.4.2 Các ngành liên quan đến cơ sở hạ tầng
582.5 Môi trường cơ chế, chính sách
592.5.1 Những thuận lợi
592.5.2 Các hạn chế
60Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành mía
64đường Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế3.1 Các định
hướng lớn của ngành mía đường Việt Nam trong quá 64trình hội nhập kinh
tế quốc tế 3.1.1 Định hướng hội nhập
643.1.2 Định hướng phát triển
663.1.3 Định hướng cạnh tranh
673.2 Nhóm giải pháp Vĩ mô nâng cao năng lực cạnh tranh của
ngành 69mía đường Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
3.2.1 Nhóm giải pháp về Khung khổ pháp lý 693.2.2
Nhóm giải pháp về Chính sách giá cả 703.2.3
Nhóm giải pháp về Chính sách tài chính 713.2.4
3
Nhóm các chính sách khác 723.3
Nhóm giải pháp Vi mô nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành
74mía đường Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
3.3.1 Nhóm giải pháp về Nguyên liệu và Kỹ thuật canh tác
743.3.2 Nhóm giải pháp về Chất lượng và Sản phẩm
763.3.3 Nhóm giải pháp về Giá cả
793.3.4 Nhóm giải pháp về Thị trường
80 3.3.5 Nhóm các giải pháp khác
82 Kết
luận 84
4
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắtADB : Ngân hàng phát triển Châu
áAFTA : Khu vực mậu dịch tự do ASEAN APEC : Diễn
đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình DươngASEAN : Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam áASEM : Diễn đàn hợp tác á - ÂuBTA :
Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ CEPT : Hiệp định thuế quan
ưu đãi có hiệu lực chung ASEANHHMĐVN : Hiệp hội mía đường Việt Nam
IMF : Quỹ tiền tệ quốc tế WB : Ngân hàng thế giới WTO
: Tổ chức thương mại thế giới
5
Mở đầuTrong thời đại mà công nghệ thông tin và giao thông khiến cho thế giới
có vẻ nhỏ đi, các doanh nghiệp, các ngành công nghiệp và thậm chí các Chính
phủ cũng phải học để có thể cạnh tranh và hội nhập với nền kinh tế thế giới.
Việt Nam là một quốc gia còn nhiều hạn chế về tiềm lực kinh tế song Việt Nam
xác định không thể đứng ngoài xu thế tất yếu của quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế. Vấn đề đặt ra là hội nhập với lộ trình như thế nào và mức độ ra sao để
các ngành có quy mô, trình độ khác nhau, có năng lực cạnh tranh và lợi thế so
sánh khác nhau vẫn có thể vượt qua những thách thức và tận dụng được những
cơ hội do hội nhập đem lại.Ngành mía đường Việt Nam đã thực sự phát triển
sau khi Chương trình mía đường ra đời vào năm 1995 với mục tiêu sản xuất 1
triệu tấn đường thay thế nhập khẩu. Từ đó tới nay, mục tiêu về sản lượng đã
hoàn thành. Song một nghịch lý đang tồn tại là ngành mía đường tuy có nhiều
lợi thế về đất đai, khí hậu, nguồn lực vậy mà giá đường sản xuất trong nước vẫn
quá cao, năng suất công nghiệp thấp, chất lượng hạn chế, mía nguyên liệu lúc
thiếu lúc thừa, các nhà máy lỗ nhiều hơn lãi, đường nhập lậu tràn lan trên thị
trường… Trong khi đó, lộ trình cắt giảm thuế quan và hàng rào phi thuế quan
theo cam kết hội nhập AFTA đang đến rất gần. Nguy cơ bị cạnh tranh gay gắt từ
các đối thủ trong khu vực và thế giới đã hiển hiện. Vậy thực trạng năng lực cạnh
tranh của ngành mía đường Việt Nam hiện nay ra sao? Ngành mía đường cần
làm gì để có thể tự cứu sống mình và vươn lên cạnh tranh thắng lợi trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế ? Trước những câu hỏi bức súc đó, tác giả đã
mạnh dạn chọn đề tài khóa luận của mình là: “Nâng cao năng lực cạnh tranh
của ngành mía đường Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế: Thực
trạng và giải pháp”Kết cấu khóa luận được chia thành 3 phần lớn:Chương 1:
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam và mô hình đánh giá
năng lực cạnh tranh của ngành mía đườngChương 2: Đánh giá thực trạng
năng lực cạnh tranh của ngành mía đường Việt Nam bằng mô hình trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh
tranh của ngành mía đường Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
6
tếĐối tượng và phạm vi nghiên cứu xuyên suốt khóa luận là Năng lực cạnh
tranh quốc tế của ngành mía đường Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1995 đến
nay. Với nỗ lực tìm tòi, nghiên cứu bước đầu của mình, tác giả hy vọng có thể
làm sáng tỏ những câu hỏi lớn đang đặt ra về năng lực cạnh tranh của ngành
cũng như góp một tiếng nói nhỏ vào yêu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh của
ngành mía đường Việt Nam trước quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.Tác giả xin
trân trọng cảm ơn Thầy giáo – Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Phúc Khanh về sự
hướng dẫn hết sức tận tình và quý báu đối với tác giả trong suốt quá trình hoàn
thành khóa luận. Tác giả cũng xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo
Trường Đại học Ngoại Thương, gia đình và những người bạn đã giúp đỡ tác giả
trong thời gian qua.
7
Chương 1Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam và mô hình đánh giá
năng lực cạnh tranh củangành mía đường1.1 Quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam 1.1.1 Hội nhập kinh tế quốc tế – Xu thế tất yếu đối với
Việt Nam Hội nhập là một yếu tố khách quan, phù hợp với xu thế chungNgày
nay, toàn cầu hóa và khu vực hóa kinh tế đã trở thành một xu thế chủ yếu trong
quan hệ kinh tế quốc tế hiện đại. Mỗi quốc gia, dù lớn hay nhỏ, dù đang phát
triển hay phát triển, đều đang điều chỉnh chính sách của mình theo hướng mở
cửa, giảm dần và tiến tới dỡ bỏ hàng rào thuế quan, phi thuế quan để hội nhập
sâu hơn vào nền kinh tế quốc tế. Có ba nguyên nhân chính dẫn tới xu thế
này:Thứ nhất, những tiến bộ vượt bậc của cuộc cách mạng khoa học công nghệ,
đặc biệt trong lĩnh vực viễn thông, tin học, sinh học, vật liệu mới… đã làm tăng
nhanh sự phát triển lực lượng sản xuất, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế thế giới và sản xuất được quốc tế hóa cao độ. Xu thế khách quan đó đòi
hỏi có sự hợp tác ngày một sâu rộng, chặt chẽ của mọi quốc gia trên thế giới,
đồng nghĩa với nó là sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, các nền kinh tế
cũng ngày càng tăng. Thứ hai, sự lớn mạnh của các công ty đa quốc gia đã thúc
đẩy mạnh mẽ quá trình chuyên môn hóa, hợp tác và liên kết kinh tế giữa các
quốc gia, dẫn đến phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc.Thứ ba, nhiều
vấn nạn mang tính toàn cầu như suy thoái môi trường, bùng nổ dân số, khủng
bố, bệnh tật… đã và đang buộc cộng đồng thế giới phải đối mặt với những khó
khăn mà không một quốc gia riêng lẻ nào có thể giải quyết.Hơn thế, xu thế toàn
cầu hóa và khu vực hóa đang diễn ra với quy mô rộng lớn, tốc độ ngày càng cao
và chi phối tất cả hoạt động của đời sống con người. Vòng đàm phán U-ru-goay
kết thúc, Hiệp định Ma-ra-két được ký kết, Tổ chức thương mại thế giới (WTO)
ra đời từ 01/01/1995 đã thu hút sự tham gia của 136 và tới nay là 148 quốc gia
và lãnh thổ, chiếm gần 100% kim ngạch buôn bán quốc tế. Bên cạnh sự ra đời
của WTO, nhiều mối liên kết toàn châu lục và liên châu lục đã được hình
thành: Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á-Thái Bình Dương (APEC), Chương
trình phát triển xuyên Đại Tây Dương, Hội nghị á-Âu (ASEM), Tổ chức hợp tác
8
và phát triển 14 nước ven ấn Độ Dương… ở cấp độ thấp hơn, các tổ chức tiểu
vùng, khu vực và liên khu vực, các mối liên kết tay đôi, tay ba, các tam, tứ giác
phát triển, các khu vực mậu dịch tự do như AFTA, NAFTA, MERCOSUR... cũng
đang gắn kết nhau lại để cùng phát triển. Như vậy, xu hướng hội nhập đã cuốn
theo tất cả các nền kinh tế, hoặc là chủ động tham gia hoặc là bị động lôi cuốn.
Không một quốc gia nào có thể phát triển mà đi theo chủ nghĩa biệt lập, dù là
những nước giàu có như Hoa Kỳ hay đông dân như Trung Quốc. Thế giới đã
chứng minh sự thất bại của các chiến lược phát triển kinh tế theo hướng đóng
cửa, khép kín và thế giới cũng đã chứng kiến sự thành công ngoạn mục của
những nền kinh tế mở cửa, hướng về xuất khẩu. Trước làn sóng phát triển mạnh
mẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam không thể đứng ngoài cuộc!Việt
Nam với hội nhập Trong bối cảnh trên, việc Việt Nam chủ động hội nhập vào
nền kinh tế thế giới là một xu thế tất yếu khách quan, phù hợp quy luật phát
triển và yêu cầu của thời đại. Tuy nhiên, hội nhập như thế nào, bằng cách nào
và với mức độ như thế nào, điều đó còn xuất phát từ khả năng thực tế, trình độ
phát triển và chủ trương, chính sách của quốc gia. Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam (1992) với chủ trương đa phương hóa,
đa dạng hóa quan hệ kinh tế đã đánh dấu bước khởi đầu mang tính tất yếu cho
tiến trình hội nhập của Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đảng VIII tiếp tục khẳng
định: “Các quốc gia lớn, nhỏ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác,
liên kết khu vực, liên kết quốc tế về kinh tế, thương mại… chúng ta chủ trương
mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các
nước, các tổ chức quốc tế và khu vực…”. Mới đây nhất, Đại hội Đảng IX một
lần nữa đặt ra yêu cầu: “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh
thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc
lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa”. Sự chủ động được thể hiện trong
việc lựa chọn các tổ chức, các đối tác ta có quan hệ và thời điểm tham gia. Tính
chủ động hội nhập còn được thể hiện qua chủ động xây dựng lộ trình hợp lý,
chủ động điều chỉnh luật pháp và chính sách phù hợp, chủ động tổ chức sản
9
xuất và điều hành kinh tế trong nước, không ngừng nâng cao năng lực cạnh
tranh không chỉ ở thị trường trong nước mà còn ở khu vực và trên thế giới. Nói
cách khác, tính chủ động được thể hiện trong việc chọn “sân chơi” và cách chơi
theo “luật chơi” chung. Như vậy, độc lập tự chủ là cơ sở để chúng ta thực hiện
đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa. Song ngược lại, chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực chính là sự bổ sung và hỗ trợ cần thiết
cho Việt Nam trong việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, theo định hướng
Xã hội chủ nghĩa. Điều này một lần nữa khẳng định hội nhập kinh tế quốc tế
trong thời đại hiện nay đã trở thành xu thế mang tính tất yếu khách quan đối với
mọi quốc gia và lãnh thổ trên thế giới, trong đó đương nhiên có Việt Nam. 1.1.2
Đặc trưng cơ bản của tiến trình hội nhậpHội nhập kinh tế quốc tế là xu thế
không thể đảo ngược. Hơn bao giờ hết, đây là thời điểm các quốc gia cần có
một cái nhìn khách quan và công bằng về tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, từ
đó đưa ra những quyết định sáng suốt cho sự phát triển của chính mình. Một
trong những yếu tố hàng đầu các quốc gia cần nhận thức được là những đặc
trưng cơ bản của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. 1.1.2.1 Sự tự do lưu chuyển
các nguồn lựcSự tự do lưu chuyển các nguồn lực diễn ra một cách nhanh
chóg,với quy _ô lớn trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Nguồn lực ở đây chủ
yếu bao gồm các luồng vốn và lao động, hai yếu tố cơ bản của nền kinh tế. Hai
yếu tố này tạo nên cung và cầI,Ålà lý do²và phương tiện để cho các hoạt động
kinh tế có thể tồn tại và phát triển. Sự di chuyển của hai nguồn lực này thường
ngược chiều nhau: các luồng vốn đi từ các nước phát triển đến các nqớc đang
phátptriển và thị trường mới nổi, trong khi các nguồn nhân lực lại di chuyển từ
các nước đang phát triển đến các nước phát triển. Tuy nhiên, dòng lưu chuyển
nhân lực theo hướng này đã dần chậm lại do nguồn nhân lực của các nước đang
phát triển đa phần là trình độ thấp, kỹ năng lao động chưa cao. 1.1.2.2 Tính
cạnh tranh caoCạnh tranh ồà một quy luật thị trường, nó tồnÊtại trướN khi các
nền kinh tế biết đến tiến trình hội nhập. Tuy nhiên, trước xu thế toàn cầu hóa
diễn ra mạnh mẽ, đặc tính cạnh tranh trở nên rõ rệt ~à quyết liệt hơn bao giờ
10
hết. Những hiệp đểnh, những thỏa thuận hợp tác khiến cho đường biên giới quốc
gia trong các giao dịch thương mại, tài chính, ngân hàng hầu như không còn
tồn tại. Các doanh nghiệp có cơ hội ngang nhau trong việc tiếp cận các thị
trường hàng hóa và thị trường vốn mà trước đây họ chưa thể xâm nhập. Những
lợi ích thu được từ tiến trình hội nhập khiến cho các doanh nghiệp cần cạnh
tranh với nhau một cách gay gắt hơn để tồn tại và phát triển. Sự cạnh tranh
không còn giới hạn trong thị trường nội địa nữa mà ngày càng được quốc tế
hóa. Cũng từ nhận thức này mà trong Quan điểm chỉ đạo hội nhập kinh tế quốc
tế, Đảng ta đã chỉ rõ: hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu
tranh và cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh
táo, khôn khéo và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt của hội nhập tùy theo
đối tượng, vấn đề, trường hợp, thời điểm cụ thể…1.1.2.3 Các chuẩn mực quốc tế
với vai trò là một ngôn ngữ chung cho các nền kinh tếCác chuẩn mực và thông
lệ quốc tế là ngôn ngữ chung để các nền kinh tế có thể tiếp cận và giao lưu với
nhau. Bởi vậy, một trong những đặc trưng của tiến trình hội nhập là việc tiếp
cận các chuẩn mực quốc tế. Trước khi nghĩ đến việc mở rộng phạm vi hoạt động
ra thị trường thế giới, các doanh nghiệp, các định chế tài chính đều phải cân
nhắc xem liệu mình đã đáp ứng được những tiêu chuẩn, quy định của thị trường
đó hay chưa. Tương tự, một quốc gia muốn mở cửa thì cũng phải rà soát lại
khuôn khổ pháp lý và những quy định của mình sao cho phù hợp với việc tiếp
nhận các luồng đầu tư của doanh nghiệp nước ngoài. Ngày nay, hầu hết các
nước tham gia vào quá trình hội nhập đang nỗ lực hoàn thiện khuôn khổ pháp
luật và quản lý trong nước. Đồng thời các nước này cũng tìm cách kết hợp với
các quốc gia khác trong khu vực nhằm tạo ra một tập hợp những thông lệ,
chuẩn mực sử dụng chung cho khu vực và tiến gần đến với các tiêu chuẩn quốc
tế. 1.1.2.4 Rủi ro lớn đi đôi với hiệu quả kinh tế caoĐặc trưng cuối cùng của hội
nhập là rủi ro cao đi liền với hiệu quả kinh tế cao. Các luồng vốn toàn cầu đã
mang lại cho các quốc gia đang phát triển cơ hội đáp ứng chi tiêu và phát triển
các loại hình đầu tư của mình. Tuy nhiên, cái giá phải đánh đổi là những rủi ro
11
và chi phí nhất định luôn đi kèm với các luồng vốn như những biến động tài
chính, nguy cơ mất ổn định hệ thống, khả năng biến dạng thị trường, suy yếu
một số ngành công nghiệp trong nước do không đủ sức cạnh tranh, nguy cơ lệ
thuộc vào nước ngoài và mất chủ quyền quốc gia. Trong đó, rủi ro lớn nhất là
khủng hoảng tài chính tiền tệ. Bởi trong môi trường hội nhập, một cuộc khủng
hoảng có khả năng lan truyền nhanh chóng từ thị trường này sang thị trường
khác, từ khu vực này sang khu vực khác và khó có nỗ lực của riêng một quốc gia
nào có thể ngăn chặn. Một cuộc khủng hoảng như vậy có thể kéo theo tình trạng
mất niềm tin và sự đào thoát của những luồng vốn quốc tế trong một khoảng
thời gian rất ngắn. Trong cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở châu á vào năm
1997, tổng số vốn đào thoát khỏi các nước khu vực này (không kể Nhật bản) đã
lên tới 11 tỷ USD. Vấn đề đặt ra trước những quốc gia muốn tham gia vào quá
trình hội nhập là làm thế nào để tận dụng một cách thành công những lợi ích
của các luồng vốn trong khi vẫn kiểm soát được các rủi ro kèm theo. Tóm lại,
những đặc trưng trên là điều kiện đầu tiên mà các quốc gia cần ghi nhớ khi
bước chân vào tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Có như vậy từng quốc gia
khác nhau mới có thể thiết lập một chiến lược hội nhập thích hợp nhất, đem lại
hiệu quả kinh tế tối ưu. 1.1.3 Những kết quả ban đầu của Việt Nam trong tiến
trình hội nhập vào khu vực và thế giới.Với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế, Việt Nam đã đạt được những
bước tiến quan trọng và cần thiết trong tiến trình hội nhập vào khu vực và thế
giới. Sau gần 18 năm đổi mới, phát huy nội lực và hội nhập với nền kinh tế thế
giới, nền kinh tế nước ta đã đạt được một tốc độ tăng trưởng khá nhanh và ổn
định, tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động và tăng nguồn thu cho
ngân sách nhà nước. Chúng ta không những đã khắc phục và thoát ra khỏi
khủng hoảng kinh tế xã hội mà còn mở rộng được thị trường xuất nhập khẩu.
Trong giai đoạn 1990-2002, kim ngạch xuất khẩu đã tăng trung bình trên 20%
mỗi năm. Bên cạnh đó, sự ra đời của Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài (vào
tháng 12/1987) đã tạo ra một động lực lớn cho sự phát triển của nền kinh tế.
12
Cho đến nay, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp được 12-
13% GDP, 20% kim ngạch xuất khẩu, 30% giá trị sản lượng công nghiệp, 7-8%
thu nhập của ngân sách và giải quyết việc làm cho khoảng 40 vạn lao động trực
tiếp cùng hàng chục vạn lao động gián tiếp. Ngoài ra, Việt Nam cũng tranh thủ
được nguồn viện trợ phát triển không chính thức (ODA) ngày càng lớn. Tính
đến năm 2002, các nhà tài trợ (gồm một số nước và một số định chế tài chính)
đã cam kết dành cho Việt Nam gần 20 tỷ USD, chủ yếu là cho vay ưu đãi với lãi
suất từ 0,75% -2,5% và một phần là viện trợ không hoàn lại. Bên cạnh những
kết quả về mặt vật chất, trong những năm thực hiện đường lối đổi mới, chúng ta
cũng đã tạo ra được “thế” và “lực” mới. Hiện nay, Việt Nam đã thiết lập quan
hệ ngoại giao với khoảng 170 quốc gia trên thế giới, phát triển quan hệ thương
mại với gần 140 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong đó không thể không kể tới
mối quan hệ hợp tác ngày càng có hiệu quả với các tổ chức và thể chế tài chính
tiền tệ quốc tế như WB, IMF, ADB… ASEANGia nhập Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam á (ASEAN) đã đánh dấu sự mở đầu có tính chất đột phá trong tiến
trình hội nhập quốc tế của Việt Nam. Sau 3 năm là quan sát viên kể từ tháng
7/1992, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của ASEAN vào tháng
7/1995. Với những đóng góp tích cực và chủ động của mình, Việt Nam đồng thời
trở thành thành viên của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và đã thực
hiện trọn vẹn cam kết theo Chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung
(CEPT) ngay trong hai năm 1996-1997. Đầu năm 1998, Việt Nam đã chính thức
công bố lịch trình cắt giảm thuế quan tổng thể gồm 2.265 mặt hàng. Nước ta
cũng tích cực tham gia các hoạt động khác của ASEAN như thông qua Tầm nhìn
2020, xây dựng Khu vực đầu tư ASEAN (AIA), thúc đẩy Chương trình hợp tác
công nghiệp ASEAN (AICO).APEC Trở thành thành viên của Diễn đàn hợp tác
kinh tế Châu á-Thái Bình Dương (APEC) là bước nhảy vọt thứ hai của ngoại
giao Việt Nam, mở ra những hướng phát triển mới trong tiến trình hội nhập.
Việt Nam nộp đơn gia nhập APEC vào tháng 6/1996 và được kết nạp làm thành
viên chính thức của Diễn đàn vào tháng 11/1998. Từ một môi trường ASEAN chỉ
13
có 10 nước thành viên sang môi trường gồm 21 nước của khu vực Châu á-Thái
Bình Dương, Việt Nam đã có một bước chuyển mình đáng kể. Vị trí của Việt
Nam ở Châu á-Thái Bình Dương và trên trường quốc tế được nâng cao. Hơn
thế, hoạt động trong APEC cũng tạo tiền đề thuận lợi và là một bước chuẩn bị
cho Việt Nam tham gia Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Mục tiêu của APEC
là tự do mậu dịch và đầu tư vào năm 2010 và 2020, bởi vậy diễn đàn khu vực
này cam kết mọi hoạt động sẽ phù hợp với các quy định và nguyên tắc của WTO.
Tuy tham gia APEC với thời gian chưa dài và nền kinh tế còn nhiều khó khăn
song Việt Nam luôn cho thấy một ý thức, nỗ lực cao trong việc thực hiện và
tham gia các chương trình hoạt động của diễn đàn. Việc thực hiện Kế hoạch
hành động quốc gia (IAP) của Việt Nam được đánh giá là nghiêm túc nhất trong
số các thành viên mới gia nhập, củng cố thêm sự tin tưởng của các quốc gia trên
thế giới vào chính sách mở cửa và hội nhập của nước ta.ASEM Tháng 3/1996,
Việt Nam tham gia Diễn đàn hợp tác á-âu với tư cách là một trong những thành
viên sáng lập. Khi ASEM ra đời, lần đầu tiên thế giới đã chứng kiến một cơ chế
hợp tác liên châu lục: châu á-châu âu. Diễn đàn ASEM 1 tại Băngcốc đã đánh
dấu sự gặp gỡ giữa các nguyên thủ quốc gia của 7 nước ASEAN, 15 nước EU và
ba cường quốc Mỹ, Nhật, Trung Quốc, khép kín cạnh thứ ba trong tam giác Bắc
Mỹ–EU–Châu á. Mục tiêu chung của ASEM là thúc đẩy đối thoại chính trị, xây
dựng quan hệ hợp tác sâu rộng và toàn diện giữa hai châu lục, tăng cường hợp
tác trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật, môi trường, phát triển nguồn nhân lực. Và
mục tiêu chính của Việt Nam trong tổ chức này là xúc tiến mở rộng thị trường
thương mại, đầu tư, hợp tác kinh tế, khoa học, kỹ thuật trên cơ sở cùng có lợi.
Tại hội nghị cao cấp lần 2 của diễn đàn được tổ chức tại Lônđôn, sáng kiến của
Việt Nam về “Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa” và “Kết hợp y dược cổ
truyền và y dược hiện đại trong chăm sóc sức khỏe cộng đồng” đã được hoan
nghênh nhiệt liệt và được đưa vào chương trình hợp tác chính thức của ASEM.
Ngoài ra, Việt Nam tham gia tích cực các chương trình hoạt động khác của diễn
đàn như Kế hoạch hành động thuận lợi hóa thương mại (TFAP), Kế hoạch hành
14
động xúc tiến đầu tư (IPAP)…Đàm phán gia nhập WTOTổ chức thương mại thế
giới (WTO) là một tổ chức quốc tế lớn mang quy mô toàn cầu và chiếm tới gần
100% tổng giá trị thương mại thế giới. Các nguyên tắc cơ bản của WTO như
nguyên tắc Tối huệ quốc, Đãi ngộ quốc dân đã được áp dụng ở hầu hết các
nước trên thế giới, kể cả các nước chưa phải là thành viên của tổ chức này.
Tháng 1/1995, Việt Nam đã chính thức nộp đơn xin gia nhập WTO. Tháng
7/1996 Việt Nam đã thông báo với WTO về chính sách thương mại của mình,
hoàn tất việc trả lời các câu hỏi của các nước thành viên. Tháng 7/1998, Việt
Nam đã tiến hành phiên họp đầu tiên với WTO về minh bạch hóa chính sách
thương mại và hàng hóa. Cho đến nay, Việt Nam đã đưa ra được chương trình
thể chế hóa pháp luật và tiến hành xây dựng một số tài liệu theo mẫu quy định
của WTO. Việt Nam đang tích cực chuẩn bị cho các phiên họp tới theo hướng
tiếp tục minh bạch hóa chính sách và sẽ tiến hành các cuộc đàm phán song
phương với một số thành viên WTO như EU, Thụy Sỹ, Mỹ, ác-hen-ti-na, Hàn
Quốc… Tất cả những nỗ lực trên đây thể hiện quyết tâm lớn của Việt Nam gia
nhập vào WTO và hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới.BTAHiệp định
thương mại Việt Nam–Hoa Kỳ (BTA) có thể coi là sự thể hiện cao nhất cho chủ
trương “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới”. Trải qua 9
vòng đàm phán kéo dài từ tháng 6/1996, vào tháng 7/2000 tại Washington, Bộ
trưởng thương mại Việt Nam Vũ Khoan đã ký Hiệp định thương mại Việt Nam–
Hoa Kỳ, mở ra cơ hội lớn cho Việt Nam và đánh dấu một giai đoạn mới trong
phát triển quan hệ kinh tế, thương mại giữa hai nước. Cốt lõi của các cam kết
trong Hiệp định này là các bên dành cho nhau Quy chế tối huệ quốc (MNF),
từng bước giảm thuế nhập khẩu, mở cửa thị trường cho nhau, từng bước tạo sự
bình đẳng giữa các công ty trong và ngoài nước, phù hợp với yêu cầu của Chế
độ đãi ngộ quốc gia (NT), bảo vệ quyền tác giả, sở hữu công nghiệp, quyền sở
hữu trí tuệ. Vì Việt Nam là nước đang phát triển ở trình độ thấp, lại đang trong
quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế nên lộ trình thực hiện các cam kết là từ 3-10
năm sau khi Hiệp định có hiệu lực. Nói cách khác, Hoa Kỳ chấp nhận Việt Nam
15
có một lộ trình mở cửa thích hợp cho từng lĩnh vực. Tóm lại, hội nhập kinh tế
quốc tế là một tất yếu khách quan và hội nhập mang lại cho mỗi nước tham gia
những lợi ích to lớn. Vấn đề đặt ra là Việt Nam phải lựa chọn cho mình một lộ
trình hội nhập thế nào và mức độ hội nhập ra sao để có thể mang lại lợi ích tối
đa với cái giá phải trả là tối thiểu. Điều này đòi hỏi nhận thức rõ ràng về những
đặc trưng cơ bản của tiến trình hội nhập, kết hợp với hoàn cảnh kinh tế, chính
trị, xã hội của đất nước. Quan trọng nhất là Việt Nam cần nỗ lực hết sức để có
thể nhanh chóng hòa nhập và phát triển cùng nền kinh tế thế giới song vẫn bảo
vệ được độc lập, chủ quyền và định hướng xã hội chủ nghĩa của mình.1.2 Tác
động của hội nhập kinh tế quốc tế đến ngành mía đường 1.2.1 Lộ trình cam
kết:Trong khuôn khổ mậu dịch tự do AFTA, Việt Nam cam kết tới năm 2003,
thuế suất nhập khẩu đối với tất cả các mặt hàng không vượt quá 20%, đồng thời
các hạn chế định lượng phải bị loại bỏ. Tuy nhiên, 51 nông sản thuộc Danh mục
nông sản chưa chế biến nhạy cảm (SEL) như gạo, cam, quýt, bưởi… có thời hạn
cắt giảm thuế quan và hàng rào phi thuế quan chậm hơn. Đường là mặt hàng
nằm trong danh mục SEL nên hàng rào thuế quan và phi thuế quan sẽ cắt giảm
từ năm 2006. Như vậy, từ năm 2006, thuế suất đối với các sản phẩm đường sẽ
không vượt quá 5%. Mức thuế suất này sẽ giảm dần trong các năm tiếp theo và
đến năm 2010 sẽ đạt mức 0%, đồng thời mọi hàng rào phi thuế quan đều phải
bãi bỏ. Từ thời điểm đó, các thành viên AFTA có thể tiếp cận thị trường mía
đường Việt Nam một cách dễ dàng mà không bị cản trở bởi các hàng rào phi
thuế quan và mức thuế suất cao. So với lộ trình AFTA, các cam kết liên quan
đến nông nghiệp của Hiệp định thương mại Việt Nam–Hoa Kỳ có thời hạn thực
hiện dài hơn. Tuy nhiên, mức tự do hóa trong cam kết này lại cao hơn so với
Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) và AFTA. Ngoài ra,
hiện nay Việt Nam đang tích cực chuẩn bị phương án đàm phán gia nhập WTO.
Cần phải mất vài năm mới có thể đạt được những cam kết về điều kiện gia nhập
mà cả Việt Nam và hơn 140 thành viên WTO cùng thỏa mãn. Nhưng nhìn chung,
ngành mía đường Việt Nam vẫn phải tuân thủ theo tất cả các quy định về thuế
16
quan, hàng rào phi thuế quan, về trợ cấp trong nước hay hỗ trợ xuất khẩu của tổ
chức này. Tuy nhiên, do là một nước đang phát triển nên theo quy định của
WTO, Việt Nam vẫn có thể trợ cấp xuất khẩu nông sản trong các khâu liên quan
đến vận tải, đóng gói hay tiếp thị và được phép hỗ trợ cho một ngành nông
nghiệp không quá 10% tổng giá trị của ngành đó. Đây là những hình thức mà
cho đến nay Việt Nam vẫn chưa áp dụng nên cần nghiên cứu kỹ để có thể hỗ trợ
cho ngành mía đường trong thời gian tới. 1.2.2 Các tác động1.2.2.1 Tác động
theo hướng tích cựcTiềm năng mở rộng thị trườngViệc tham gia các tổ chức khu
vực và quốc tế cùng các hiệp định song phương sẽ mang lại môi trường cạnh
tranh bình đẳng cho các nhà sản xuất Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi để xâm
nhập và mở rộng thị trường của ngành mía đường. Đây là cơ hội cho một số
mặt hàng truyền thống, có chất lượng cao của ngành được phát triển mạnh, gia
tăng thị phần tiêu thụ. Chi phí nguyên vật liệu, vật tư, máy móc nhập khẩu
giảm đáng kểHiện nay phần lớn công nghệ về giống hay máy móc, thiết bị đầu
tư cho ngành công nghiệp mía đường Việt Nam vẫn phải nhập khẩu từ nước
ngoài với thuế suất cao. Việc tự do hóa thương mại cùng những cam kết về thuế
quan và hàng rào phi thuế quan sẽ giúp ngành có thể tiết kiệm được chi phí
nhập khẩu vật tư, thiết bị, máy móc…Đầu tư nước ngoài tăngNgành công
nghiệp mía đường Việt Nam mới được chính thức xây dựng và phát triển từ năm
1995, khi có Chương trình mía đường quốc gia. Từ đó đến nay, việc thu hút đầu
tư trong nước và quốc tế vẫn còn nhiều hạn chế. Quá trình thực hiện lộ trình hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam sẽ tạo ra một môi trường hấp dẫn thúc đẩy
đầu tư nước ngoài vào ngành. Ngoài ra, đây cũng là cơ hội để ngành mía đường
áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật của thế giới vào sản xuất kinh doanh
và học hỏi các kinh nghiệm quản lý tổ chức tiên tiến của các nước. 1.2.2.2. Tác
động theo hướng tiêu cựcTạo áp lực về năng lực cạnh tranhNgành mía đường
hiện đang đứng trong nhóm có năng lực cạnh tranh thấp của quốc gia, đặc biệt
là Năng lực cạnh tranh về giá cả. Trong khi đó, những đối thủ của ngành ở hiện
tại và trong tương lai vừa có quy mô lớn, kinh nghiệm lâu năm lại vừa được sự
17
bảo hộ mạnh từ phía chính phủ. Sức ép cạnh tranh ngày càng gia tăng đối với
ngành mía đường Việt Nam trong quá trình hội nhập là điều không thể tránh
khỏi và là một thách thức lớn phải vượt qua.Nhận thức về hội nhập chưa đầy đủ,
sâu sắcHiện nay phần lớn các doanh nghiệp trong ngành đều thiếu một chiến
lược sản xuất kinh doanh dài hạn và ổn định. Bản thân ngành mía đường cũng
chưa xây dựng được một chiến lược cụ thể về hội nhập hay cạnh tranh trong khi
lộ trình thực hiện AFTA đang đến quá gần. Điều này cho thấy sự thiếu nhạy bén
về thị trường và nhận thức còn chưa đầy đủ về quá trình hội nhập. Đây là một
hạn chế lớn gây cản trở đến khả năng nắm bắt các cơ hội cũng như đối phó với
các thách thức mà hội nhập đưa lại. Thay đổi cách thức sản xuất đã tồn tại lâu
nayMột điều dễ nhận thấy là các cam kết quốc tế sẽ không chỉ tác động trực tiếp
và mạnh mẽ đến ngành chế biến đường và các sản phẩm sau đường mà tới cả
những người nông dân xưa nay chỉ sống nhờ vào việc cung cấp đầu vào cho các
ngành sản xuất này. Đơn cử như chỉ sau vài năm nữa, nông dân trồng mía, các
lò đường thủ công sẽ phải đối mặt với đường nhập khẩu chất lượng cao mà giá
lại thấp. Người nông dân sẽ rất thụ động, thiệt thòi nếu như các nhà máy tiêu
thụ sản phẩm của họ gặp phải khó khăn lớn hay thua lỗ, phá sản. Chịu tác động
của của thị trường thế giới thường xuyên biến độngHội nhập vào kinh tế khu
vực và thế giới cũng có nghĩa là đối mặt với những biến động bất ngờ của thị
trường, đặc biệt là biến động về cung cầu, giá cả. Thực tế là cung cầu đường
trên thị trường thế giới biến động rất mạnh và giá đường trong những năm qua
liên tục sụt giảm. Hơn thế, những cuộc khủng hoảng, những thay đổi kinh tế dù
lớn, dù nhỏ đều sẽ gây ra những tác hại khó lường với một ngành còn non trẻ
như mía đường. Thách thức về môi trường quản lý vĩ môHệ thống pháp luật, cơ
chế, chính sách vĩ mô của Việt Nam còn nhiều bất cập. Các cơ quan quản lý
chưa thực sự quan tâm đúng mức đến việc hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho ngành
mía đường theo hướng nâng cao sức cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu của hội nhập
kinh tế quốc tế. Như vậy, cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và những
cam kết hội nhập của Việt Nam, ngành mía đường sẽ đứng trước nguy cơ cạnh
18
tranh khốc liệt từ các đối thủ nước ngoài ngay tại thị trường Việt Nam, chưa nói
đến cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới. Để tồn tại và phát triển được
tại chính thị trường trong nước, một trong những yêu cầu hàng đầu đối với
ngành hiện nay là nâng cao năng lực cạnh tranh. 1.3 Khái niệm về cạnh tranh
và năng lực cạnh tranh 1.3.1 Khái niệm về cạnh tranhCạnh tranh là một khái
niệm rất phổ biến của kinh tế, là một đặc trưng của nền sản xuất hàng hóa.
Cạnh tranh, hiểu theo nghĩa khái quát, là sự ganh đua giữa những người theo
đuổi cùng mục đích nhằm đánh bại đối thủ và giành cho mình lợi thế nhiều nhất.
Theo ý nghĩa kinh tế, cạnh tranh là quá trình kinh tế mà trong đó các chủ thể
kinh tế ganh đua, tìm mọi biện pháp (cả nghệ thuật kinh doanh lẫn thủ đoạn) để
đạt được mục tiêu kinh tế chủ yếu của mình như chiếm lĩnh thị trường, tối đa
hóa lợi ích, nâng cao vị thế... Trên bình diện toàn nền kinh tế, cạnh tranh có vai
trò thúc đẩy kinh tế phát triển. Cạnh tranh khiến cho các nguồn lực được phân
bổ một cách hiệu quả nhất thông qua việc kích thích các doanh nghiệp sử dụng
tối ưu các nguồn lực, hạn chế các méo mó của thị trường, góp phần phân phối
lại thu nhập và nâng cao phúc lợi xã hội. Trên bình diện doanh nghiệp, bằng sự
hấp dẫn của lợi nhuận từ việc đi đầu về chất lượng, mẫu mã cũng như áp lực
phá sản, cạnh tranh buộc các doanh nghiệp luôn cải tiến phương thức sản xuất,
nâng cao trình độ công nghệ, đổi mới tổ chức, quản lý để thích ứng với những
biến động của thị trường. Nâng cao năng lực cạnh tranh đã trở thành tiền đề,
động lực và mục tiêu theo đuổi liên tục trong suốt quá trình phát triển doanh
nghiệp.Trên bình diện người tiêu dùng, cạnh tranh tạo ra sự lựa chọn rộng rãi
hơn về chủng loại, chất lượng, giá cả, mẫu mã của hàng hóa và dịch vụ. Cạnh
tranh bảo đảm rằng cả người sản xuất lẫn người tiêu dùng không thể áp đặt giá
cả một cách tùy tiện. Với khía cạnh đó, cạnh tranh là yếu tố điều tiết thị trường
và lành mạnh hóa các mối quan hệ xã hội. Trên bình diện quốc tế, cạnh tranh
thúc ép các doanh nghiệp mở rộng, tìm kiếm thị trường với mục đích như tiêu
thụ, đầu tư, huy động vốn, lao động, công nghệ, quản lý… trên thị trường thế
giới. Thông qua cạnh tranh quốc tế, các doanh nghiệp thấy được những lợi thế
19
so sánh cùng những yếu kém của mình để hoàn thiện và phát triển. Như vậy,
cạnh tranh cũng như các quy luật, hiện tượng kinh tế, xã hội khác chỉ xuất hiện
và phát triển khi có các điều kiện như nhu cầu cạnh tranh, môi trường cạnh
tranh và vận hành tốt khi có môi trường cạnh tranh hiệu quả. 1.3.2 Khái niệm về
năng lực cạnh tranhTheo Đề án quốc gia về “Nâng cao năng lực cạnh tranh của
hàng hóa và dịch vụ Việt Nam” (do Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế
của Việt Nam thực hiện) thì năng lực cạnh tranh (hay Khả năng cạnh tranh,
Tính cạnh tranh–Competitiveness) được xem xét ở ba cấp độ: năng lực cạnh
tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh của ngành/doanh nghiệp và năng lực cạnh
tranh của hàng hóa và dịch vụ. Năng lực cạnh tranh quốc gia được hiểu là
năng lực của một nền kinh tế có thể đạt được sự tăng trưởng bền vững, đảm bảo
ổn định kinh tế và nâng cao đời sống của dân cư. Đề án đưa ra 8 nhóm tiêu chí
đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia dựa theo các tiêu chí của Diễn đàn kinh
tế Thế giới (WEF) bao gồm: Độ mở của nền kinh tế Vai trò và hiệu lực của
chính phủSự phát triển của hệ thống tài chính, tiền tệTrình độ phát triển công
nghệTrình độ phát triển cơ sở hạ tầngTrình độ quản lý doanh nghiệpSố lượng
và chất lượng lao độngTrình độ phát triển thể chếNăng lực cạnh tranh của
ngành/doanh nghiệp là năng lực bù đắp chi phí, duy trì lợi nhuận và được thể
hiện qua thị phần của sản phẩm và dịch vụ trên thị trường. Năng lực cạnh tranh
của ngành/doanh nghiệp được xác định trên cơ sở bốn nhóm yếu tố cơ bản bao
gồm: Chất lượng và khả năng cung ứng, mức độ chuyên môn hóa đầu vàoCông
nghiệp và dịch vụ hỗ trợ Nhu cầu đối với sản phẩm, dịch vụ và yêu cầu của
khách hàng về chất lượng sản phẩm, dịch vụMức độ cạnh tranh trên lĩnh vực mà
ngành/doanh nghiệp kinh doanh và vị thế của ngành/doanh nghiệp so với các
ngành/doanh nghiệp khác Năng lực cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ là cơ
sở tạo nên sức cạnh tranh của ngành/doanh nghiệp và tổng hợp năng lực cạnh
tranh của hàng hóa và dịch vụ tạo nên sức cạnh tranh của một quốc gia. Năng
lực cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ thể hiện tập trung ở 4 yếu tố Giá cả,
chất lượng, tổ chức tiêu thụ và uy tín của doanh nghiệp. Trên thực tế, cấp độ
20
cạnh tranh này thường được phân tích lồng ghép với phân tích cạnh tranh của
ngành/doanh nghiệp.Ba cấp độ năng lực cạnh tranh có mối quan hệ mật thiết
với nhau. Năng lực cạnh tranh quốc gia là tổng hợp năng lực cạnh tranh của
các ngành/doanh nghiệp trong khi năng lực cạnh tranh của ngành/doanh nghiệp
lại được phản ánh qua năng lực cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ. Đồng thời,
năng lực cạnh tranh quốc gia có tác động trực tiếp đến năng lực cạnh tranh cấp
doanh nghiệp/ngành. Còn năng lực cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ chịu tác
động của cả năng lực cạnh tranh cấp doanh nghiệp/ngành và năng lực cạnh
tranh quốc gia. Tóm lại, hiểu được mối quan hệ chặt chẽ giữa ba cấp độ này để
thấy được sự khác biệt trong việc đánh giá năng lực cạnh tranh ở từng cấp độ
cũng như sự tác động qua lại giữa năng lực cạnh tranh ở một cấp với năng lực
cạnh tranh ở hai cấp độ còn lại. Đối tượng của khóa luận là Năng lực cạnh
tranh ở cấp độ ngành. Do vậy, nó sẽ chịu tác động qua lại của cả năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế Việt Nam và năng lực cạnh tranh của các sản phẩm trong
chính ngành mía đường.1.4 Xây dựng mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh
của ngành mía đường Việt Nam 1.4.1 Các phương pháp đánh giá năng lực cạnh
tranh của một ngànhMặc dù thuật ngữ “năng lực cạnh tranh” được sử dụng rất
rộng rãi trong trong thời gian gần đây song cho đến nay vẫn chưa có sự nhất trí
cao về cách thức đo lường, phân tích. Theo Đề án quốc gia về “Nâng cao năng
lực cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ Việt Nam”, có ba phương pháp phân
tích năng lực cạnh tranh của ngành/doanh nghiệp thường được sử dụng.Phương
pháp 1: Phân tích lợi thế cạnh tranh trên cơ sở đánh giá lợi thế so sánh về chi
phí hay khả năng sinh lời trên một đơn vị sản phẩm.Đây là phương pháp phân
tích năng lực cạnh tranh trong trạng thái động dựa trên hệ thống các chỉ số.
Các chỉ số này cho phép xác định được mức độ đóng góp của ngành/doanh
nghiệp vào nền kinh tế. Khi phân tích năng lực cạnh tranh theo phương pháp
này cần tính đến một số dự báo như: biến động chu kỳ sản phẩm, mức độ phổ
biến công nghệ và tích lũy kinh nghiệm, chi phí đầu vào, những thay đổi trong
chính sách của Chính phủ và khuynh hướng nhu cầu …Ưu điểm của phương
21
pháp này là đưa ra được những phân tích mang tính định lượng để đánh giá
năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên, về mặt thực tế, phương pháp này khá phức tạp
và khó thực hiện, đặc biệt rất khó ứng dụng vào việc phân tích năng lực cạnh
tranh của một ngành ở nước ta. Phương pháp 2: Phân tích theo quan điểm tổng
hợpCó 3 vấn đề cơ bản cần được giải đáp khi nghiên cứu năng lực cạnh tranh
của một ngành/doanh nghiệp theo phương pháp này, đó là:So sánh năng lực
cạnh tranh của ngành/doanh nghiệpNhững nhân tố thúc đẩy và những nhân tố
hạn chế đến việc nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành/doanh nghiệpNhững
tiêu chí đặt ra cho chính sách nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành/doanh
nghiệp, những chính sách, chương trình và công cụ của chính phủ để đáp ứng
các tiêu chí đó.Phương pháp 2 có ưu điểm là vừa đo lường lại vừa chỉ ra được
những nhân tố thúc đẩy hay kìm kãm tính cạnh tranh. Song có một hạn chế là
phương pháp này thường được sử dụng nhiều để đánh giá năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp hơn là năng lực cạnh tranh của một ngành.Phương pháp 3:
Phân tích theo cấu trúc ngànhĐây chính là phương pháp phân tích theo “Quan
điểm quản trị chiến lược” của Michael Porter. Theo phương pháp này, đối với
mỗi ngành, năng lực cạnh tranh được xem xét theo 5 nhân tố:Sự thâm nhập của
các công ty mới vào lĩnh vực kinh doanhCác sản phẩm hay dịch vụ thay thếSức
mạnh của nhà cung ứngSức mạnh của người muaMức độ cạnh tranh trong nội
bộ ngành Đây là một phương pháp phân tích sâu những nhân tố chính tác động
đến lợi thế cạnh tranh của ngành. Tuy nhiên, phương pháp này khi áp dụng lại
khó có thể thu thập được những thông tin cần thiết, đặc biệt khi cạnh tranh diễn
ra trên quy mô quốc tế. Tóm lại, cả ba phương pháp trên đều có những thế
mạnh và các hạn chế nhất định khi phân tích năng lực cạnh tranh. Xét về mặt lý
thuyết, phương pháp 3 là thích hợp nhất để đánh giá năng lực cạnh tranh của
ngành. Tuy nhiên, cả 5 nhân tố mà phương pháp đưa ra đều mang tính chất
“ngoại vi”. Nói cách khác, đây là những áp lực bên ngoài tác động đến năng
lực cạnh tranh của ngành. Trong khi đó, sẽ là thiếu xót khi đánh giá năng lực
cạnh tranh mà không xem xét yếu tố nội lực cùng những lợi thế so sánh của bản
22
thân ngành đó. 1.4.2 Mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành mía
đường Việt Nam Xuất phát từ kết luận trên, tác giả xin tự xây dựng một mô hình
đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành mía đường Việt Nam. Mô hình này về
nguyên lý sẽ dựa trên phương pháp 3 của Michael Porter song được điều chỉnh
cho phù hợp với thực tế nghiên cứu ngành mía đường. Mô hình này xem xét
năng lực cạnh tranh của ngành dưới 5 tác độngNăng lực sản xuất Thị trường
tiêu thụĐối thủ cạnh tranh và các sản phẩm bổ sung thay thếCác ngành hỗ trợ
liên quanMôi trường cơ chế, chính sách Trong đó, nhân tố đầu tiên sẽ đánh giá
các yếu tố thuộc về nội lực của ngành cùng các lợi thế cạnh tranh. Bốn nhân tố
còn lại là những tác nhân bên ngoài có tác động qua lại đến năng lực cạnh
tranh của ngành. 1.4.2.1 Năng lực sản xuất Năng lực sản xuất là nhân tố nội lực
quan trọng nhất đánh giá tổng quan khả năng cạnh tranh của ngành. Nhân tố
này được phân tích tập trung qua 7 yếu tố về nguyên liệu, nhân lực, công nghệ,
quy mô các nhà máy, sản lượng, giá cả và chất lượng. Trong đó, nguyên liệu,
nhân lực, công nghệ và quy mô các nhà máy là 4 yếu tố chính tạo nên năng lực
sản xuất còn sản lượng, chất lượng và giá cả là những yếu tố đo lường năng lực
sản xuất. Nguyên liệuNguồn nguyên liệu có vai trò quyết định đến chất lượng,
giá cả, năng lực sản xuất cũng như sức cạnh tranh của toàn ngành. Nguyên liệu
được đề cập đến ở đây là cây mía. Mía là nguồn nguyên liệu đầu vào chính yếu
và không thể thay thế của ngành công nghiệp mía đường Việt Nam. Hai nhân tố
quan trọng để đánh giá chất lượng mía là năng suất mía và chi phí sản xuất
mía. Năng suất bao gồm cả số cây trên một đơn vị diện tích và hàm lượng
đường trong mía. Nguồn nguyên liệu ổn định, chất lượng cao với chi phí sản
xuất tối thiểu sẽ là yếu tố cạnh tranh của bất kỳ quốc gia sản xuất đường nào.
Ngược lại, nguồn nguyên liệu thất thường, năng suất thấp và chi phí sản xuất
cao sẽ kéo giá thành đường lên cao, làm giảm năng lực cạnh tranh của ngành.
Nhân lựcNhân lực là yếu tố quan trọng hàng đầu của hoạt động sản xuất kinh
doanh. Nguồn nhân lực ngành mía đường có thể được chia theo các cấp độ: cán
bộ quản lý, đội ngũ công nhân viên và nông dân. Lực lượng nông dân trồng mía
23
là một đặc trưng riêng biệt của nguồn nhân lực ngành và có vai trò quyết định
đến chất lượng mía nguyên liệu cung cấp cho các nhà máy đường. Cán bộ quản
lý có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả hoạt động của các nhà máy và do đó đến chất
lượng toàn ngành. Cán bộ quản lý có trình độ cao, có kinh nghiệm, chủ động,
sáng tạo sẽ sử dụng hiệu quả nhất các nguồn lực, đem lại năng lực cạnh tranh
cao cho nhà máy. Đội ngũ công nhân viên nhờ đó cũng đáp ứng được các tiêu
chuẩn về năng suất lao động, trình độ tay nghề, ý thức trách nhiệm… Nhân lực
là nguồn tài sản vô hình mang lại những giá trị gia tăng ưu việt cho sản phẩm
trong quá trình hội nhập quốc tế. Công nghệTrong những năm gần đây, hàm
lượng công nghệ kỹ thuật có xu hướng chiếm tỉ trọng ngày càng cao trong sản
phẩm và do đó là yếu tố ảnh hưởng lớn đến chất lượng và tính năng của sản
phẩm. Việc sử dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất giúp doanh nghiệp có thể
tạo ra những sản phẩm có tính năng ưu việt, chất lượng cao, giá thành hạ, từ đó
nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng khả năng tiêu thụ sản phẩm của ngành
trước các đối thủ. Quy mô các nhà máy Quy mô các nhà máy sẽ quyết định tính
kinh tế theo quy mô của nhà máy và của toàn ngành. Quy mô các nhà máy mà
lớn thì khả năng đầu tư về công nghệ, quản lý, vốn… sẽ đủ lớn để tạo ra hiệu
quả kinh tế theo quy mô. Nếu các nhà máy trong ngành có quy mô tương đối
đồng đều thì sẽ có sự cạnh tranh tích cực về nguồn nguyên liệu, lao động… và
sẽ kích thích sự tăng trưởng chung nhằm phát huy nội lực của ngành trong cạnh
tranh quốc tế. Sản lượng, giá cả và chất lượngĐây là các nhân tố định tính và
định lượng đo lường năng lực sản xuất của ngành. Sản lượng lớn, giá cả thấp
và chất lượng sản phẩm cao thì năng lực sản xuất của ngành lớn, tạo ra những
lợi thế cạnh tranh cao. Đặc biệt, khi chất lượng và chủng loại sản phẩm của các
nhà sản xuất đường trên thế giới không có sự khác biệt rõ rệt thì giá cả là một
yếu tố quyết định đến năng lực cạnh tranh. 1.4.2.2 Thị trường tiêu thụ Thị
trường tiêu thụ quyết định mức cầu của ngành và tạo ra áp lực cạnh tranh giữa
các nhà sản xuất. Thị trường tiêu thụ ở đây được xét đến dưới tác động của quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế, bởi vậy nó bao gồm cả thị trường trong nước và
24
thị trường thế giới. Trong đó, thị trường trong nước được chia thành 2 mảng
lớn, thị trường tiêu dùng đường trực tiếp và thị trường các ngành công nghiệp
chế biến sử dụng đường làm nguyên liệu đầu vào cho quá trình sản xuất.Đối thủ
cạnh tranh và các sản phẩm bổ sung, thay thếĐối thủ cạnh tranh là những
người đã, đang hoặc sẽ sản xuất kinh doanh những mặt hàng tương tự với các
sản phẩm hiện có của ngành và đe dọa giành giật khách hàng, thị phần và lợi
nhuận của ngành. Mức độ cạnh tranh sẽ trở nên gay gắt nếu có các yếu tố như
ngành có mức tăng trưởng chậm, sản phẩm thiếu sự khác biệt, xuất hiện nhiều
đối thủ cạnh tranh hoặc các đối thủ cạnh tranh tương đương nhau. Đối thủ cạnh
tranh vừa là một nhân tố có ảnh hưởng lớn đến năng lực cạnh tranh của ngành
lại vừa là một nội dung rất quan trọng để đánh giá sức cạnh tranh của ngành.
Sản phẩm thay thế, bổ sung là những sản phẩm tương đồng với những sản phẩm
mà ngành cung cấp. Khách hàng có thể dùng các sản phẩm này thay thế hoặc
dùng cùng với sản phẩm của ngành và khi đó những sản phẩm thay thế, bổ sung
đã tạo ra một mức giá trần cho ngành. Sản phẩm của ngành khó có thể bán ở
mức giá cao hơn mức giá trần này vì khi đó, khách hàng có thể chuyển sang mua
sản phẩm bổ sung, thay thế mà không tiêu dùng các sản phẩm của ngành nữa.
1.4.2.3 Các ngành hỗ trợ, liên quan
Một ngành không thể tồn tại và phát triển nếu như không có có mối quan hệ tác
động qua lại với những ngành hỗ trợ và liên quan đi kèm với nó. Một ngành chỉ
có thể tăng trưởng tốt nếu các ngành hỗ trợ, liên quan đến ngành hoạt động tốt,
đáp ứng được những yêu cầu, chức năng mà tự ngành đó không thể tạo ra được.
Cũng như vậy, ngành sẽ gặp nhiều khó khăn, sự phát triển bị kìm hãm khi các
ngành hỗ trợ, liên quan yếu kém, chậm cải thiện. Ngược lại, nếu bản thân ngành
phát triển tốt thì sẽ mang lại những đóng góp tích cực cho các ngành hỗ trợ, liên
quan và tạo ra động lực để các ngành này phát triển tốt hơn nữa.
1.4.2.4 Môi trường cơ chế, chính sách
25
Môi trường cơ chế, chính sách là yếu tố bên ngoài có tác động lớn nhất đến khả
năng phát triển và cạnh tranh của ngành. Môi trường này bao gồm tất cả những
chính sách liên quan, chi phối và kiểm soát hoạt động của ngành như chính sách
tài chính, đầu tư, giá cả, hàng rào thuế quan và phi thuế quan… Môi trường cơ
chế chính sách thể hiện bản lĩnh và khả năng quản lý, điều tiết vĩ mô của Chính
phủ trong nền kinh tế thị trường cũng như vai trò định hướng cho sự phát triển
của từng ngành. Môi trường cơ chế, chính sách càng trở nên quan trọng trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Chính vì vậy, môi trường cơ chế, chính sách
được xem như một lợi thế cạnh tranh của các nhà sản xuất đường khác nhau trên
thế giới.
Như vậy, mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành mía đường Việt Nam
được xây dựng trên cơ sở kết hợp giữa các nhóm yếu tố bên trong tạo nên năng
lực cạnh tranh của ngành với các nhóm nhân tố bên ngoài tác động, chi phối đến
năng lực cạnh tranh. Mỗi nhóm nhân tố này có một tầm quan trọng và sự ảnh
hưởng nhất định đến năng lực cạnh tranh và mối quan hệ giữa chúng được thể
hiện khái quát trong mô hình sau:
26
MÔ HÌNH ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÀNH MÍA ĐƯỜNG
VIỆT NAM
CÁC NGÀNH LIÊN QUAN,
MÔI TRƯỜNG CHÍNH SÁCH
4‡à TRƯỜNG
TIÊU THỤ
NĂNG LỰC SẢN XUẤT
SẢN PHẨM BỔ
SUNG THAY THẾ
ĐỐI THỦ
CẠNH TRANH
27
CHƯƠNG 2 ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÀNH MÍA ĐƯỜNG VIỆT NAM BẰNG MÔ HÌNH TRONG QUÁ TRÌNH HỘI
NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 2.1 NĂNG LỰC SẢN XUẤT
2.1.1 Điều kiện sản xuất
2.1.1.1 Nguyên liệu
Nguồn nguyên liệu mía là lợi thế cạnh tranh của ngành mía đường Việt Nam.
Cây mía có thể thích hợp với hầu hết các loại đất, lại là cây không đòi hỏi chăm
sóc phức tạp và cho chất lượng tốt ở những vùng có khí hậu nóng ẩm. Vì vậy,
trồng mía có thể khai thác triệt để được các lợi thế về đất đai, khí hậu và nguồn
lao động nông nghiệp ở nước ta.
Lợi thế
Diện tích trồng mía rộng lớn, sản lượng tăng đều và ổn định. Trước khi triển
khai Chương trình mía đường, diện tích và sản lượng mía tăng chậm, tốc độ phát
triển bình quân 1980-1990 là 1,75%, 1990-1994 là 4,2%. Năm 1994, cả nước
mới chỉ có 150.000 ha mía, sản lượng đạt 7,5 triệu ha. Song từ năm 1995 đến
nay, diện tích và sản lượng đã có sự thay đổi lớn.
Biểu đồ 1: Diện tích trồng mía giai đoạn 1994-2003
0
50
100
150
200
250
300
350
400
1992 1994 1996 1998 2000 2002 2004
DiÖ
n tÝc
h (n
gh×n
ha)
Nguồn: Báo cáo tình hình sản xuất mía đường – Bộ NN và PTNT
28
Sau 5 năm thực hiện Chương trình mía đường, diện tích cả nước đã đạt 350.000
ha, tăng 134% so với năm 1994. Năng suất bình quân 50,8 tấn/ha. Sản lượng
mía cây đạt 17,8 triệu tấn, tăng 183%. Sở dĩ năm 1999 có sự tăng vọt về diện
tích là do đất hoang hóa ở vùng sâu, vùng xa đã được khai thác đưa vào trồng
mía, đạt 30.000 ha. Qua những năm đầu mở rộng diện tích ồ ạt, các năm sau đã
có sự điều chỉnh, cân đối lại vùng nguyên liệu nhằm khai thác hiệu quả hơn. Vụ
sản xuất 2002-2003, diện tích cả nước đã lên đến 315.000 ha, năng suất bình
quân 49,8 tấn/ha và sản lượng cây mía đạt 15,7 triệu tấn.
Đáng kể nhất là diện tích vùng nguyên liệu tập trung của các nhà máy đã được
cải thiện cả về mặt chất và mặt lượng. Niên vụ 1999-2000, kết thúc 5 thực hiện
giai đoạn một Chương trình mía đường, diện tích vùng nguyên liệu tập trung là
202.000 ha, bằng 81% diện tích cần quy hoạch. Đến nay, diện tích đã lên tới
258.750 ha. Năm 2001 và năm 2003, tuy diện tích vùng quy hoạch có giảm sút
về mặt lượng song nó lại thể hiện sự chuyển biến về mặt chất. Hiện nay năng
suất mía bình quân của các vùng nguyên liệu tập trung cao hơn mức bình quân
chung từ 10-15%, đạt 54-55 tấn/ha, đặc biệt có những nơi năng suất đạt trên 100
tấn/ha.
Biểu đồ 2: Diện tích mía nguyên liệu tập trung
0
50
100
150
200
250
300
1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004
DiÖ
n tÝc
h (n
gh×n
ha)
Nguồn: Báo cáo tình hình sản xuất mía đường - Bộ NN và PTNT
29
Hạn chế
Quy hoạch một số nhà máy và vùng nguyên liệu thiếu chuẩn xác. Quy hoạch
vùng nguyên liệu cho các nhà máy không chặt chẽ dẫn đến phân tán, tranh chấp,
một số nhà máy lại xây dựng quá gần nhau trong cùng một vùng hoặc đầu tư
công suất quá lớn so với khả năng phát triển vùng nguyên liệu. Hai ví dụ điển
hình của tình trạng này là việc chọn địa bàn xây dựng cho 2 nhà máy Linh Cảm
và Thừa Thiên Huế không đúng nên đã phải di chuyển.
Các nhà máy thường đầu tư ở những vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa có nhiều
khó khăn nên chi phí hoạt động cao. Hầu hết kết cấu hạ tầng vùng mía (đường
giao thông, cầu cống, thuỷ lợi) còn yếu kém, chưa được đầu tư thoả đáng.
Công tác nghiên cứu và chuyển giao khoa học kỹ thuật về trồng mía chưa
ngang tầm với yêu cầu đặt ra. Việc phổ biến giống mới và kỹ thuật canh tác tiến
bộ cho nông dân còn chậm. Các giống mía rải vụ còn đang trong giai đoạn
nghiên cứu thí điểm. Việc bón phân không hợp lý, thường là quá nhiều so với
mức cần thiết đã làm giảm chất lượng mía, đồng thời tiêu tốn nhiều chi phí.
Năng suất, chất lượng mía còn thấp. Năng suất bình quân cả nước niên vụ 2002-
2003 mới đạt 50 tấn/ha, trong khi đó, năng suất tiềm năng có thể đạt trên 70
tấn/ha nếu được tưới nước, bón phân hợp lý. Chất lượng mía cũng còn ở dưới
mức tiềm năng. Mía có chất lượng tốt là mía chứa hàm lượng đường cao. Song
chỉ tiêu chữ lượng đường trung bình của cả nước là 9,9 CCS ( 100 tấn mía thu
được 9,9 tấn đường) đã không tăng trong 3 năm qua trong khi mức tiềm năng là
11 CCS. Hàm lượng 9,9 CCS cũng thấp hơn khá nhiều so với chỉ tiêu trung
bình của thế giới: 12-13 CCS.
Thêm vào đó, chi phí sản xuất nông nghiệp của ngành mía đường khá cao. Với
năng suất mía 50 tấn/ha, chi phí trồng mía sẽ vào khoảng 200.000 VND/tấn.
Tính thêm cả chi phí vận chuyển trung bình 40.000VND/tấn và trừ đi khoản thu
hồi từ bã bùn, bã mía thì giá mua nguyên liệu của các nhà máy đã chiếm 55-60%
giá thành. Chi phí nguyên liệu quá lớn khiến giá bán đường tăng cao, làm giảm
năng lực cạnh tranh của ngành mía đường Việt Nam.
30
Như vậy, đáng lẽ nguồn nguyên liệu phải là một lợi thế của ngành mía đường,
nhưng hiện nay, nó đang là một yếu tố làm giảm sức cạnh tranh của ngành. Điều
quan trọng là Việt Nam cần thực hiện cho được công tác cơ giới hóa vùng
nguyên liệu, nhanh chóng chuyển đổi từ quảng canh sang thâm canh để giảm
thiểu chi phí cho việc trồng mía và tăng năng suất cũng như hiệu quả của cây
mía.
1.1.2. Công nghệ, kỹ thuật
Công nghệ có vai trò vô cùng quan trọng trong việc quyết định năng lực sản
xuất và hiệu quả của toàn ngành mía đường. Công nghệ ở đây bao trùm tất cả
các khâu từ trồng mía nguyên liệu đến chế biến công nghiệp.
Công nghệ giống và kỹ thuật canh tác mía
Trong xây dựng và phát triển vùng nguyên liệu, giống có vai trò then chốt, quyết
định năng suất và chất lượng cây mía. Với năng suất mía trung bình cả nước là
50 tấn/ha, một số vùng đã đạt năng suất trên 100 tấn/ha khi áp dụng thành công
những giống mía tốt. Diện tích trồng bằng giống mới trong cả nước là 114.000
ha, chiếm 62% tổng diện tích vùng nguyện liệu tập trung. Phần lớn giống mía
được nhập khẩu và biến đổi cho thích nghi với điều kiện sản xuất nước ta đem
lại các đặc tính tốt: cây chín sớm, thích ứng rộng, chịu hạn tốt, hàm lượng đường
cao…
Ngoài ra, các kỹ thuật canh tác tiên tiến đã được áp dụng như bón phân cân đối,
sử dụng phân hữu cơ vi sinh... Việc cơ giới hoá khâu canh tác và phòng trừ sâu
bệnh được triển khai rộng rãi đem lại kết quả tích cực.
Tuy vậy vẫn còn những tồn tại trong khâu cung cấp giống. Trước hết, tính hệ
thống, liên hoàn giữa nghiên cứu và nhân giống mía chưa chặt chẽ, cũng chưa
có kế hoạch hợp lý giữa sản xuất và cung ứng giống mía. Khả năng tự cung cấp,
phát triển giống mía của Việt Nam còn thấp. Hiện nay diện tích mía trồng mới
31
mỗi năm từ 100.000 đến 110.000 ha, do vậy sẽ cần khoảng 0.8-1 triệu tấn giống
nhưng nguồn cung cấp trong nước mỗi năm chỉ đáp ứng được 15% nhu cầu.
Bên cạnh giống mía, kỹ thuật trồng trọt cũng ảnh hưởng lớn tới số lượng và
chất lượng mía cung cấp cho các nhà máy, đặc biệt là vấn đề tưới nước cho cây
mía chưa được giải quyết triệt để. Trên thế giới diện tích được tưới chiếm tỷ lệ
cao: 88% ở Ấn Độ, 80% ở Nam Phi, 80% ở Úc. Việc diện tích mía được tưới ở
Việt Nam mới chiếm 10% làm cho năng suất còn bị hạn chế, phần nào làm giảm
chất lượng cây mía.
Công nghệ, kỹ thuật chế biến đường
Công nghệ chế biến đường quyết định chất lượng của sản phẩm đầu ra. Trong
thời gian qua, nhiều sáng kiến trong sản xuất, chế biến đường đã giúp nâng cao
hiệu quả sản xuất. Các cơ sở nghiên cứu khoa học ra đời cùng với đội ngũ cán
bộ kỹ thuật ngày càng lớn mạnh đang hỗ trợ rất nhiều cho hoạt động sản xuất
của các nhà máy.
Bảng 1: Một số công nghệ mới mang lại hiệu quả trong chế biến đường CÔNG NGHỆ TÁC DỤNG
Sunfit hoá trung tính Hạn chế tối đa sự chuyển hoá và phân huỷ
đường trong sản xuất
Lắng nổi Hiệu suất làm sạch và tẩy màu cao
Thiết bị khuyếch tán Tăng hiệu suất khuyếch tán nước mía
Máy xé tơi và máy đập Tăng độ xé tới mía lên 80%
Trục nạp liệu cưỡng bức Tăng công suất ép lên 30-80%, rút ngắn
dàn ép, giảm vốn đầu tư
Thiết bị gia nhiệt và bốc
hơi kiểu tấm
Tăng hệ số truyền nhiệt, lắp đặt thay thế
thông rửa dễ dàng, chiếm diện tích nhỏ
Nguồn: Cục chế biến nông lâm sản và nghề muối, Bộ NN và PTNT.
Gần 80% các nhà máy mới được xây ở những vùng nguyên liệu mía tập trung
quy mô lớn và được trang bị công nghệ thiết bị hiện đại, 20% còn lại là thiết bị
32
loại trung bình của thế giới và phù hợp với các vùng nguyên liệu mía quy mô
vừa và nhỏ, vùng sâu, vùng xa. Phần lớn thiết bị của ngành nhập khẩu từ Trung
Quốc, phần còn lại từ các nước như Nhật, Pháp.
Một số cơ sở vật chất nghiên cứu khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực mía đường đã
được xây dựng như viện nghiên cứu mía đường Bến Cát, phòng nghiên cứu mía
đường ở viện nghiên cứu thực phẩm... Các cơ sở này giúp các nhà máy trung
ương nâng cao năng lực quản lý, cải tiến thiết bị, chế tạo một số phụ tùng thay
thế, tạo điều kiện nâng cao công suất ép, hiệu suất thu hồi và chất lượng sản
phẩm.
Song vẫn còn hai hạn chế lớn về công nghệ của ngành chế biến đường là sự tồn
tại của nhiều lò đường thủ công và sự hạn chế về máy móc trong các nhà máy
đường hiện nay so với các nước khác trên thế giới. Công nghệ các nhà máy
đường thủ công còn rất thô sơ, như việc ép mía được thực hiện bằng sức người
hay trâu bò, việc đun nước mía và kết tinh đường cũng thực hiện rất thủ công.
Chất lượng của các sản phẩm sản xuất ra như đường vàng, đường phèn, đường
phổi, là không cao.
Công nghệ chế biến ở các nhà máy hiện đại hơn so với các lò đường thủ công,
nhưng còn kém nhiều so với các nhà máy trên thế giới. Ngoài một số ít nhà máy
có vốn đầu tư và công nghệ của các nước lớn như Úc, Nhật, Pháp, hầu hết đều
sử dụng thiết bị của Trung Quốc hoặc thiết bị nhập đã lâu năm. Khả năng tài
chính hạn hẹp buộc các nhà máy phải sử dụng các dây chuyền sản xuất lạc hậu.
Tóm lại, công nghệ đã và đang trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp và là
lợi thế cạnh tranh của các nhà sản xuất đường thế giới. Nhưng mía đường Việt
Nam chưa tạo dựng được những lợi thế này. Vì vậy, khai thác triệt để hiệu suất
của những công nghệ hiện có và tạo dựng được những bí quyết công nghệ riêng
là lối ra và là yêu cầu cấp thiết để ngành mía đường Việt Nam có thể thắng lợi
trong cạnh tranh quốc tế.
33
1.1.3. Nhân lực
Nguồn lao động là một lợi thế tương đối của ngành mía đường Việt Nam.
Lợi thế
Việt Nam có nguồn lao động dồi dào, lại thuộc loại trẻ, có trình độ giáo dục phổ
thông tương đối cao. Người lao động Việt Nam được đánh giá là thông minh,
khéo tay, cần cù, chịu khó và chi phí lao động rẻ. Rõ ràng lực lượng lao động là
một lợi thế cạnh tranh cho ngành mía đường Việt Nam.
Hơn thế, truyền thống nông nghiệp đã ăn sâu, bắt rễ vào mỗi người dân Việt.
Cây mía đã được trồng ở Việt Nam từ rất lâu đời. Người Việt Nam cũng biết ép
mía chế biến mật từ hàng ngàn năm nay. Bởi vậy, kinh nghiệm lâu năm của
người nông dân trồng mía và sản xuất đường thủ công cũng là một nên tảng
vững chắc cho một nền công nghiệp mía đường phát triển.
Chương trình mía đường, dưới sự hướng dẫn của Bộ nông nghiệp và phát triển
nông thôn kết hợp với Cục Nông nghiệp, đã xây dựng được một nguồn nhân
lực đã qua đào tạo với số lượng lớn. Mô hình đào tạo theo nhu cầu và địa chỉ cụ
thể của Chương trình mía đường là thực sự phù hợp và có hiệu quả. Cho đến nay
ngành mía đường có 15.000 người đã qua đào tạo bao gồm giám đốc, trưởng
phó phòng, cán bộ kỹ sư nông nghiệp, công nghiệp và công nhân. Trong đó, cán
bộ quản lý, kỹ sư trung cấp có 2.000 người; nhân viên nông vụ, công nhân công
nghệ đường và sau đường, công nhân cơ điện là 13.000 người. Ngoài ra, 400 cán
bộ quản lý, kỹ thuật và công nhân được đào tạo ngắn hạn ở nước ngoài, tổ chức
tập huấn hơn 56.000 lượt người cho nông dân, công nhân nông nghiệp về kỹ
thuật canh tác mía và sử dụng máy nông nghiệp. Tổng kinh phí dành cho công
tác đào tạo tính riêng đến năm 2000 là 50 tỷ đồng.
Hạn chế
Chính vì xuất phát điểm Việt Nam là một nước nông nghiệp nên nếp làm ăn thủ
công và tư duy nông nghiệp cũng ăn sâu vào con người, dẫn đến chậm thay đổi
34
và khó thay đổi tư duy, tác phong làm việc theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, nhất là ở tầng lớp nông dân.
Đại bộ phận nông dân trồng mía còn nghèo, trình độ học vấn thấp, việc áp dụng
những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trồng mía gặp nhiều khó khăn. Quá trình
trồng mía do vậy gặp nhiều trở ngại trong việc chuyển hướng từ quảng canh cây
mía sang hướng thâm canh, rải vụ.
Mặc dù đã thực hiện công tác đào tạo tương đối tốt, song hiện nay cán bộ quản
lý, cán bộ nông vụ của nhiều nhà máy còn thiếu và chưa đáp ứng được yêu cầu
nhiệm vụ. Hơn thế, các nhà máy đường trong thời gian qua được nhà nước hỗ
trợ nhiều. Chính đặc thù này cũng khiến cho nhiều cán bộ, đặc biệt là cán bộ
quản lý còn mang tư tưởng ỷ lại, dựa dẫm, chưa thực sự năng động và sáng tạo,
chưa chủ động để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, sản xuất chưa thực sự
hướng đến thị trường mà mới chú trọng đến việc làm ra sản lượng đáp ứng
Chương trình mía đường.
Chất lượng nhân lực phụ trách lĩnh vực thị trường còn yếu, chưa bắt kịp với
những diễn biến phức tạp của thị trường và tâm lý, thị hiếu ngày càng khắt khe
của người tiêu dùng. Đây là những bất lợi của ngành mía đường trong vấn đề
nhân lực mà nếu không được bổ khuyết kịp thời sẽ làm giảm lợi thế cạnh tranh
của ngành trước quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Tóm lại, nguồn nhân lực rẻ và dồi dào rõ ràng là một lợi thế cạnh tranh của
ngành mía đường. Song lợi thế này đang có xu hướng giảm xuống dưới tác động
của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Bởi vậy, việc xây dựng năng lực cạnh
tranh của ngành phải đi theo hướng phát huy khả năng sáng tạo của một nguồn
nhân lực có chất lượng cao.
1.2. Kết quả năng lực sản xuất
1.2.1. Quy mô ngành
35
Quy mô các nhà máy chế biến thể hiện khả năng kinh tế theo quy mô của ngành.
Hơn thế, khi quy mô của toàn ngành là lớn thì rào cản xâm nhập sẽ cao, sức
mạnh tổng hợp từ nội lực ngành trong hội nhập quốc tế sẽ lớn.
Quy mô ngành mía đường Việt Nam tương đối lớn và đi vào chiều hướng ổn
định. Năm 1994, cả nước chỉ có 12 nhà máy đường hoạt động, tổng công suất
10.300 tấn mía ngày (TMN), sản xuất gần 100.000 tấn đường/năm và phải nhập
khẩu để đáp ứng mức tiêu thụ bình quân đầu người là 6,7 kg (mức tiêu thụ bình
quân của thế giới lúc đó là 21 kg/người). Chương trình mía đường đã huy động
được lượng vốn lớn trong và ngoài nước lên tới 10.050 tỉ VND đầu tư cho phần
mở rộng và xây mới các nhà máy. Đến năm 2002, cả nước đã xây dựng 44 nhà
máy với tổng công suất thiết kế là 82.950 TMN, tăng hơn 8 lần so với năm
1994. Các nhà máy phân bố tương đối đều ở ba miền: miền Bắc 13 nhà máy,
miền Trung và Tây Nguyên 16 nhà máy, miền Nam 15 nhà máy. Trong đó, miền
Nam đạt tổng công suất lớn nhất là 31.150 TMN, miền Trung có số lượng nhà
máy nhiều nhất song tổng công suất lại thấp nhất, đạt 24.450 TMN.
Về khai thác công suất thiết kế, hàng năm, công suất sử dụng thực tế của các
nhà máy liên tục tăng. Niên vụ 2002-2003 có 28/44 nhà máy hoạt động đạt trên
80% công suất thiết kế, có 11/44 nhà máy đạt công suất từ 50-80% và 5/44 nhà
máy hoạt động dưới 50% công suất. Nếu so với công suất trung bình của thế
giới (khoảng 85%) thì ngành mía đường Việt Nam vẫn còn gần một nửa số
lượng các nhà máy có công suất chưa đạt yêu cầu. Tuy nhiên, với những khó
khăn do nguồn nguyên liệu còn thiếu, không ổn định và quá trình hình thành non
trẻ của ngành thì kết quả này là dễ hiểu. Nó cho thấy tiềm năng mở rộng công
suất cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh dần được cải thiện của các nhà máy
chế biến đường Việt Nam.
Như vậy, cho đến nay, ngành mía đường Việt Nam đã xây dựng được một hệ
thống các nhà máy đáp ứng đủ cho yêu cầu sản xuất trong nước. Tuy nhiên, các
36
nhà máy đều còn non trẻ với công suất hoạt động chưa cao. Từ nay cho đến năm
2006 là một khoảng thời gian không dài để các nhà máy nhanh chóng cải thiện
công suất chế biến, nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Đồng thời ngành
mía đường Việt Nam cũng phải tiến hành đổi mới, sắp xếp lại các nhà máy theo
hướng xây dựng những nhà máy có quy mô lớn để tận dụng lợi thế về tính kinh
tế theo quy mô như kinh nghiệm của các nước trên thế giới.
Bảng 2: Công suất thực tế so với công suất thiết kế của 44 nhà máy NHÀ MÁY CSTT/CSTK (%) NHÀ MÁY CSTT/CSTK (%)
Đồng Xuân 200% Tuy Hoà 89%
Phan Rang 175% Sông Lam 89%
Nagarjuna 146% Kon Tum 89%
Nghệ An T&L 141% 333 Đắc Lắk 87%
Phụng Hiệp 138% Bình Dương 85%
Bourbon Gia Lai 133% Trị An 81%
Nước Trong 128% Sơn La 79%
Vị Thanh 128% Bourbon TN 77%
Hiệp Hoà 124% An Khê 73%
Sóc Trăng 122% Cao Bằng 73%
Trà Vinh 115% Tuyên Quang 73%
Bến Tre 115% Quảng Ngãi 69%
Bình Định 114% Nam Quảng Ngãi 69%
Thô Tây Ninh 114% Thới Bình 68%
Sông Con 114% Sơn Dương 65%
KCP Phú Yên 106% Ninh Hòa 64%
Đắc Lắk 106% Việt Đài 60%
Lam Sơn 104% Việt Trì 49%
Nông Cống 103% Bình Thuận 49%
Kiên Giang 100% Quảng Bình 37%
Hoà Bình 100% Quảng Nam 34%
37
La Ngà 98% Cam Ranh 32%
Nguồn: Báo cáo tình hình sản xuất mía đường vụ 2002-2003,
Bộ NN và PTNT
Chú thích:
- CSTT: Công suất thực tế
- CSTK: Công suất thiết kế
1.2.2. Sản lượng
Sản lượng đường của ngành đã liên tục tăng từ năm 1995 đến nay. Nếu như
trước năm 1995, Việt Nam còn phụ thuộc chủ yếu vào đường nhập khẩu, thì đến
nay chúng ta không những đáp ứng đủ nhu cầu đường cho tiêu dùng và chế biến
công nghiệp mà còn tiến tới xuất khẩu đường.
Bảng 3: Sản lượng đường của Việt Nam từ 1995-2003 Đơn vị: Tấn
NIÊN VỤ CÔNG NGHIỆP THỦ CÔNG TỔNG SẢN LƯỢNG
1994-1995 110.117 210.000 320.117
1995-1996 182.100 200.000 382.100
1996-1997 213.400 260.000 473.400
1997-1998 322000 230.000 552.000
1998-1999 556.700 200.000 756.700
1999-2000 764.000 250.000 1.014.000
2000-2001 650.000 300.000 950.000
2001-2002 772.650 300.000 1.072.650
2002-2003 1.056.000 150.000 1.206.000
Nguồn: Cục chế biến nông lâm sản và nghề muối, Bộ NN và PTNT
Đến năm 2000, lần đầu tiên sản lượng đường đã vượt mức 1 triệu tấn, hoàn
thành mục tiêu của Chương trình mía đường sản xuất 1 triệu tấn đường vào năm
2000. Niên vụ 2003, sản lượng đạt mức cao nhất từ trước tới nay là 1,2 triệu tấn,
tăng 277% so với năm 1995. Riêng năm 2001, sản lượng có sụt giảm so với năm
38
2000, với mức sản xuất công nghiệp giảm 15%. Lý do là vụ sản xuất 2001 diễn
ra trong hoàn cảnh có nhiều khó khăn. Giá mía và giá đường từ vụ 1999-2000
xuống quá thấp khiến nhà máy đường và nông dân trồng mía một số nơi bị thua
lỗ, nông dân đã giảm bớt diện tích trồng mía để chuyển sang trồng các cây khác.
Bên cạnh đó do ảnh hưởng của thiên tai nên năng suất, sản lượng mía giảm,
nhiều nhà máy thiếu nguyên liệu đã không đảm bảo được kế hoạch sản xuất.
Sản xuất đường công nghiệp
Đường chế biến công nghiệp ngày càng chiếm tỷ trọng cao hơn hẳn so với
đường sản xuất thủ công. Sản lượng tăng đều với tốc độ tăng tương đối cao so
với năm 1995. Năm 1995, sản lượng sản xuất công nghiệp mới đạt 182.100 tấn
thì năm 2003, con số này đã tăng lên 1.056.188 tấn, gấp gần 6 lần. Đây là một
nỗ lực to lớn của toàn ngành cho thấy năng lực sản xuất, chế biến của khu vực
này đã được cải thiện rõ rệt.
Sản xuất đường thủ công
Trước năm 1995, đường thủ công chiếm một tỷ trọng lớn trong sản xuất đường
của toàn ngành. Tuy nhiên, tỷ lệ này ngày càng giảm xuống cùng với sự đi lên
của sản xuất công nghiệp. Tỷ trọng đường thủ công trong tổng sản lượng đường
liên tục giảm từ mức 65,6% năm 1995 xuống còn 12, 4% năm 2003. Năm 2001,
tỷ trọng này có tăng lên song không phải vì quy mô khu vực này có sự mở rộng
mạnh mẽ mà chủ yếu là do sản xuất đường công nghiệp bị sụt giảm (như nguyên
nhân đã nêu ở phần trên).
Sự tồn tại của khu vực sản xuất thủ công là một đặc điểm quan trọng của ngành
mía đường Việt Nam. Đây cũng là một tất yếu đối với hầu hết các quốc gia đang
phát triển, bởi bộ phận dân cư có thu nhập thấp sẽ thu hút lượng mía dư thừa vào
các lò thủ công để chế biến ra đường có chất lượng không cao song vẫn có nhu
cầu tiêu dùng lớn. Vấn đề hàng đầu đối với khu vực này là năng suất ép quá
thấp, khoảng 18-20 tấn mía mới được 1 tấn đường trong khi khu vực sản xuất
công nghiệp tuy chưa phải ở mức hiện đại so với thế giới song đã đạt 10-12 tấn
mía/1 tấn đường. Vậy kết luận đưa ra là nhất thiết phải điều chỉnh hoạt động của
39
khu vực sản xuất thủ công, tiến tới giảm dần sản lượng đường thủ công để phát
huy hiệu quả sản xuất đường công nghiệp.
Ngoài lượng đường cung cấp từ chế biến công nghiệp và sản xuất thủ công thì
trong những năm gần đây, ngành đường cũng đã tiến hành nhập khẩu đường
thô để chế biến thành đường trắng nhằm đa dạng hóa đầu vào cho công nghiệp
chế biến đường. Nguồn nhập khẩu chủ yếu của chúng ta là Cuba, Úc, Hồng
Kông. Đường nhập khẩu có nhiều chủng loại như đường trắng, đường đỏ, đường
vàng song chỉ có hai loại sau được tinh luyện đường trắng.
Tóm lại, với năng lực sản xuất như hiện nay thì ngành mía đường Việt Nam
hoàn toàn có thể đảm bảo mức cung cấp ổn định và lâu dài khoảng 1 triệu tấn
đường/năm. Đây cũng chính là mức cung đủ đáp ứng cầu mà Đảng và Nhà nước
ta đã đề ra. Vấn đề còn lại là làm sao chất lượng và giá cả của các sản phẩm
đường đủ sức cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
1.2.3. Chất lượng và giá cả
Chất lượng và giá cả là hai nhân tố quyết định trực tiếp đến khả năng cạnh tranh.
1.2.3.1. Chất lượng
Sản phẩm đường Việt Nam có chất lượng ngày càng được nâng cao và có khả
năng tham gia vào thị trường đường thế giới. Chất lượng đường đã đạt tiêu
chuẩn Việt Nam và quốc tế. Nếu như trước năm 1999 toàn ngành mía đường
mới có 2 công ty đạt tiêu chuẩn quản lý chất lượng ISO 9002 là công ty đường
Lam Sơn và Liên doanh đường Việt-Đài, thì tới nay ngành đã có thêm nhiều
công ty được công nhận đạt chuẩn ISO như công ty đường Biên Hòa, Hiệp Hòa,
Sóc Trăng, Vị Thanh, Phụng Hiệp, Tale & Lyle… Các công ty khác cũng đang
tiếp tục phấn đấu để đạt tiêu chuẩn trên trong thời gian tới. Sản phẩm đường
Việt Nam cũng đã bắt đầu tham gia xuất khẩu với dấu mốc đầu tiên là 80.000
tấn vào niên vụ 1999-2000, niên vụ 2000-2001 tiếp tục xuất khẩu 60.000 tấn và
40
niên vụ 2002-2003 là 50.600 tấn. Như vậy, có thể khẳng định rằng sản phẩm
đường Việt Nam có khả năng cạnh tranh với các sản phẩm trong khu vực và
quốc tế.
Chủng loại đường
Ngành mía đường cung cấp các loại chính là đường kính và đường viên, trong
đó đường kính gồm ba phẩm cấp là đường tinh luyện (RE-Refined sugar),
đường trắng (WS-White Sugar), đường thô (RS). Đường kính có thể dễ dàng
được sử dụng cho rất nhiều mục đích khác nhau: đường tinh luyện làm nguyên
liệu đầu vào cho các ngành công nghiệp chế biến các sản phẩm sau đường như
sữa, nước ngọt, bánh kẹo, rượu, cồn; đường trắng được sử dụng trực tiếp cho
nhu cầu giải khát, chế biến của người tiêu dùng; đường thô được dùng để làm
các đặc sản truyền thống như chè lam, kẹo lạc, bánh trôi, ô mai… Gần đây, sản
phẩm đường viên được nhiều nhà máy như Khánh Hội, Biên Hòa đưa vào sản
xuất nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cao cấp. Ngoài ra, nhà máy đường Biên
Hòa mới đưa vào thị trường một loại sản phẩm đường luyện có chứa hàm lượng
Vitamin A cao rất thích hợp cho việc chăm sóc sức khỏe của bà mẹ và trẻ em.
Đây là những nỗ lực của ngành đường nhằm đa dạng hóa các chủng loại sản
phẩm. Tuy nhiên, rõ ràng là để nâng cao khả năng canh tranh thì ngành đường
cần tiếp tục đầu tư, nghiên cứu để có thể đa dạng hóa chủng loại sản phẩm
đường hơn nữa, đặc biệt là trước yêu cầu ngày càng cao và những sự thay đổi
trong tâm lý tiêu dùng đường hiện nay.
Mẫu mã, bao bì và thương hiệu sản phẩm
Sản phẩm đường Việt Nam còn yếu về mẫu mã, bao bì. Các chất liệu bao bì
được sử dụng chủ yếu là hộp cát-tông và túi ni-lông, mẫu mã, hình thức lại chưa
phong phú và hấp dẫn. Vấn đề thương hiệu cũng chưa được chú ý, đầu tư nên
gần như chưa có một nhãn hiệu đường nào được người tiêu dùng quan tâm, ưa
chuộng. Có hai nguyên nhân lý giải cho thực trạng này: thứ nhất là ngành mía
đường còn ở trong giai đoạn đầu phát triển sản phẩm, mới chú trọng đến chất
41
lượng chứ chưa đầu tư cho mẫu mã, bao bì. Thứ hai, do giá cả sản phẩm đường
hiện còn cao nên nếu đầu tư cho bao bì, mẫu mã thì sẽ tiếp tục nâng giá đường
cao hơn nữa. Song điều này chỉ có thể chấp nhận được trong giai đoạn ngắn, khi
vẫn còn sự bảo hộ của Nhà nước. Chỉ vài năm tới đây, Việt Nam phải thực hiện
lộ trình hội nhập của AFTA thì ngành đường sẽ không thể không cạnh tranh với
các sản phẩm nhập khẩu có chất lượng tốt, giá cả thấp mà bao bì, mẫu mã lại
hấp dẫn. Hơn nữa, muốn đẩy mạnh xuất khẩu, các sản phẩm đường Việt Nam
không những phải đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật từng nước, từng khu vực mà
còn cần phải phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng ở các thị trường khác nhau.
Tóm lại, sản phẩm đường của Việt Nam còn thiếu sức sáng tạo, khả năng đa
dạng hóa chủng loại, mẫu mã nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và khắt khe
của người tiêu dùng còn yếu kém, chưa tạo ra được tính độc đáo riêng của sản
phẩm cũng như chưa xây dựng được một thương hiệu đường Việt Nam. Do vậy
khả năng cạnh tranh về chất lượng là thấp.
1.2.3.2 Giá cả
Đối với ngành mía đường Việt Nam thì giá cả là yếu tố chính tác động đến sức
cạnh tranh của ngành.
Thực vậy, giá đường của Việt Nam quá cao, thường là gấp đôi so với giá cả
cùng loại của khu vực và thế giới. Giá đường trong khu vực khoảng 200-230
USD/tấn, tương đương với 3.000-3.500 VND/kg. Còn giá đường thế giới tính
theo giá Luân Đôn tại thời điểm tháng tháng 9 năm 2002 dao động trong khoảng
180-210 USD/tấn. Trong khi đó, đường trong nước bán từ 4.000 VND trở lên,
tương đương với khoảng trên 400 USD/tấn. Mức giá này đã gây khó khăn cho
sản phẩm mía đường Việt Nam tiêu thụ ngay trong thị trường trường nội địa,
chưa tính đến việc cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế.
Phân tích cơ cấu giá thành hiện nay của sản phẩm đường sẽ cho thấy những vấn
đề tồn tại khách quan và chủ quan trong ngành đường.
42
Giá thành sản xuất đường bao gồm hai bộ phận chính là Chi phí nguyên liệu và
Chi phí nhà máy.
Chi phí nguyên liệu
Chi phí nguyên liệu bao gồm Chi phí nguyên liệu ở chân ruộng và Chi phí vận
chuyển. Chi phí nguyên liệu ở chân ruộng là 203.000 VND/tấn mía hay 15,9
USD/tấn mía, cộng với chi phí vận chuyển 3,6 USD/tấn, giá thành sẽ lên đến
19,5 USD/tấn mía. Hàm lượng đường trung bình nước ta chỉ đạt 8,7 CCS, chi
phí nguyên liệu cho một tấn đường là 230 USD/tấn. Điều đáng lo ngại là chỉ
riêng chi phí nguyên liệu của nước ta đã bằng giá đường trung bình trên thế giới.
Chi phí nhà máy
Chi phí sản xuất công nghiệp của các nhà máy đường Việt Nam cũng rất cao.
Chi phí lại khác nhau tùy từng loại nhà máy: nhà máy cũ đã khấu hao xong và
nhà máy mới xây dựng.
Bảng 4: Chi phí sản xuất đường công nghiệp của nhà máy cũ và nhà máy mới.
Đơn vị: USD/tấn đường THỊ
TRƯỜNG
CHI PHÍ NHÀ
MÁY CŨ
TỶ
TRỌNG
NHÀ
MÁY MỚI
TỶ
TRỌNG
TRUNG
BÌNH
TỶ
TRỌNG
1 Nguyên liệu 257
73,0 2,17 47,3 230
54,3
2 CP Biến đổi 14,9
4,2 18,1
3,9
17
4,0
3 CP Cố định:
- Nhân công
- Khấu hao
- Lãi
- CP chung
- Thuế
107,3
30,2
55,1
2,4
18,6
1,1
30,4
8,6
15,6
0,7
5,3
0,3
250,6
16,5
107
88,4
13,4
25,4
54,6
3,6
23,3
19,2
2,9
5,5
203
21
90
60
15
17
48
5
21,2
14,2
3,5
4,0
43
4 CP Gộp 122,2 34,7 268,7 58,6 220
52
5 Thu từ mật rỉ
-27,0 7,6 -27,0 5,9 -27,0
6,4
6 CP ròng 95,2 27,0 241,7 52,7 193 45,7
TỔNG CPSX 352,2 100 458.7 100 423 100
Nguồn: Nghiên cứu ngành mía đường Việt Nam đến năm 2010-2020
Các nhà máy cũ chi nhiều hơn cho mía, nhân công và chi phí chung. Đây là
điều có thể lý giải được vì ở những nhà máy này, thiết bị lạc hậu, năng suất ép
thấp lại để hao hụt nhiều. Mặt khác, biên chế cồng kềnh vì quá nhiều cấp quản
lý nên giá thành bị đội lên.
Các nhà máy mới thì ngược lại, cả công nghệ và bộ máy tổ chức đều tiên tiến
hơn nên giảm nhẹ được các hạng mục chi phí cho mía nguyên liệu, nhân công và
chi phí chung. Tuy nhiên, điều đáng chú ý hơn cả là phần khấu hao và chi phí
trả lãi vay. Ở các nhà máy mới xây dựng, chi phí cho các hạng mục này rất lớn,
chiếm 42,5% tổng cơ cấu giá thành so với 16,3% của các nhà máy cũ. Sở dĩ
như vậy là vì các nhà máy mới đều áp dụng thời hạn khấu hao ngắn, khoảng 5-7
năm, thời hạn hoàn vốn vay cũng ngắn.
Như vậy, chỉ riêng tổng chi phí xuất xưởng trung bình của tất cả những nhà máy
đường của Việt Nam là 423 USD/tấn, gấp đôi so với giá đường bán buôn trên
thị trường thế giới. Trong khi đó, giá thành của ba nước láng giềng là Úc, Ấn Độ
và Thái Lan đều có sức cạnh tranh tốt hơn Việt Nam nhiều.
Bảng 5: So sánh giá thành sản xuất đường
Đơn vị: USD/tấn đường HẠNG MỤC CHI PHÍ ẤN ĐỘ THÁI LAN ÚC VIỆT NAM
Chi phí mía
Chi phí vận chuyển
139
34
131
145
122
13
195
35
Chi phí nguyên liệu 173 176 135 230
44
Chi phí nhà máy 118 72 76 220
Nguồn thu từ mật rỉ -30 -20 -11 -27
Tổng chi phí 261 228 200 423
Nguồn: Nghiên cứu ngành mía đường Việt Nam đến 2010-2020
Theo phân tích của các chuyên gia trong ngành, giá thành đường cao như hiện
nay là do “tích hợp” của nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là:
- Các nhà máy đường thường đầu tư ở những vùng nông thôn, một số nơi là ở
vùng sâu, vùng xa có nhiều khó khăn nên chi phí và rủi ro cao.
- Kết cấu hạ tầng vùng mía (đường giao thông, cầu cống, thủy lợi…) còn yếu
kém. Việc thu mua, vận chuyển gặp nhiều trở ngại làm tăng chi phí, giảm
chất lượng mía và đội giá thành sản phẩm lên cao.
- Chưa có kinh nghiệm trong xây dựng vùng nguyên liệu tập trung nên có tình
trạng nơi thừa, nơi thiếu nguyên liệu, nhiều nhà máy rơi vào tình trạng hoạt
động cầm chừng hoặc với giá mía đầu vào quá cao, tiêu hao nguyên liệu lớn,
nhiều nơi giá thành cao hơn giá bán.
- Năng suất, chất lượng mía Việt Nam thấp
- Các nhà máy cũng chưa tận dụng phế liệu, phụ phẩm của đường để sản xuất
các sản phẩm sau đường và bên cạnh đường nhằm tận dụng mặt bằng, nhà
xưởng, điện, nước, lao động…
- Chi phí vận hành, khấu hao và lãi vốn vay tính cho một đơn vị sản phẩm cao.
Khả năng giảm giá thành với nỗ lực cao nhất
Nghiên cứu các bộ phận cấu thành giá đường về mặt lý thuyết thì có thể đưa ra
kết luận rằng: giá thành sản xuất đường có thể giảm bớt được ở một số hạng
mục.
Khâu sản xuất mía nguyên liệu
Trước hết về chi phí nguyên liệu, hiện trung bình là 230 USD/tấn đường trong
đó 30 USD là chi phí vận chuyển. Trong tương lai từ 2 đến 3 năm nữa, chúng ta
có thể đạt năng suất 55 tấn/ha và hàm lượng đường 9 CCS, đồng thời lượng
45
phân bón quá mức cần thiết sẽ được cắt giảm. Như thế chi phí nguyên liệu
(không tính chi phí vận tải) sẽ chỉ còn 137 USD so với 200 USD/1 tấn đường
hiện tại. Chi phí vận chuyển cho một tấn đường sẽ giảm xuống mức 28 USD.
Vậy tổng chi phí cho một tấn đường tính cả chi phí vận chuyển có thể xuống
được mức 165 USD, giảm được 65 USD.
Khâu công nghiệp chế biến đường
Chiếm tỉ trọng lớn hơn cả trong chi phí nhà máy là khấu hao và lãi, đặc biệt ở
các nhà máy mới xây dựng. Trong tương lai, các khoản mục này sẽ được giảm
mạnh. Do vậy, dự kiến chi phí cố định sẽ hạ thấp từ 203 USD/tấn đường hiện tại
xuống 105 USD/tấn đường, thêm vào chi phí biến đổi hiện nay (nhiên liệu, phân
bón…) là 15 USD/tấn. Vậy chi phí nhà máy sẽ là 120 USD/tấn đường. Đồng
thời, do chất lượng đường tốt hơn, các quá trình chế biến khoa học hơn, lượng
mật rỉ sẽ ít đi, thu hồi từ nguồn này chỉ còn 22 USD/tấn đường. Tổng cộng giá
thành xuất xưởng cho một tấn đường có thể hạ xuống được mức 263 USD.
Bảng 6: So sánh giá thành sản xuất đường giữa các nước.
Đơn vị: USD/tấn đường HẠNG MỤC CHI PHÍ ẤN ĐỘ THÁI LAN ÚC VIỆT NAM
HIỆN NAY
VIỆT NAM
TƯƠNG LAI
Chi phí mía
Chi phí vận chuyển
139
34
131
145
122
13
195
35
137
28
Chi phí nguyên liệu
Chi phí nhà máy
173
118
176
72
135
76
230
220
165
120
Nguồn thu từ mật rỉ -30 -20 -11 -27 -22
Tổng chi phí 261 228 200 423 263
Nguồn: Nghiên cứu ngành mía đường Việt Nam đến 2010-2020
Như vậy, so với các nước xuất khẩu láng giềng thì trong tương lai gần, Việt
Nam có thể đuổi kịp Ấn Độ nhưng vẫn còn thua xa Thái Lan và Úc.
Hiệp hội mía đường Việt Nam (HHMĐVN) cũng cho biết: từ niên vụ 2002-
2003, các thành viên đều thống nhất sẽ thực hiện nhiều giải pháp để từng bước
46
hạ giá thành đường sản xuất, chuẩn bị cho giai đoạn hội nhập AFTA và cạnh
tranh cùng các nước trong khu vực. Mức giá định hướng theo HHMĐVN đưa ra
là giá đường bán buôn giảm 10% so với vụ trước, đường tinh kuyện RE còn từ
5.500-6.000VND, đường RS từ 5.000-5.500VND, đường thô vàng còn 4.500-
5.000VND.
Tóm lại, giá đường hiện nay của Việt Nam cao và không ổn định; giá cả cũng
đang là nguyên nhân chính làm giảm năng lực cạnh tranh của ngành mía đường.
Tuy nhiên, mức giá này hoàn toàn có thể giảm xuống được nếu thực hiện tốt
việc cắt giảm chi phí ở các khâu nguyên liệu mía và chế biến công nghiệp. Từ
nay đến năm 2006 là khoảng thời gian còn lại không nhiều để ngành mía đường
khẩn trương cắt giảm giá thành. Song yêu cầu này cũng liên quan đến nhiều vấn
đề vượt quá khả năng giải quyết của riêng ngành mía đường mà cần đến sự hỗ
trợ của chính phủ để giá đường rẻ mà ngành đường không lỗ.
2.2 THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ
2.2.1 Thị trường trong nước
2.2.1.1 Tổng cầu cả nước và mức tiêu thụ bình quân theo đầu người
Tổng cầu cả nước
Lượng đường tiêu thụ của Việt Nam không ngừng tăng qua các năm và tốc độ
tăng cũng khá cao. Nếu tốc độ tăng niên vụ 1995-1996 đạt 1,4% thì đến niên vụ
2002-2003, con số này đã lên đến 12,8%, tương đương với mức 1.161.600 tấn.
Bảng 7: Kết quả tiêu thụ đường các năm qua (1995-2003) TÌNH HÌNH TIÊU THỤ NIÊN VỤ
LƯỢNG TIÊU THỤ (TẤN) TỐC ĐỘ PHÁT TRIỂN (%)
1994-1995 445.617 2,9
1995-1996 452.100 1,4
1996-1997 545.400 20,6
47
1997-1998 647.000 18,6
1998-1999 676.562 4,6
1999-2000 1.026.638 51,7
2000-2001 958.000 -6,7
2001-2002 1.029.650 7,5
2002-2003 1.161.600 12,8
Nguồn: Cục chế biến nông lâm sản và ngành muối, Bộ NN và PTNT
Mức bình quân tiêu thụ theo đầu người hàng năm
Việt Nam được coi là một trong những nước có mức tiêu thụ đường ít nhất trên
thế giới. Tuy nhiên, mức tiêu thụ này đã liên tục tăng do đời sống nhân dân được
cải thiện và năng lực đường sản xuất trong nước đã tăng lên đáng kể. Năm 1995,
mức bình quân tiêu thụ đầu người của Việt Nam 6,5 kg/người/năm song tới
nay, bình quân tiêu thụ đã đạt 12-13kg/người/năm. Mặc dù đã được cải thiện rất
nhiều song mức tiêu thụ này vẫn mới chỉ bằng 1/2 mức tiêu thụ bình quân của
thế giới (22-24kg/người/năm).
Nguyên nhân mức tiêu thụ thấp này không phải do người dân không có nhu cầu
sử dụng đường mà chủ yếu do người dân còn nghèo, mức thu nhập còn ở mức
400 USD/người/năm. Đường lại chưa phải là loại sản phẩm vô cùng thiết yếu
trong đời sống như lương thực nên mức tiêu dùng các sản phẩm đường thấp.
Một nguyên nhân khác cũng cần kể đến là giá bán đường nội địa cao. Người dân
thật sự khó nâng cao chất lượng đời sống của mình theo hướng tăng cường sử
dụng đường. Nhìn sang các nước láng giềng như Lào hay Trung Quốc, họ đều
có mức tiêu thụ lớn hơn Việt Nam.
Cơ cấu và mức độ tiêu dùng đường có sự khác nhau trong cả nước. Thành thị có
mức sử dụng đường cao hơn nông thôn và thường dùng các loại đường cát và
đường có sẵn trong các sản phẩm như bánh, kẹo, sữa… Trong khi đó, vùng nông
thôn tiêu thụ mạnh các loại đường đỏ, đường mật thủ công. Tuy nhiên, dân số
khu vực nông thôn lại đông nên tiềm năng tăng trưởng ở khu vực này là rất lớn.
48
2.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến cầu
Độ co dãn của cầu theo thu nhập
Việt Nam là một nước đang phát triển, bởi vậy, gia tăng thu nhập theo đầu người
sẽ làm tăng tiêu thụ. Theo một nghiên cứu của Ngân hàng Rabbo Hà Lan, độ co
dãn cầu theo thu nhập ở các nước đang phát triển là 0,4. Con số này cho thấy khi
thu nhập tăng 1% thì nhu cầu tiêu thụ đường sẽ tăng 0,4%. Cũng theo đó, với
mức tăng bình quân GDP nước ta khoảng 6%/năm, dân số khoảng 1,6%/năm
còn thu nhập đầu người khoảng 4,3%/năm thì nhu cầu tiêu thụ đường hàng năm
đáng lẽ phải tăng 1,3%. Tuy nhiên, trên thực tế, nhu cầu này đã tăng ở mức lớn
hơn nhiều là 6%. Sở dĩ có mức tăng lớn như vậy là do xuất phát điểm mức tiêu
thụ đường của Việt Nam rất thấp, đầu thập kỷ 90 mức tiêu thụ bình quân chỉ đạt
6 kg/người/năm. Nhờ có chính sách mở cửa kêu gọi đầu tư nước ngoài, mức
sống của người dân dã được cải thiện, tiêu thụ đường do vậy cũng tăng nhanh.
Đại hội Đảng IX đề ra mục tiêu đến năm 2010, GDP bình quân đầu người sẽ
tăng gấp 2,5 lần so với năm 2000 (tương đương với 1.000 USD/người). Triển
vọng này hứa hẹn mức tiêu thụ đường sẽ được cải thiện tốt hơn so với hiện nay.
Độ co dãn của cầu theo giá
Tác động của giá đường đến tiêu thụ được thể hiện qua độ co dãn của cầu theo
giá. Theo dự đoán của Tổ chức đường thế giới ISO, độ co dãn trung bình theo
giá ở các quốc gia đang phát triển bằng 0,1. Điều này có nghĩa là khi giá giảm đi
1% thì lượng tiêu thụ đường sẽ tăng thêm 0,1%. Mà Hiệp hội mía đường Việt
Nam cùng các thành viên đều đã thống nhất: từ niên vụ 2002-2003, ngành mía
đường sẽ thực hiện nhiều giải pháp để từng bước hạ giá thành đường sản xuất
nhằm chuẩn bị cho giai đoạn hội nhập AFTA và cạnh tranh cùng các nước trong
khu vực. Định hướng đặt ra là mức giá đường bán buôn sẽ giảm được10% so
với các vụ trước. Như vậy, lượng đường tiêu thụ hy vọng sẽ tăng thêm khoảng
1%.
Mức tăng dân số
49
Đây là nhân tố rất quan trọng ảnh hưởng đến sản lượng đường của các quốc gia
đang phát triển. Dân số nước ta hiện nay vào khoảng 80 triệu người. Chương
trình kế hoạch hóa gia đình đã khống chế nhịp độ tăng dân số dưới 1,8%. Bản
thân lượng dân số Việt Nam hiện nay đã là một thị trường lớn cho ngành mía
đường khai thác và mở rộng tiềm năng tiêu thụ. Do vậy, dù có sự khống chế ở
mức 1,8%/năm thì mức tăng dân số này vẫn sẽ thúc đẩy nhu cầu đường tăng lên.
Qua phân tích những nhân tố chính ảnh hưởng đến nhu cầu tiêu thụ đường trên
đây ta có thể đưa ra được mức cầu dự báo trong các năm tới. Dự tính trong
những năm tới, nhu cầu tiêu thụ đường hàng năm của Việt Nam sẽ tăng trong
khoảng 6-10% và sẽ ổn định ở mức 3-3,5% vào những năm sau năm 2010. Với
mức tăng nhu cầu là 6%/năm thì nhu cầu tiêu dùng đường trong nước sẽ ở mức
1,2-1,3 triệu tấn vào năm 2005 và khoảng 1,6-1,7 triệu tấn vào năm 2010. Như
vậy riêng thị trường trong nước cũng đã là một lợi thế tiềm năng lớn đối với
ngành mía đường Việt Nam.
2.2 Thị trường thế giới
Nhu cầu tiêu thụ đường của thế giới tăng khá đều qua các năm. Những năm đầu
thập kỷ 70, tổng mức tiêu thụ mới đạt 71,5 triệu tấn thì đến nay, con số này đã
lên tới 134,13 triệu tấn. Tuy nhiên, tốc độ tăng nhu cầu tiêu thụ đường đang có
chiều hướng giảm dần.
Bảng 8: Cân đối sản xuất và tiêu thụ đường trên thế giới
Đơn vị : Nghìn tấn
NIÊN VỤ SẢN XUẤT TIÊU THỤ TỐC ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA TIÊU THỤ (%)
TỒN KHO
1994-1995 116.360 115.887 22.500
50
1995-1996 122.885 120.293 3,8 25.092
1996-1997 123.349 122.409 1,8 25.392
1997-1998 126.546 125.494 2,5 26.984
1998-1999 130.859 126.500 0,8 31.343
Nguồn: Báo cáo thị trường đường thế giới, F .O Licht.
Châu Á là khu vực có lượng tiêu thụ đường lớn nhất trên thế giới và tăng lên
qua nhiều năm. Nguyên nhân do khu vực này có số dân đông, tốc độ tăng dân số
cao; thêm vào đó, trong suốt mấy thập kỷ qua, Châu Á đã trở thành một khu vực
năng động nhất thế giới về kinh tế, trung bình tiêu thụ đường ở Châu Á tăng
3%/năm. Châu Âu, Châu Úc và Bắc Mỹ nói chung có mức tiêu thụ ổn định do
dân số hầu như không tăng. Mặt khác, khi thu nhập đời sống ngày càng cao,
người ta bắt đầu chú ý đến vấn đề ăn kiêng. Chỉ riêng ở Châu Âu, lượng tiêu thụ
đã giảm 8% so với 10 năm trước, từ 33% xuống còn 25%. Mức tiêu thụ đường
cũng ổn định ở các nước Châu Phi do thu nhập của các nước hầu hết đều
không tăng .
Hiện nay, mức tiêu thụ bình quân đầu người hàng năm của thế giới là 22-24 kg.
Dẫn đầu thế giới là dân cư Châu Úc với 40,05 kg/người/năm; Nam Mỹ là 42,02
kg/người/năm; Bắc và Trung Mỹ là 30,09 kg/người/năm. Trong khi các nước
phát triển tiêu thụ 30-40 kg/người/năm thì các nước Châu Á tiêu thụ rất ít, chỉ
14 kg/người/năm.
Mặc dù nhu cầu tiêu dùng đường trên thế giới có tăng qua các năm nhưng tốc độ
tăng đang giảm dần. Những nước có lượng tiêu thụ lớn như Nga, Trung Quốc,
Inđônêxia… thì đã bình ổn. Những nước nhu cầu có thể tăng do giá nhập rẻ!thì
mức tiêu thụ lại nhỏ. Cuộc khủng hoảng tài chính ỡiền tệ m”i đây ở Châu Á đã
làm gián đoạn khả năng tiêu thụ đường của những nước này. Trong khi đó, sản
lượng đường thế giới ngày một tăng mạnh, đặc biệt là ở các nước sản xuất mía
đường lớn như Ấn Độ, Thái Lan, Trung Quốc. Sản xuất năm sau cao hơn năm
51
trước trong khi nhu cầu giảm dần đã làm cho khoảng cách giữa sản xuất eà tiêu
dùng ngày mở rộng.
Trước những diễn biến khôụg có lợi củarthị trường đường thế giới thì triển vọng
mở rộng thị trường của Việt Nam là không lớn song vẫn có thể thực hiện được.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc xâm nhập
và mở rộng thị trường xuất khẩu của ngành. Những cơ hội này còn nằm nhiều ở
dạng tiềm năng nhưng sẽ trở thành hiện thực nếu ngành mía đường biết tận
dụng, khai thác các thị trường ngách và nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.
Thực tế là trong thời gian qua, Việt Nam đã liên tục xuất khẩu đường với mức từ
60.000 đến 80.000 tấn vào các năm 2000, 2001 và 2003.
Tóm lại, thị trường tiêu thụ là một nhân tố bên ngoài có tác động lớn tới năng
lực cạnh tranh của ngành. Trong đó, nhu cầu tiêu dùng đường của thị trường nội
địa là rất tiềm năng và vấn đề còn lại là ngành cần thực hiện được những biện
pháp kích cầu để khai thác triệt để thị trường này. Khả năng mở rộng thị trường
ra khu vực và thế giới chứa đựng nguy cơ cạnh tranh rất cao song chính sự cạnh
tranh này sẽ tạo ra động lực để ngành tự vươn lên và phát huy những lợi thế của
mình.
2.3 ĐỐI THỦ CẠNH TRANH VÀ SẢN PHẨM BỔ SUNG THAY THẾ
2.3.1 Đối thủ cạnh tranh
2.3.1.1 Đường nhập khẩu
Đối với ngành mía đường Việt Nam hiện nay, đường nhập khẩu là mối đe dọa
cạnh tranh chính và sự cạnh tranh này ngày càng trở nên gay gắt khi Việt Nam
tham gia hội nhập kinh tế quốc tế.
Cho đến gần đây, Việt Nam vẫn là một nước nhập khẩu đường dù sản lượng
đường sản xuất đã tăng lên rất nhanh, trong đó có một phần đường thô nhập để
chế biến thành đường trắng. Nguồn nhập khẩu đường chủ yếu của chúng ta là
52
Cuba, Thái Lan, Trung Quốc, Úc. Đường nhập khẩu có nhiều chủng loại: đường
trắng, vàng, đỏ. Hai loại sau là đường thô chủ yếu nhập để tinh luyện đường
trắng song cũng được bán lẻ trên thị trường phục vụ người tiêu dùng có thu
nhập thấp, không đòi hỏi chất lượng cao.
Bảng 9: Lượng đường nhập khẩu vào Việt Nam 1995 – 2001
Đơn vị: Nghìn tấn
NĂM 1995 1996 1997 1998 1999 2001
NHẬP KHẨU 145,5 15,9 70 123 42,8 81,3
TỐC ĐỘ PHÁT TRIỂN (%) -89,07 340 75,71 -65,20 89,95
Nguồn: Niên giám thống kê 2001
Lượng đường nhập khẩu của Việt Nam từ năm 1995 đến năm 2001 có sự biến
động mạnh mẽ. Sự tăng giảm thất thường của lượng đường nhập khẩu có thể
được lý giải bằng tình trạng sản xuất chưa ổn định của ngành công nghiệp mía
đường. Sau nhiều nỗ lực của Chương trình mía đường, ngành mía đường Việt
Nam đã hạn chế tối đa việc nhập khẩu đường, mà kết quả rõ nhất là nước ta
hoàn toàn không phải nhập khẩu đường vào năm 2000. Đến năm 2001 lượng
đường nhập khẩu tăng lên với tốc độ khá cao là 89,95%. Tuy nhiên, nguyên
nhân chủ yếu ở đây là do đời sống người dân được nâng cao nên nhu cầu tiêu
dùng đường cũng tăng mạnh và một phần không nhỏ lượng đường nhập khẩu
(đường thô) được dùng để sản xuất đường tinh luyện.
Mới đây do yêu cầu hỗ trợ sản xuất trong nước, Chính phủ đã ra quyết định quản
lý đường nhập khẩu qua hạn ngạch và mức thuế nhập khẩu từ 35-45%. Đây là
một mức thuế cao và đã phát huy tác dụng trên thị trường đường nội địa. Giá
bán đường tại thị trường nội địa vì thế được quyết định bởi các nhà sản xuất Việt
Nam. Mức giá này tất nhiên cao hơn nhiều so với giá quốc tế.
53
Hai mối đe dọa chính cho sản xuất đường Việt Nam là Thái Lan và Trung
Quốc, những nước giáp ranh biên giới với Việt Nam.
Thái Lan
Do đồng baht phá giá, giá đường tại thị trường Thái Lan cũng giảm mạnh từ trên
400 USD/T những năm trước 1997 xuống còn khoảng 300 USD/T như hiện nay.
Tại cửa khẩu Vĩnh Xương, giá đường Thái Lan bán lẻ chỉ có 3.800 VND/kg.Về
đến thành phố Hồ Chí Minh, giá tăng lên 5.700-5.800 VND/kg. Song mức giá
này vẫn rẻ hơn đường RE Biên Hòa từ 200-300 VND/kg. Trải qua cuộc khủng
hoảng, ngành sản xuất đường của Thái Lan được cải tổ lại và giá này được rút
xuống. Như thế đường Việt Nam khó mà cạnh tranh nổi với đường Thái Lan
ngay trên thị trường nội địa hiện nay cũng như vài năm tới khi hàng rào phi thuế
quan không còn và thuế suất chỉ ở mức 5%.
Tuy nhiên, cũng cần có một có một sự phân tích về mức giá xuất khẩu đường
thấp của Thái Lan như hiện nay. Theo ông Emmanuel Cortadellas, Tổng giám
đốc Công ty mía đường Bourbon Tây Ninh (SBT) kiêm Tổng giám đốc tập đoàn
Bourbon tại Việt Nam, khả năng cạnh tranh về giá cả của đường Thái Lan có
được chính là nhờ vào sự bảo hộ của Chính phủ Thái Lan đối với ngành đường
trong nước (thông qua điều khiển giá cả) và khả năng kiểm soát đường biên chắc
chắn. Hàng năm, dựa vào nhu cầu Chính phủ Thái Lan sẽ phân bổ hạn ngạch sản
xuất cho các nhà máy đường sao cho giá đường trong nước được giữ ở mức
tương đương 10.000 VND/kg. Mức giá này đủ để các nhà máy đường Thái Lan
có một tỷ lệ lợi nhuận nhất định. Ngoài hạn ngạch này, nếu sản xuất dư thừa, các
nhà máy đường buộc phải xuất khẩu. Do đã thu được lợi nhuận từ thị trường
trong nước nên các nhà máy này bán đường sang Việt Nam và Campuchia với
bất kỳ giá nào. Điều này giải thích tại sao giá đường nhập khẩu của Thái Lan
bán tại Việt Nam còn thấp hơn cả giá thành trong nước của họ. Phương thức
xuất khẩu đường của Thái Lan cũng là cách mà nhiều quốc gia Châu Âu hiện áp
dụng để điều tiết cung-cầu trong nước, tức là giá nội tiêu cao hơn giá xuất khẩu
để bù cho giá xuất khẩu thấp. Về phía mình, Việt Nam cam kết chỉ cắt giảm thuế
54
quan mặt hàng đường sau năm 2006 nhưng trên thực tế, theo ông Emmanuel
Cortadellas, Việt Nam đã thực hiện “AFTA một chiều”. Nghĩa là lâu nay, đường
nhập lậu từ Thái Lan đã tràn vào Việt Nam với giá cực rẻ, chính phủ Việt Nam
lại chưa thực hiện việc trợ cấp giá xuất khẩu hay tham gia điều tiết giá cả trên thị
trường nội địa. Như vậy chẳng khác gì Việt Nam phần nào đã thực hiện AFTA.
Trong khi đó, đường của Việt Nam lại khó có thể bán ra nước ngoài, mà cụ thể ở
đây là Thái Lan vì họ chưa cắt giảm thuế quan theo AFTA. Nếu phải chịu thuế
suất nhập khẩu vào Thái Lan như hiện nay, đường Việt Nam không thể bán
được ở Thái Lan. Nhưng nếu thực hiện AFTA sớm, mức giá 10.000 VND/kg,
mức giá bình thường với người Thái Lan, sẽ là mức hấp dẫn đối với các nhà
máy đường Việt Nam. Với nhận định như vậy, thị trường hơn 45 triệu dân của
Thái Lan là cơ hội tốt cho các nhà máy đường Việt Nam, nhất là các nhà máy ở
phía Nam, có thể vận chuyển đường sang Thái Lan bằng đường bộ, qua ngả
Campuchia.
Trung Quốc
Về lâu dài, đường Trung Quốc không có ưu thế hơn nhiều so với đường Việt
Nam vì giá thành sản xuất của các nhà máy đường Trung Quốc cao, giá bán
trong nước cao hơn nhiều so với giá thế giới. Tuy nhiên, Chính quyền trung
ương và các địa phương Trung Quốc đều mong muốn gia tăng xuất khẩu đường
để giảm bớt tồn kho trong nước. Việt Nam ở liền kề, chi phí giao thông thấp nên
trở thành một thị trường mà họ nhắm tới. Đặc biệt hai tỉnh Vân Nam và Quản
Tây giáp ranh giới Việt Nam lại là hai vựa đường lớn nhất Trung Quốc đang
trong tình trạng ế thừa lớn.
Như vậy, với sự bảo hộ của Chính phủ hiện nay, ngành mía đường Việt Nam
tạm thời sẽ không phải chịu sự cạnh tranh gay gắt và trực tiếp từ đường nhập
khẩu, nếu có thì mới chỉ là một số nhà sản xuất trong khu vực do lợi thế ở gần
Việt Nam. Song trong tương lai gần, khi Việt Nam thực hiện xóa bỏ bảo hộ theo
cam kết hội nhập, mà cụ thể và gần nhất là cam kết trong AFTA vào năm 2006,
thì không chỉ có những nhà sản xuất trong khu vực mà sản phẩm đường của các
55
nước khác trên thế giới cũng có thể tham gia cạnh tranh với đường Việt Nam.
Cho tới khi đó, nếu ngành mía đường Việt Nam vẫn chưa có được những giải
pháp để hạ thấp giá cả cùng một chiến lược cạnh tranh tốt thì khả năng tồn tại và
chiến thắng trong cạnh tranh ngay trên sân nhà cũng là điều hết sức khó khăn.
2.3.1.2 Đường và các sản phẩm có chứa đường nhập lậu
Cùng với đường nhập khẩu, đường và các sản phẩm có chứa đường nhập lậu
thực sự đã trở thành một mối đe dọa cạnh tranh không lành mạnh nhưng rất khó
đối phó đối với ngành mía đường Việt Nam.
Giá đường trong nước cao và kiểm soát đường biên kém hiệu quả đã tạo cơ hội
để giới buôn lậu động mạnh, nhập đường và các sản phẩm có chứa đường bán
lại trên thị trường trong nước kiếm lời. Sự xuất hiện của đường buôn lậu đã cạnh
tranh một cách không lành mạnh với đường sản xuất trong nước, làm cho những
nỗ lực giảm giá đường của các nhà máy trở nên vô cùng khó khăn. Cũng chính
nguồn đường nhập lậu là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây ra nạn tồn
kho quá nhiều như vài năm trước đây. Hơn thế, mặc dù Nhà nước đã chủ trương
xuất khẩu một lượng đường dư thừa nhất định, tất nhiên là phải chịu bù lỗ để
giúp đỡ ngành đường trong nước nhưng đường và các sản phẩm có chứa đường
nhập lậu sẽ khiến cho nỗ lực bù lỗ cho xuất khẩu trở nên vô nghĩa.
Bảng 10 trình bày cân đối cung cầu đường của Việt Nam từ nay đến năm 2010.
Nhu cầu được dự kiến với tỉ lệ tăng trưởng là 6%/năm. Với tốc độ này dự đoán
đến năm 2006 ngành mía đường mới giải quyết hết lượng tồn kho. Song nếu
đường nhập lậu vẫn giữ nguyên ở mức lớn như hiện nay thì lượng tồn kho chắc
chắn sẽ còn nhiều và dai dẳng.
Tóm lại, đường nhập lậu không chỉ phá vỡ nỗ lực kiểm soát giá đường thông
qua cung-cầu trong nước, ảnh hưởng xấu đến thị trường tiêu thụ mà còn ngăn
cản sự phát triển lành mạnh của ngành, tạo ra những tác hại nghiêm trọng đến
năng lực cạnh tranh của ngành mía đường Việt Nam trước thềm hội nhập kinh
tế quốc tế. Không có sự lựa chọn nào khác, Nhà nước, mà cụ thể là Ban chỉ đạo
56
127 Trung ương, Tổng cục Hải quan, Cục quản lý thị trường, Bộ NN và PTNT,
cần có ngay những biện pháp cứng rắn để chặn đứng tình trạng nhập lậu tràn lan
đường và các sản phẩm chứa đường từ Trung Quốc, Thái Lan… như hiện nay.
Bảng 10: Cung cầu đường của Việt Nam giai đoạn 2002-2010
Đơn vị: Nghìn tấn NIÊN VỤ SẢN XUẤT TIÊU THỤ VỚI MỨC TĂNG
6%/NĂM
KHỐI LƯỢNG
TỒN KHO
2002-2003 1.130.000 900.000 +230.000 2003-2004 1.150.000 1.070.000 +80.000 2004-2005 1.150.000 1.144.900 +5.000 2005-2006 1.200.000 1.225.043 -25.000 2006-2007 1.250.000 1.310.796 -70.000 2007-2008 1.300.000 1.402.552 -103.000 2008-2009 1.400.000 1.500.730 -100.000 2009- 2010 1.500.000 1.605.780 -100.000
Nguồn: Cục chế biến nông lâm sản và nghề muối, Bộ NN và PTNT.
2.3.2 Sản phẩm bổ sung, thay thế
Các sản phẩm thay thế, bổ sung là mối cạnh tranh trước mắt và lâu dài đe dọa
đến sự phát triển của ngành mía đường. Như đã phân tích trong phần thị trường
tiêu thụ, nhu cầu đối với đường và các sản phẩm có đường của Việt Nam vẫn
còn cao và tiếp tục tăng lên. Tuy nhiên, mức cầu này chỉ tăng tối đa khoảng 6%.
Nếu giá đường vẫn tiếp tục ở mức cao, người tiêu dùng rất có thể chuyển sang
sử dụng các sản phẩm có chứa đường thay thế: đối với người tiêu dùng trực tiếp
có thể là lượng hoa quả tự nhiên; đối với các ngành công nghiệp chế biến có thể
là các chất tạo ngọt thay thế. Cũng cần kể đến một xu hướng rất dễ làm giảm
mức tiêu thụ đường trong tương lai, đó chính là tâm lý sợ béo và sự gia tăng của
lượng người mắc bệnh tiểu đường.
57
2.3.2.1 Hoa quả có chứa đường
Các loại hoa quả có chứa đường là nguồn cung cấp đường tự nhiên và bổ dưỡng
cho con người. Việt Nam lại là một nước có khí hậu nhiệt đới rất thích hợp cho
việc trồng các loại cây ăn quả loại này. Khi Việt Nam chưa có khả năng tự cung
cấp đường như hiện nay thì bên cạnh đường nhập khẩu, hoa quả chính là nguồn
bổ sung đường tự nhiên và cần thiết cho cơ thể. Đặc biệt ở các vùng nông thôn,
vùng sâu, vùng xa, do điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, giá đường còn cao
so với thu nhập của họ, người dân chỉ dám dùng đến đường vào những lúc bệnh
tật, ốm đau hay những dịp lễ lớn. Việc sử dụng trái cây, hoa quả có chứa đường
là cách để cân bằng nguồn đường cần thiết cho cơ thể. Tất nhiên, khi mức sống
được cải thiện, người dân sẽ có cơ hội để tiêu dùng đường nhiều hơn. Song nếu
giá đường cao hơn mức giá của các loại hoa quả sẵn có thì người tiêu dùng tất
yếu sẽ tự động chuyển sang sử dụng các loại đường tự nhiên này.
2.3.2.2 Chất tạo ngọt, đường hóa học
Nhiều nước trên thế giới hiện nay đang tăng cường sản xuất các chất ngọt nhân
tạo. Giá thành những chất này rất rẻ, lại phù hợp làm nguyên liệu cho các ngành
chế biến thực phẩm nên thị trường của nó rất lớn. Một bộ phận dân cư có thu
nhập thấp cũng thiên về sử dụng những chất này.
Các chất tạo ngọt điển hình là Siro HFS (High Fructose Syrrup) và đường hóa
học Saccharine. Các chất này được chế biến từ các nguyên liệu chính là ngô,
khoai tây hoặc tinh bột sắn. HFS có độ ngọt cao nhưng nghèo năng lượng nên
được ưa chuộng ở các nước phát triển như Mỹ, Nhật và chi phí sản xuất HFS rất
thấp. Đường hóa học saccharine cũng có độ ngọt rất cao, cao hơn 300 lần so với
đường mía, nên 3.500 tấn đường saccharine có thể thay thế cho hơn 1 triệu tấn
đường. Giá của saccharine tương đương với một tấn đường chỉ có 12 USD. Vì
thế saccharine được tiêu dùng rất nhiều ở các vùng nông thôn. Tại các nước
58
đang phát triển, HFS và saccharine thực sự là những mối đe dọa đối với ngành
sản xuất đường trong nước.
Hiện nay, Chính phủ Việt Nam đã ra lệnh cấm nhập khẩu đường hóa học do tác
hại của chúng đối với sức khỏe và sự phát triển của ngành đường trong nước.
Tuy vậy, nước ta vẫn đang phải đối mặt với nguy cơ chất tạo ngọt nhân tạo nhập
lậu tràn lan trên thị trường, thu hút bộ phận lớn nhu cầu tại nông thôn. Đây cũng
là một mối đe dọa lớn cho sản xuất đường Việt Nam vì thị phần chắc chắn sẽ bị
thu hẹp lại. Theo các nhà sản xuất Trung Quốc, để hạn chế những ảnh hưởng do
sử dụng đường hóa học cần giảm giá đường trong nước, đồng thời nâng giá
nguyên liệu thô sử dụng để sản xuất đường hóa học. Nếu giá đường nội tiêu mà
tăng cao, nhu cầu về đường hóa học sẽ tăng.
2.3.2.3 Tâm lý sợ béo và sự gia tăng bệnh tiểu đường
Cùng với mức sống ngày càng được cải thiện, người dân có điều kiện ăn uống
tốt hơn, trong đó, một bộ phận không nhỏ đang đứng trước nguy cơ mắc bệnh
béo phì và các chứng bệnh thừa dinh dường khác, đặc biệt là bệnh tiểu đường.
Nguy cơ này ở trên thế giới đang gia tăng với tốc độ lớn. Việt Nam còn là một
nước nghèo và đang phát triển nên những căn bệnh này chưa thực sự thịnh hành.
Mặc dù vậy, do xu hướng ưa chuộng vẻ đẹp mảnh mai, cân đối nên tâm lý sợ
béo đã rất phổ biến ở Việt Nam, đặc biệt là với nữ giới. Mà đường là một trong
những nhân tố được coi là dễ gây béo. Bởi vậy, người tiêu dùng đã tự hạn chế sử
dụng đường trực tiếp và thường tìm đến các loại đường tự nhiên có trong hoa
quả hay một số sản phẩm có chứa lượng đường vừa phải như sữa, nước ngọt,
bánh kẹo…
Trong tương lai, khi thu nhập càng được cải thiện, số người sợ béo hay mắc các
căn bệnh có liên quan đến thừa đường sẽ ngày một tăng lên. Đây là một nguy cơ
de dọa đến sự tăng trưởng nhu cầu tiêu dùng đường. Bởi vậy, gánh nặng đặt lên
vai những nhà sản xuất đường trong việc đa dạng hóa các sản phẩm đầu ra. Có
vậy ngành mía đường Việt Nam mới có thể đáp ứng được những nhu cầu khác
59
nhau của từng đối tượng khách hàng, mở rộng được thị trường và giành thắng
lợi trong cạnh tranh quốc tế.
2.4 CÁC NGÀNH HỖ TRỢ, LIÊN QUAN
2.4.1 Các ngành công nghiệp chế biến các sản phẩm sau đường và bên
cạnh đường
Các ngành công nghiệp chế biến sản phẩm sau đường và bên cạnh đường là một
thị trường tiêu thụ lớn các sản phẩm của ngành mía đường. Thị trường này bao
gồm các nhà sản xuất sữa, kem, sôcôla, bánh, kẹo, đồ hộp, rượu mùi, dược
phẩm… Từ năm 1996 đến 1999, nhịp độ tăng trưởng của thị trường này không
ổn định, phần lớn do ảnh hưởng của khủng hoảng ở Châu Á, song đã nhanh
chóng hồi phục từ năm 2000. Yêu cầu về chất lượng của các ngành này chủ yếu
là đường tinh luyện, chiếm khoảng 70%-80%. Đường trắng và đường thủ công
chiếm tỷ lệ không lớn và có xu hướng giảm xuống do đòi hỏi ngày càng cao về
độ trắng, độ mịn của đường ở một số ngành như sữa, bánh kẹo, nước ngọt….
Ngoài ra, các nhà máy trong ngành mía đường cũng đã tổng hợp lợi dụng từ
mía, đường và các phế phụ liệu trong quá trình sản xuất để hình thành nên các
“Tổ hợp nông-công nghiệp”, sản xuất ra các sản phẩm sau đường và bên cạnh
đường. Đây là một bước đi hợp lý và cần thiết để tận dụng cơ sở hạ tầng, mặt
bằng nhà xưởng và nguồn nhân lực. Các nhà máy đã phát triển được các sản
phẩm phụ sau đường như: bã mía cung cấp nguyên liệu làm Bột giấy, chế tạo
Ván ép, trồng Nấm ăn; bùn lọc làm Phân vi sinh và lượng phân vi sinh này lại
được dùng cho các vùng trồng mía; mật rỉ sản xuất Rượu, Cồn hoặc cung cấp
cho các nhà máy Bột ngọt, Men thực phẩm. Ngoài ra, tùy điều kiện tại chỗ các
nhà máy đã phát triển nhiều mặt hàng bên cạnh đường như: bánh, kẹo, nước
giải khát, nước khoáng, sữa, thức ăn gia súc… Đến nay đã có 10 công ty và nhà
máy đường như Lam Sơn, Sơn La, Hiệp Hòa, Biên Hòa, Việt Trì, Sông Con,
Khánh Hòa… phát triển hướng đi này. Nhờ đó, sản phẩm trở nên đa dạng,
phong phú hơn và bước đầu đã hạ được thành đường, nâng cao hiệu quả sản
60
xuất kinh doanh. Doanh thu các sản phẩm sau đường đạt gần 1.000 tỷ VND,
chiếm 16,6% so với tổng doanh thu 6.000 tỷ VND của ngành đường, giải quyết
thêm việc làm và ổn định thu nhập cho 3.500 lao động.
2.4.2 Các ngành liên quan đến hạ tầng cơ sở
Kết cấu hạ tầng cơ sở đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển ngành
mía đường. Kết cấu hạ tầng được đề cập đến ở đây chủ yếu là hệ thống đường
xá, cầu cống, và hệ thống thủy lợi, tưới tiêu cho các vùng trồng mía nguyên liệu.
Hệ thống thủy lợi, tưới tiêu tác động trực tiếp đến năng suất và chất lượng của
cây mía. Hiện nay, do đặc tính riêng biệt, cây mía đa phần được trồng ở những
vùng nông thôn, một số ở vùng sâu, vùng xa. Cây mía từ trước tới nay lại vẫn
được trồng theo lối nông nghiệp, chưa chú trọng đến làm đất, tưới tiêu nên mía
cho năng suất không cao cả về mặt số cây trên một đơn vị diện tích lẫn về mặt
hàm lượng đường trong mía. Đây là một bất lợi cho sản xuất mía đường Việt
Nam và hiện vẫn còn là một vấn đề lớn cần được các bộ, ban, ngành hữu quan
nghiên cứu và đầu tư cho tương xứng với tiềm năng của ngành.
Hệ thống đường xá, cầu cống có tác động trực tiếp đến hiệu quả cung cấp
nguyên liệu cho các nhà máy sản xuất. Hệ thống này tốt sẽ làm giảm chi phí vận
chuyển, tiết kiệm được thời gian chuyên chở từ chân ruộng mía, từ các vùng quy
hoạch nguyên liệu tập trung đến các nhà máy sản xuất chế biến. Nhưng nếu xấu,
hệ thống này sẽ gây ra những tác hại lớn không những về mặt kinh tế mà còn
làm giảm khả năng cạnh tranh của toàn ngành mía đường. Bởi đối với một loại
cây nông nghiệp như mía, thời gian từ khi đốn chặt đến lúc chế biến sẽ ảnh
hưởng đến chất lượng mía. Khi mía chín và được chặt xuống, nếu chưa được chế
biến ngay thì chữ đường trong mía sẽ bị giảm xuống với tốc độ là 1 CCS/1 ngày.
Mà chúng ta đã biết, chất lượng mía của Việt Nam chưa cao, chữ đường bình
quân sau một thời gian phấn đấu, cải tạo giống mía mới đạt khoảng 9, 5 CCS.
Vậy chỉ do tính toán lịch đốn chặt khi mía chín không hợp lý hoặc do đường xá,
cầu cống vận chuyển không thuận lợi có thể biến những nỗ lực nâng cao chất
61
lượng mía, đầu tư công nghệ sản xuất chế biến trở nên vô nghĩa. Hiện nay, hầu
hết hệ thống đường xá, cầu cống quanh các vùng nguyên liệu của ngành đều yếu
kém, chưa được đầu tư thỏa đáng, vốn đầu tư cho lĩnh vực này mới chỉ đạt dưới
10% nhu cầu. Đặc biệt, khu vực đồng bằng Sông Cửu Long, hệ thống này quá
kém, chi phí vận chuyển đường bộ quá lớn nên phải xây dựng cầu cảng để vận
chuyển bằng đường thủy cho đảm bảo nguyên liệu kịp thời sản xuất. Ngoài ra,
hệ thống đê bao ngăn nước mặn ở vùng đồng bằng sông Cửu Long cần được gia
cố, hoàn thiện nhằm chủ động vùng nguyên liệu cho các nhà máy ở khu vực
này.
Như vậy, kết cấu hạ tầng cho ngành mía nói chung còn nhiều bất lợi, lại chưa
được quan tâm, đầu tư thích đáng. Thực trạng này đã và đang góp phần làm tăng
giá thành đường, làm giảm sức cạnh tranh của toàn ngành.
Tóm lại, sự phát triển ngày càng mạnh của các ngành công nghiệp chế biến các
sản phẩm sau đường và bên cạnh đường là một tác nhân có lợi cho năng lực
cạnh tranh của ngành mía đường. Tuy nhiên, những tồn tại trong hệ thống cơ sở
hạ tầng vẫn đang là một lực cản không nhỏ. Hy vọng cùng với quá trình công
nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước, vấn đề này sẽ được khắc phục và trở thành
một yếu tố thúc đẩy năng lực cạnh tranh của ngành mía đường Việt Nam.
2.5 MÔI TRƯỜNG CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH
Môi trường cơ chế, chính sách của Chính phủ Việt Nam được đánh giá là có
nhiều ưu đãi đối với ngành mía đường. Tuy nhiên, trên thực tế, môi trường quản
lý vĩ mô này chưa thực sự được đầu tư đúng hướng để đem lại hiệu quả và nâng
cao năng lực cạnh tranh cho ngành.
2.5.1 Những thuận lợi
Những lợi thế mà môi trường cơ chế chính sách đã mang lại cho ngành là không
nhỏ.
62
Sự ra đời của Chương trình mía đường theo Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VIII đã đem lại một bước ngoặt lớn cho ngành mía đường Việt
Nam, chuyển từ một ngành sản xuất tiểu thủ công sang sản xuất công nghiệp. Đi
cùng với chương trình này là một loạt chính sách đầu tư, hỗ trợ của Nhà nước
cùng các ngành, các cấp để phát triển ngành công nghiệp mía đường.
- Nhà nước đã hỗ trợ một lượng vốn không nhỏ cho xây dựng và phát triển các
nhà máy đường: thu hút đầu tư thông qua huy động tiết kiệm từ các địa
phương, mua trả góp thiết bị của Trung Quốc, kêu gọi vốn FDI và ODA; cấp
tín dụng ưu đãi như cho vay không có thế chấp hoặc cho vay với lãi suất ưu
đãi đối với nông dân trồng mía nghèo, vay dưới 10 triệu VND; miễn giảm
thuế sử dụng đất nông nghiệp trồng mía ở những vùng khó khăn; miễn thuế
sử dụng đất của các doanh nghiệp…
- Nhà nước quy hoạch các vùng nguyên liệu cho các nhà máy đường: giao cho
từng tỉnh, thành phố chịu trách nhiệm đảm bảo đất trồng mía cho các nhà
máy; đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, làm các đường trục chính ngoài khu
vực nhà máy, xây dựng các công trình thủy lợi đầu mối; cấp kinh phí ngân
sách cho việc nghiên cứu, phát triển công nghệ kỹ thuật về giống, canh tác
- Đối với các nhà máy quốc doanh: bên cạnh các khoản đầu tư xây dựng nhà
máy, vùng nguyên liệu và trang thiết bị, Nhà nước còn bù lỗ cho các nhà máy
bị thua lỗ và xóa nợ ngân hàng cho một số nhà máy thua lỗ liên tục.
Nhà nước cũng bảo hộ thị trường sản xuất trong nước thông qua thuế suất và
hạn ngạch nhập khẩu. Dưới sự can thiệp của Nhà nước, đường nhập khẩu đã hầu
như đã không còn, giá đường trong nước đã được đẩy lên. Lượng tiêu thụ tăng
giúp cho các nhà máy sản xuất đường dần dần thoát khỏi tình trạng thua lỗ và
giá đường do vậy bắt đầu hạ xuống.
2.5.2 Các hạn chế
Bên cạnh những thành công, môi trường cơ chế chính sách cũng chứa dựng
những hạn chế làm giảm năng lực cạnh tranh của ngành.
63
Chương trình mía đường chưa được tính toán, xây dựng một cách cụ thể và xác
thực với năng lực của ngành mía đường. Mục tiêu sản xuất 1 triệu tấn đường
thay thế nhập khẩu là hợp lý song thời hạn thực hiện là rất không chuẩn. Nhà
nước mới thấy được những lợi thế lớn về đất đai, khí hậu và nguồn lao động chứ
chưa lường trước được hết những khó khăn có thể phát sinh và đặc thù phức tạp
của việc kết hợp giữa cây trồng nông nghiệp với công nghiệp chế biến. Cụ thể
như:
- Vốn đầu tư cho nhà máy đường là lớn, nhưng phải đi vay 100%. Thời gian
vay ngắn, 7 năm, trong khi các nhà máy sản xuất đường trên thế giới thường
được vay trong thời hạn ít nhất là 15 năm. Thời gian khấu hao từ 7 đến 12
năm là quá ngắn so với thời gian khấu hao trung bình của các nhà máy đường
thế giới là từ 18-20 năm. Như vậy, chỉ riêng chi phí trả lãi vay và chi phí
khấu hao đã chiếm đến khoảng 35- 40% giá thành đường, đặc biệt đối với
các nhà máy mới xây dựng. Đây là một yếu tố gây đội giá lên cao, làm giảm
sức cạnh tranh của sản phẩm.
- Các nhà máy không được cấp đủ 30% vốn lưu động định mức, mà thực tế chỉ
được cấp khoảng 5%, nên buộc các nhà máy phải vay vốn lưu động theo lãi
suất thương mại. Tình trạng này đã đẩy nhiều nhà máy đường đến chỗ phải
bán đường non với mức giá thấp, bán đường cho các cơ sở trung gian ép giá
để có tiền mua nguyên liệu, chi phí cho sản xuất. Khó khăn do vậy càng
chồng lên khó khăn.
- Sự phân biệt đối xử giữa các nhà máy đường quốc doanh với các nhà máy tư
nhân, doanh nghiệp liên doanh, 100% vốn nước ngoài đã làm giảm động cơ
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các nhà máy trong ngành, tạo ra
một môi trường cạnh tranh không lành mạnh.
Song hạn chế lớn nhất của môi trường cơ chế, chính sách của ngành mía đường
Việt Nam là thiếu đi sự can thiệp của chính phủ vào điều tiết giá cả và hỗ
trợ xuất khẩu.
64
- Kinh nghiệm quản lý của hầu hết các nước sản xuất và xuất khẩu đường lớn
trên thế giới như Liên minh Châu Âu, Thái Lan, Braxin đều cho thấy rằng,
Chính phủ của các nước này đã dùng các công cụ vĩ mô để can thiệp sâu vào
giá đường trong nước. Nhờ vậy, các nhà sản xuất trong nước vừa có đủ lợi
nhuận để duy trì sản xuất lại vừa có thể xuất khẩu lượng đường dư thừa với
mức giá thấp.
- Chính phủ các quốc gia này cũng quản lý giá thông qua Quỹ dự trữ đường.
Khi giá đường trên thị trường lên cao, Nhà nước sẽ bán ra một lượng đường
lớn làm hạ mức giá trên thị trường. Ngược lại, khi giá đường xuống thấp,
chính phủ sẽ mua vào một lượng lớn cho đến khi giá trở lại mức thích hợp.
Ngoài ra, Chính phủ Việt Nam đã không làm tốt được công tác kiểm soát biên
giới quốc gia nên để một lượng lớn đường và các sản phẩm có chứa đường nhập
lậu tràn lan trên thị trường. Chính lượng đường lậu này đã cạnh tranh một cách
không lành mạnh đến sản xuất trong nước, gây mất cân bằng cung cầu. Song
nghiêm trọng hơn, đường nhập lậu là tác nhân chính không cho phép Việt Nam
áp dụng hiệu quả phương pháp xuất khẩu mà các nước sử dụng.
Như vậy, môi trường cơ chế, chính sách của Việt Nam bước đầu đã có những
thuận lợi nhất định cho ngành mía đường. Tuy nhiên, cùng với quá trình phát
triển, môi trường này đã bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là Chương trình mía
đường và Vai trò quản lý vĩ mô của Chính phủ, gây cản trở không nhỏ đến năng
lực cạnh tranh của ngành. Xuất phát từ thực tế của ngành mía đường hiện nay
kết hợp với việc học hỏi kinh nghiệm quản lý vĩ mô của các nước sản xuất
đường lớn trên thế giới, môi trường cơ chế, chính sách của Việt Nam cần được
điều chỉnh cho phù hợp và theo kịp với yêu cầu phát triển của ngành mía đường,
đặc biệt là trước lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế.
65
Qua mô hình phân tích 5 yếu tố ở trên, ta có thể kết luận rằng năng lực cạnh
tranh của ngành mía đường Việt Nam còn thấp vào thời điểm hiện tại. Yếu tố
cơ bản làm giảm năng lực cạnh tranh là MÔI TRƯỜNG CHÍNH SÁCH, cụ thể
là Chương trình mía đường năm 1995. Chương trình này còn mang bóng
dáng tư tưởng kế hoạch tập trung của nền kinh tế cũ, với những tính toán
chưa hợp lý và sử dụng các chính sách hỗ trợ chưa mang lại hiệu quả. Kết
quả không những là tiêu tốn nhiều tiền của mà còn không tạo ra một ngành
công nghiệp mang tính cạnh tranh và làm giảm động cơ chủ động, sáng tạo
của các nhà máy. Tất nhiên ngành mía đường cũng còn phải đối mặt với
những khó khăn từ các ĐỐI THỦ CẠNH TRANH và CÁC SẢN PHẨM BỔ SUNG
THAY THẾ, đặc biệt khi thời khắc hội nhập đang đến gần. Song sự tăng
trưởng của ngành chỉ trong một thời gian ngắn vừa qua đã cho thấy những
tiềm năng lớn về NĂNG LỰC SẢN XUẤT và THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ. Như vậy,
năng lực cạnh tranh mức độ thấp hiện nay có thể được nâng cao bằng những
giải pháp hợp lý từ phía Chính phủ và doanh nghiệp.
66
CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
NGÀNH MÍA ĐƯỜNG VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
3.1 CÁC ĐỊNH HƯỚNG LỚN CỦA NGÀNH MÍA ĐƯỜNG VIỆT NAM
TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
3.1.1 Định hướng hội nhập của ngành mía đường Việt Nam
Mục tiêu
Nâng cao khả năng cạnh tranh, chủ động hội nhập vào khu vực và thế giới, trước
tiên là AFTA. Ổn định và tiếp tục khai thác thị trường trong nước, đặc biệt là
các thị trường còn ở dạng tiềm năng tại các vùng sâu, vùng xa, đồng thời mở
rộng thị trường quốc tế. Tăng cường quan hệ hợp tác với ngành đường các nước
trong khu vực và thế giới.
Phương hướng
Hội nhập là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa tận dụng cơ hội vừa đối
phó thách thức. Do vậy, hội nhập phải quán triệt các nguyên tắc và nhận thức
sâu sắc các đặc trưng cơ bản. Phương châm đặt ra đối với toàn ngành mía đường
Việt Nam là hội nhập trên cơ sở phát huy nội lực ngành, kết hợp với tranh thủ
các nguồn đầu tư từ bên ngoài. Đặc biệt chú ý đến khai thác hiệu quả các nguồn
lực sẵn có, các lợi thế so sánh về đất đai, khí hậu, nguồn nhân lực và thị trường
rộng lớn trong nước.
Nâng cao nhận thức về hội nhập và tính cấp thiết của hội nhập đối với toàn thể
các nhà máy, doanh nghiệp và từng cá nhân trong ngành. Không cho phép tư
tưởng ỷ lại, trông chờ còn tồn tại và cản trở khả năng phát triển của ngành.
Tiến trình giảm thuế suất nhập khẩu xuống còn từ 0-5% và dỡ bỏ hàng rào phi
thuế quan theo AFTA đang đến gần, ngành mía đường cần phối hợp với Bộ
nông nghiệp và phát triển nông thôn xây dựng cho được chiến lược hội nhập
trước mắt và lâu dài. Điều quan trọng là phải xem xét, tính toán cực kỳ nghiêm
67
túc điều kiện, khả năng và lộ trình cụ thể của từng nhà máy, doanh nghiệp về các
mặt quản lý, công nghệ, quy mô, nguồn nguyên liệu… để hoạch định chiến lược
hợp lý nhất. Đồng thời, phải xây dựng được lộ trình hội nhập của từng loại sản
phẩm. Trên cơ sở đó, các đơn vị trong ngành sẽ đưa ra cho mình những chiến
lược riêng cụ thể phù hợp với chiến lược chung, đảm bảo yêu cầu của lộ trình
hội nhập.
Hội nhập mang lại cơ hội mở rộng thị trường. Ngành mía đường phải xác định
rõ ràng đâu là thị trường mục tiêu, thị trường tiềm năng để có chiến lược thâm
nhập và phát triển thị trường một cách hiệu quả. Hiện nay, ở các thị trường nông
thôn, các vùng sâu vùng xa nhu cầu tiêu dùng đường và các sản phẩm có chứa
đường còn hạn chế song tiềm năng của những khu vực này là lớn. Bởi vậy bên
cạnh việc ổn định các thị trường truyền thống, ngành mía đường cần tập trung
khai thác cầu của những thị trường này. Đồng thời, đẩy mạnh xuất khẩu là một
hướng đi cần thiết để ổn định cung cầu trong nước, giữ được giá cả và cũng là
cơ hội tăng trưởng tốt. Ngược lại, nguy cơ bị cạnh tranh gay gắt trên thị trường
nội địa do quá trình hội nhập đưa lại buộc ngành phải phân tích, tính toán
nghiêm túc điểm mạnh, điểm yếu của mình trước các đối thủ mạnh yếu khác
nhau.
Cùng với việc mở rộng thị trường, ngành cùng các cơ quan quản lý Nhà nước và
các ngành hữu quan cần đấu tranh triệt để với những sự cạnh tranh không lành
mạnh, đặc biệt là các sản phẩm nhập lậu.
Đẩy mạnh hoạt động hợp tác với các tổ chức mía đường trong khu vực và quốc
tế thông qua việc tham gia các Hội, Hiệp hội, Uỷ ban mía đường, nông sản trong
khu vực và thế giới. Chủ động đặt quan hệ hợp tác song phương, liên kết với các
tổ chức sản xuất và xuất khẩu đường trong khu vực Châu Á, Đông Nam Á để
học hỏi và mở rộng cơ hội phát triển.
Những định hướng trên về hội nhập chỉ có thể đạt được tốt khi phối hợp chặt chẽ
với các định hướng quan trọng về phát triển và cạnh tranh trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế.
68
3.1.2 Định hướng phát triển của ngành mía đường Việt Nam
Mục tiêu
Tận dụng những điều kiện thuận lợi ở các vùng có ưu thế, kết hợp với việc
nhanh chóng ứng dụng tiến bộ kỹ thuật công nghệ để phát triển nguồn mía
nguyên liệu. Khắc phục khó khăn, khai thác hiệu quả các cơ sở chế biến công
nghiệp hiện có nhằm khai thác tối đa thị trường trong nước, tiếp tục tạo nhiều
việc làm và thu nhập cho nông dân. Phấn đấu đạt được sự phát triển cao và bền
vững, tương xứng với những tiềm năng của ngành.
Phương hướng
Dự kiến năng lực sản xuất và nhu cầu đường đến năm 2010 như sau:
Bảng 10: Cung cầu đường giai đoạn 2002-2010
Đơn vị: Tấn
TT Vụ sản xuất
Năng lực sản xuất trong nước Nhu cầu Chênh lệch
1 2002-2003 1.13 900.000 +230.000 2 2003-2004 1.15 1.070.000 +80.000 3 2004-2005 1.15 1.144.900 +5.000 4 2005-2006 1.20 1.225.043 -25.000 5 2006-2007 1.25 1.310.796 -70.000 6 2007-2008 1.30 1.402.552 -103.000 7 2008-2009 1.40 1.500.730 -100.000 8 2009-2010 1.50 1.605.780 -100.000
Nguồn: Cục chế biến nông lâm sản và nghề muối, Bộ NN và PTNT.
Để đạt được mức tăng trưởng đặt ra như trên, ngành mía đường sẽ tập trung vào
hai giai đoạn cụ thể.
2003-2005
Đây là thời điểm vẫn còn sự bảo hộ của Nhà nước. Các nhà máy cần rà soát, bổ
sung hoàn chỉnh dự án xây dựng vùng nguyên liệu, xây dựng hệ thống thủy lợi.
Diện tích vùng nguyên liệu tập trung giữ ở mức như hiện nay, trong đó 80%
69
diện tích là giống mới nhằm áp dụng cơ cấu rải vụ, kéo dài thời gian ép lên 7
tháng. Toàn bộ diện tích mía được tưới nước ở những nơi có điều kiện đầu tư
thủy lợi. Riêng vùng đồng bằng sông Cửu Long xây dựng hệ thống thủy lợi đê
bao ngăn lũ và trồng mía lưu gốc. Đến năm 2005, đưa năng suất mía cả nước lên
trên 70 tấn/ha, hạn chế thấp nhất việc tranh mua, tranh bán nguyên liệu.
Để ổn định thị trường trong nước, ngành cần đề nghị các cơ quản quản lý Nhà
nước cho phép áp dụng các biện pháp điều tiết cung cầu, duy trì đến hết năm
2005 giá bán buôn đường trong nước ở mức bằng giá thế giới cộng với mức bảo
hộ hiện hành, tức là khoảng 4.500 VND/kg, sau đó giảm dần theo lộ trình
AFTA.
Các doanh nghiệp nhanh chóng sắp xếp lại, tiến hành cổ phần hóa, giải thể một
số nhà máy không có khả năng khắc phục lỗ sau khi được Nhà nước hỗ trợ.
2006-2010
Đây là giai đoạn cắt giảm thuế nhập khẩu để hội nhập, nước ta sẽ giảm dần bảo
hộ đối với ngành đường. Đến năm 2010, thuế nhập khẩu chỉ còn 0-5%, giá
đường trong nước sẽ tiếp cận giá đường thế giới khoảng 3.000 VND/kg. Với
công suất chế biến đường công nghiệp trong nước như hiện nay thì từ năm 2006
trở đi cung đường sẽ thiếu. Hàng rào phi thuế quan phải dỡ bỏ và thuế nhập
khẩu phải cắt giảm nên giá đường trong nước sẽ giảm dần xuống sát với mức giá
thế giới. Do vậy, phải tăng cường điều hành để nhà máy phát huy, mở rộng công
suất ép với mức đầu tư thấp ở những nơi có điều kiện để tiếp tục hạ giá thành
đường, đảm bảo cân đối đủ cho nhu cầu tiêu dùng không phải nhập khẩu.
3.1.3 Định hướng cạnh tranh của ngành mía đường Việt Nam
Mục tiêu
Nâng cao năng suất, từng bước hạ giá thành và đa dạng hóa chất lượng sản
phẩm, xây dựng và phát triển thương hiệu sản phẩm đường Việt Nam nhằm
nâng cao khả năng cạnh tranh và cạnh tranh thắng lợi trên thị trường trong nước,
70
mở rộng ra thị trường quốc tế, chủ động hội nhập vào thị trường mía đường khu
vực và thế giới.
Phương hướng
Việc quan trọng nhất để nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành vẫn là hạ giá
thành và nâng cao chất lượng sản phẩm. Để hạ giá thành, ngành mía đường phải
khai thác triệt để các lợi thế cạnh tranh trong nước, đặc biệt là nguồn nhân lực
rẻ, dồi dào, những ưu thế của cây mía so với các cây trồng nông nghiệp khác và
vị trí địa lý thuận lợi của Việt Nam trong việc vận chuyển đến các thị trường lớn
trong khu vực như Trung Quốc, Inđônêxia... Từ đó giảm thiểu đến mức tối đa
đầu vào chi phí nguyên nhiên vật liệu và phí vận tải. Đồng thời phải nâng cao
trình độ tự động hóa trong khâu chế biến công nghiệp, tận dụng phế phụ phẩm
của quá trình sản xuất nhằm tăng hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích đầu
tư.
Đối với sản phẩm, ngành mía đường cần đầu tư vào khâu nghiên cứu, phát triển
sản phẩm, đa dạng hóa các loại sản phẩm đường và các sản phẩm sau đường,
bên cạnh đường. Cải tiến mẫu mã bao bì theo yêu cầu của các thị trường khác
nhau, đảm bảo được tính độc đáo, hấp dẫn của sản phẩm.
Tăng cường khâu bán hàng, tiếp thị, chủ động đưa sản phẩm đến với người tiêu
dùng. Có chiến lược củng cố uy tín, xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm của
ngành.
Phân loại cấp độ năng lực cạnh tranh theo nhà máy và theo sản phẩm là việc làm
cần thiết để có sự đầu tư, phát triển cho phù hợp với yêu cầu của quá trình hội
nhập. Đây cũng chính là cơ sở để đưa ra lộ trình hội nhập thích hợp cho các nhà
máy và sản phẩm đường.
Xác định rõ đối thủ cạnh tranh hiện thời và đánh giá đúng những đối thủ tiềm
năng trong tương lai, đưa ra đối sách cạnh tranh hợp lý để giành thế chủ động và
thắng lợi trong cạnh tranh.
71
Trên đây là 3 định hướng lớn của ngành về hội nhập, phát triển và cạnh tranh.
Ba định ụướng này có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ và thống nhấ
_với nhau nhằm đạt được các mục tiêu lớn của ngành về hiệm quả kin tế cũng
như những hiệu quả xã hội. Các địnhQhướng đã đưa ra những phương sách
chính mà ngành mía đường cần thực hiện được. Còn thực hiện những phương
sách ấy như thế nào thì phần các giải pháp dưới đây sẽ đưa ra câu trả lời cụ thể.
3.2 NHÓM GIẾI PHÁP VĨ MÔ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CỦA NGÀNH MÍ_ ĐƯỜNG VIỆT NAM TRONG QUÁ
TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Giải pháp nào đưa ra cũng chỉ hữu hiệu khi giải quyết hợp lý mối quan hệ về
quyền lợi của cả 3 đối tượng: Nông dân trồng mía, nhà máy sản xuất chế biến
đường và người tiêu dùng.
3.2.1 Nhóm giải pháp về Khung khổ pháp lý
Khung khổ pháp lý có ổn định, hoàn chỉnh và có hiệu lực thi hành thì mới tạo
điều kiện thuận lợi, công bằng và những cơ sở pháp lý cho cho các đơn vị trong
ngành phát triển lành mạnh, nâng cao năng lực cạnh tranh và tham gia hội nhập
kinh tế quốc tế có hiệu quả.
Khung khổ pháp lý của Việt Nam thời gian gần đây đã có được những bước tiến
quan trọng song vẫn còn nhiều bất cập như chưa đầy đủ, chưa thông thoáng, rõ
ràng, nhất quán và đặc biệt là còn chưa phù hợp với nhiều quy định quốc tế, gây
khó khăn không nhỏ cho việc áp dụng và cho quá trình hội nhập. Bởi vậy, Nhà
nước cần nhanh chóng sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện để đồng bộ hóa hệ thống
pháp luật kinh doanh theo hướng thích nghi dần với những “luật chơi chung”
của cộng đồng quốc tế. Đồng thời hiệu lực của các cơ quan hành pháp, tư pháp,
đặc biệt là tòa án và trọng tài cần được tăng cường để tạo ra một môi trường
cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng.
72
Để hỗ trợ cho hoạt động cạnh tranh và hội nhập, Nhà nước cần khẩn trương xây
dựng được các bộ luật quan trọng như Luật cạnh tranh, Luật chống bán phá
giá để bảo vệ quyền lợi c74
như đặt ra trách nhiệm đối với các chủ thể hoạt động sản xuất kinh doanh trên
thị trường, đặc biệt là các chủ thể nước ngoài sẽ ngày càng gia tăng khi Việt
Nam hội nhập sâu vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Nhà nước cũng cần hoàn
thiện và thống nhất luật đầu tư trong nước và nước ngoài, tránh tình trạng phân
biệt đối xử giữa các nhà đầu tư vì điều này sẽ gây cản trở cho quá trình hội nhập.
3.2.2 Nhóm giải pháp về Chính sách giá cả
Về lâu dài, Nhà nước không được phép can thiệp sâu vào điều tiết cung cầu, giá
cả song trước mắt, đối với một ngành còn non trẻ và năng lực cạnh tranh còn
thấp như mía đường thì những chính sách này rất cần thiết, nhất là khi các nước
sản xuất và xuất khẩu mía đường lớn trên thế giới đều nhận được những sự hỗ
trợ lớn từ phía Chính phủ của họ. Các biện pháp đưa ra bao gồm:
- Lập Quỹ bình ổn giá cả hay Quỹ tạm trữ đối với sản phẩm đường nhằm
điều tiết cung – cầu đường trên thị trường, từ đó tác động tới giá cả. Do đặc
điểm của ngành đường là sản xuất 5 tháng nhưng tiêu dùng quanh năm nên
tạm trữ đường để chờ tiêu thụ, bình ổn giá cả là cần thiết. Hơn nữa, do thị
trường đường thế giới trong những năm qua có nhiều biến động về cung cầu
khiến giá đường liên tục sụt giảm, lập quỹ tạm trữ để khi cung trên thị trường
tăng mạnh gây giảm giá, quỹ sẽ mua đường vào nhằm đẩy giá lên và ngược
lại, khi cung đường trên thị trường khan hiếm thì quỹ sẽ bán một lượng
đường ra để nhanh chóng đưa giá cả trở về mức cân bằng. Quỹ tạm trữ còn
phát huy tác dụng trong những điều kiện bất thường như hạn hán, lũ lụt gây
ảnh hưởng đến việc cung cấp mía đầu vào cho sản xuất đường trong nước.
- Đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng, thủy lợi… làm giảm chi phí vận
chuyển nguyên liệu, phân phối sản phẩm, góp phần hạ giá thành sản phẩm,
nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường.
73
- Kiểm soát đường biên và quản lý thị trường không có sự cạnh tranh không
lành mạnh từ phía đường và các sản phẩm đường nhập lậu cùng hàng giả.
Đây là giải pháp vô cùng quan trọng để ngành mía đường có thể dần dần điều
chỉnh giá cả thích nghi với mức giá cạnh tranh của đường nhập khẩu. Ban chỉ
đạo 127 Trung ương, Tổng cục Hải quan, Cục quản lý thị trường, Bộ NN và
PTNT là những cơ quan có vai trò quyết định trong công tác này.
- Hỗ trợ xuất khẩu lượng đường dư thừa của ngành để giảm bớt áp lực cung
trong nước, ngăn chặn giảm giá. Biện pháp này cũng giúp các nhà máy có thể
có lợi nhuận, tạo ra một tiềm lực kinh tế nhất định để bước vào giai đoạn
cạnh tranh thực sự. Trong điều kiện giá thành đường Việt Nam còn cao như
hiện nay, xuất khẩu bị lỗ là điều không thể tránh khỏi. Kinh nghiệm các nước
xuất khẩu đường lớn trên thế giới vẫn sử dụng giá nội tiêu để bù vào xuất
khẩu hoặc nhà nước bù lỗ để đảm bảo quyền lợi cho nông dân. Các phương
án bù lỗ có thể đưa ra như sau:
� Các doanh nghiệp tự đóng góp tương ứng với sản lượng và được tính vào
giá thành để thanh quyết toán.
� Nhà nước thưởng xuất khẩu 100VND/1USD, phần còn lại do doanh
nghiệp đóng góp.
� Sử dụng 50% thuế VAT để bù lãi suất tạm trữ và bù lỗ xuất khẩu.
- Xây dựng luật chống bán phá giá nhằm ngăn chặn sự cạnh tranh không lành
mạnh từ các sản phẩm đường nhập khẩu có mức giá thấp hơn nhiều so với
giá thành sản xuất đường của Việt Nam nhưng không phải nhờ năng suất hay
công nghệ vượt trội mà do sự trợ giá từ Chính phủ các nước đó .
3.2.3 Nhóm giải pháp về Chính sách tài chính
Hiện nay Nhà nước dành khá nhiều ưu đãi về tài chính cho ngành mía đường,
hàng năm lại bù lỗ cho các doanh nghiệp nhà nước. Tuy sự hỗ trợ về tài chính là
không nhỏ nhưng chưa thực sự đem lại hiệu quả cho ngành.
Nhà nước cần thực hiện các giải pháp sau:
74
- Tái cơ cấu lại vốn vay đối với các khoản vay ODA, vay ngân sách địa
phương, vay xây dựng cơ bản, vay nhập thiết bị trả chậm, vay nước ngoài
góp vốn liên doanh, vay đầu tư vùng nguyên liệu. Chính phủ nhận nợ ngoại
tệ và cho các doanh nghiệp vay lại bằng nội tệ, với mức lãi suất hiện hành
của Quỹ hỗ trợ phát triển. Các nhà máy cũng cần được điều chỉnh lãi suất
vốn vay các thời kỳ trước và hiện tại để giảm nhẹ khó khăn về tài chính.
Ngoài ra, Chính phủ cần tiếp tục cấp bổ sung vốn lưu động cho kịp thời với
chu kỳ sản xuất kinh doanh của các nhà máy.
- Điều chỉnh thời gian khấu hao và thời hạn trả lãi vay trung bình của các nhà
máy lên 20 năm. Các nhà máy đường được khai thác từ 30-50 năm nên thông
thường ở các nước, thời hạn vay thời hạn khấu hao được tính toán phù hợp ở
mức 18-25 năm. Việt Nam quy định các thời hạn này là 7 năm, một khoảng
quá ngắn đã tạo gánh nặng chi phí khấu hao và chi phí trả lãi vay cho các nhà
máy mới xây dựng.
- Điều tiết thuế cho hợp lý giữa người trồng mía, nhà máy chế biến, các nhà
máy công nghiệp sử dụng đường làm nguyên liệu đầu vào và người tiêu dùng
cuối cùng. Hiện nay, thuế VAT đối với sản phẩm đường và các sản phẩm sử
dụng phế liệu, phụ phẩm trong chế biến đường không được ưu đãi: khấu trừ
đầu vào từ 5% giảm xuống còn 1% nên thuế VAT thực tế bị tăng từ 5% lên
9%. Vậy Nhà nước và Bộ tài chính cần xem xét để quy định mức thuế VAT
phù hợp với các sản phẩm đường và các sản phẩm sử dụng phế liệu, phụ
phẩm từ sản xuất đường, có chế độ miễn giảm để bù lại phần thuế bị tăng lên
trong thời gian qua.
3.2.4 Nhóm các chính sách khác
3.2.4.1 Cơ chế hỗ trợ thông tin và quảng bá
Các nhà máy trong ngành và toàn ngành mía đường hiện nay còn rất thiếu về
thông tin thị trường nước ngoài cũng như các phương pháp tiếp cận với thị
trường nước ngoài. Khi sức cạnh tranh của các đơn vị trong ngành còn yếu thì
75
vai trò chủ động của Nhà nước trong việc hỗ trợ về thông tin và định hướng phát
triển thị trường, cách thức thâm nhập sẽ có ý nghĩa rất quan trọng. Nhà nước
cũng có thể hỗ trợ các nhà máy trong việc quảng bá hình ảnh và sản phẩm đến
các thị trường và bạn hàng tiềm năng thông qua các cơ quan ngoại giao, các văn
phòng thương mại của Việt Nam đặt tại nước ngoài. Hơn nữa, do Việt Nam còn
là nước nghèo và đang phát triển nên về lâu dài, trong quá trình hội nhập, những
sự hỗ trợ này được các tổ chức thương mại khu vực và thế giới cho phép áp
dụng. Bởi vậy, Nhà nước Việt Nam càng cần đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động
hỗ trợ này.
3.2.4.2 Đối xử công bằng giữa các thành phần kinh tế
Tạo ra môi trường cạnh tranh và bình đẳng giữa các nhà máy đường để buộc các
nhà máy chủ động tìm tòi và áp dụng các phương pháp sản xuất hiệu quả nhất.
Về lâu dài Nhà nước cần xoá bỏ dần trợ cấp đối với các nhà máy đường hoạt
động thua lỗ, và hoàn thành việc cổ phần hoá các nhà máy vào năm 2005.
Chính phủ Việt Nam có những ưu đãi lớn cho các nhà máy đường thuộc sự quản
lý của Nhà nước thông qua việc xóa nợ và cung cấp những khoản tín dụng
nhượng bộ. Chính phủ cũng có khuynh hướng ưu tiên cho các nhà máy quốc
doanh nhỏ so với các nhà máy quốc doanh lớn. Chính những ưu đãi này đã
khiến cho các nhà máy nhỏ vốn hoạt động kém hiệu quả, liên tục lỗ mà vẫn
không có động lực tự vươn lên sau nhiều năm, cũng không phải đóng cửa nên
gây ra những tổn thất lớn cho ngành và cho nền kinh tế. Trong khi đó, các nhà
máy quốc doanh lớn hoạt động có hiệu quả nhưng không mở rộng được quy mô
do sự đầu tư lãng phí vào các nhà máy nhỏ và thua lỗ này. Để nâng cao hiệu
quả hoạt động và thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các nhà máy thuộc Nhà nước nói
riêng và giữa các nhà máy đường trong toàn ngành nói chung, Chính phủ cần có
sự đối xử công bằng hơn nữa, dừng các khoản trợ cấp trực tiếp cũng như gián
tiếp đặc biệt cho các nhà máy nhỏ, không có hiệu quả để tránh được gánh nặng
bù lỗ và dành những khoản đầu tư đó cho những nhà máy thực sự hiệu quả.
76
Đồng thời, cần đặt trách nhiệm cao hơn nữa đối với những kết quả lỗ và lãi
trong kinh doanh của các nhà máy quốc doanh như trong các doanh nghiệp tư
nhân hay liên doanh. Các nhà máy quốc doanh cần có sự tách biệt rõ ràng hơn
nữa giữa mục tiêu kinh doanh và các mục tiêu chính trị xã hội khác. Mục tiêu
quan tâm của các doanh nghiệp tư nhân hay liên doanh là lợi nhuận, là tỷ lệ thu
hồi lợi nhuận trên đồng vốn đầu tư họ bỏ ra. Bởi vậy họ phải tìm mọi cách để
nâng cao năng suất, công suất, hạ giá thành xuống tới mức giá cả thế giới. Công
tác tổ chức quản lý cũng như việc sử dụng các nguồn lực được họ tính toán ở
mức hiệu quả nhất có thể. Trong khi đó, ban quản lý và đội ngũ giám đốc của
các nhà máy quốc doanh không phải đối mặt với những áp lực như vậy về lợi
nhuận. Rõ ràng, các nhà máy này cần được tái cơ cấu, tổ chức lại để có được
những động lực kinh doanh giống như các doanh nghiệp tư nhân hay liên doanh.
Cổ phần hóa các nhà máy quốc doanh là một trong những phương thức hữu hiệu
để đạt được mục tiêu này. Chỉ khi đó ngành mía đường mới có thể nhanh chóng
cải thiện được sự trì trệ, kém hiệu quả như hiện nay.
3.3 NHÓM GIẢI PHÁP VI MÔ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CỦA NGÀNH MÍA ĐƯỜNG VIỆT NAM TRONG QUÁ
TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
3.3.1 Nhóm giải pháp về Nguyên liệu và Kỹ thuật canh tác
Nguyên liệu là một trong những vấn đề cõi lõi mà ngành mía đường cần phải
giải quyết để có thể ổn định sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao năng lực
cạnh tranh và hội nhập thành công. Mục tiêu đặt ra là phát triển vùng nguyên
liệu mía năng suất cao, chất lượng tốt với mức chi phí thấp và ổn định.
Giải pháp hàng đầu để phát triển vùng nguyên liệu về lâu dài là liên tục cải tiến
giống và kỹ thuật canh tác nhằm nâng cao năng suất, chất lượng mía
- Tạo ra các giống mới năng suất cao, chống chịu tốt, phù hợp với sinh thái
từng vùng. Nâng tỷ lệ diện tích trồng các giống mới lên 70% vào năm 2005
và 90% năm 2008. Muốn vậy cần thành lập các cơ sở nghiên cứu và phát
77
triển giống mía lớn mạnh như Viện nghiên cứu về mía đường và 3 Trung
tâm giống cho 3 miền Bắc, Trung, Nam. Những mô hình như vậy đã xuất
hiện ở nhiều nước.
- Nhanh chóng đưa những tiến bộ về giống, kỹ thuật canh tác tới người nông
dân qua hệ thống thông tin hiệu quả, như các phương tiện truyền thông, hay
mô hình hợp tác hoá nhằm chia sẻ kinh nghiệm.
- Hỗ trợ về Vật tư nông nghiệp và bảo vệ thực vật cho người trồng mía. Ví dụ
như nhà nước hỗ trợ 40% kinh phí đối với miền núi và 20% đối với đồng
bằng để mua thiết bị khâu làm đất, tưới, thu hoạch…
- Thực hiện cơ giới hoá các khâu làm đất, băm lá, rạch hàng và chặt mía để
nâng cao năng suất và chất lượng mía. Nâng năng suất mía từ 50 tấn/ha hiện
nay lên 70 tấn/ha vào năm 2005.
- Giữ độ ẩm cho đất tốt hơn thông qua các kênh tưới tiêu, hệ thống thủy lợi.
Những nơi không có điều kiện tưới thì cần có biện pháp khắc phục như ủ ni
lông giữ độ ẩm cho đất hay trồng các loại cây lạc, vừng… để làm tơi tất, tăng
độ che phủ cho đất.
- Sử dụng hợp lý hơn lượng phân bón để vừa tiết kiệm chi phí vừa nâng cao
hiệu quả việc bón phân.
Đổi mới công tác quy hoạch vùng nguyên liệu tập trung cho các nhà máy,
nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng là những giải pháp quan trọng
- Rà soát lại quỹ đất của từng địa phương tính toán đảm bảo hài hoà diện tích
trồng mía với công suất nhà máy. Vùng nguyên liệu tập trung sẽ đạt hiệu quả
tốt nhất khi được xây dựng tập trung quanh các nhà máy với bán kính từ 20-
30 km. Cắt giảm các vùng nguyên liệu xa nhà máy để đảm bảo hiệu quả lâu
dài.
- Tuyên truyền, hướng dẫn người nông dân có định hướng lâu dài về sản xuất
nông nghiệp, tránh hiện tượng tự do phát triển diện tích mía khi thấy giá cao,
gây khủng hoảng thừa mía vào những năm sau.
78
- Đối với diện tích mía ngoài vùng quy hoạch: vận động, khuyến khích và tạo
điều kiện giúp đỡ nông dân chuyển đổi sang các cây trồng khác.
- Đối với diện tích mía ở vùng sâu, vùng xa bà con đã có truyền thống trồng
mía thì tăng cường đầu tư kỹ thuật để nâng cao hiệu suất ép, giảm tiêu hao
mía của sản xuất thủ công.
- Khuyến khích nông dân kết hợp trồng mía với chăn nuôi và trồng xen kẽ các
loại cây khác để nâng cao hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích, giúp
người dân ổn định cuộc sống.
- Xây dựng hệ thống giao thông tốt để giảm tối đa giá thành vận chuyển, đồng
thời đảm bảo chất lượng mía sau thu hoạch. Hệ thống thuỷ lợi được nâng cấp
sẽ tăng diện tích tưới lên 20-30% trong những năm tới, nâng cao chất lượng
cây mía. Ngoài người trồng mía và các nhà máy, vốn đầu tư cho cơ sở hạ
tầng có thể huy động từ nhiều nguồn khác, bởi đầu tư vào cơ sở hạ tầng sẽ
không chỉ nâng cao năng suất ngành mía đường mà còn mang lại nhiều lợi
ích cho cả địa phương.
- Các chính sách tín dụng và hỗ trợ có đã hiệu quả cần được tiếp tục thực hiện
trong một vài năm tới. Cho nông dân vay không cần thế chấp đối với các
khoản vay dưới 10 triệu và áp dụng mức lãi suất ưu đãi của ngân hàng người
nghèo cho các hộ thuộc diện khó khăn. Tiếp tục miễn thuế nông nghiệp đối
với các diện tích trồng trên đất nhiễm mặn, nhiễm phèn và có điều kiện tự
nhiên khó khăn.
Giải pháp cải thiện mối liên kết giữa nhà máy và người trồng mía
- Nhà máy phải ký hợp đồng đầu tư (giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật) và
hợp đồng thu mua theo quyết định 80/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ để người nông dân yên tâm sản xuất.
- Ổn định giá mua hợp lý và giải quyết các tranh chấp về nguyên liệu.
- Nhà máy thông báo sớm đến người nông về mức đầu tư, tiêu chuẩn nguyên
liệu, giá mua, lịch đốn chặt, phương án vận tải.
79
- Củng cố, tăng cường bộ phận cán bộ nông vụ có năng lực, trách nhiệm, trung
thực, được nông dân tín nhiệm. Gắn thu nhập cán bộ nông vụ với khối lượng
và chất lượng sản phẩm, có cơ chế khoán và thưởng phạt theo tấn mía để
khuyến khích họ bám sát địa bàn, tích cực vận động, tổ chức, hướng dẫn
người nông dân trồng và bán mía cho nhà máy.
3.3.2 Nhóm giải pháp về Chất lượng và Sản phẩm
Phát triển sản phẩm và xây dựng uy tín, thương hiệu là những việc ngành đường
cần làm ngay để nâng cao khả năng cạnh tranh.
Dường như ngành đường Việt Nam mới chú trọng đến sản lượng chứ chưa đầu
tư phát triển sản phẩm. Mặt hàng đường như đã phân tích ở chương 2 còn quá
yếu về tính sáng tạo. Trong khi cơ cấu sản phẩm của các nhà sản xuất đường
trong khu vực và trên thế giới là tương đối đồng đều thì sự khác biệt hóa về sản
phẩm sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh. Bởi vậy, các biện pháp nhằm phát triển sản
phẩm phải đi theo hướng gắn liền với nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng trên
từng thị trường như sau:
- Nâng cao chất lượng sản phẩm bằng cách nâng cao năng suất, chất lượng mía
và công nghệ sản xuất. Dù là cạnh tranh trong nước hay cạnh tranh quốc tế
thì chất lượng vẫn luôn là nhân tố cần đặt lên hàng đầu đối với phát triển sản
phẩm.
- Đa dạng hóa các sản phẩm đường, đặc biệt cần chú trọng đến các đối tượng
tiêu dùng khác nhau mà đưa ra những sản phẩm có công dụng, tính năng
khác nhau. Ví dụ như để đối phó với với tâm lý sợ béo, các nhà máy cần
nghiên cứu đưa ra các sản phẩm “đường gầy”, đường có vị ngọt mát như một
số nước đã làm được; với bà mẹ và trẻ em nhỏ cần phát triển hơn nữa loại
sản phẩm đường có chứa Vitamin A, với tầng lớp thanh niên có thể đưa ra
loại đường viên có thể tan ngay…
- Đa dạng hóa các sản phẩm tổng hợp, lợi dụng từ sản xuất đường theo hai
hướng: tăng cường phát triển các sản phẩm phục vụ cho việc khép kín quá
80
trình sản xuất đường và đầu tư sản xuất các sản phẩm mà thị trường đang có
nhu cầu.Trước mắt, việc sản xuất phân vi sinh từ bã bùn để dùng cho ruộng
mía sẽ tận dụng được phế liệu mà lại tiết kiệm được một khoản chi phí không
nhỏ cho việc mua và nhập khẩu phân vi sinh. Việc sản xuất cồn để sản xuất
rượu nên nghiên cứu theo hướng sản xuất cồn ethanol để dùng thay thế xăng.
Đây là một hướng phát triển sản phẩm cực kỳ thiết thực và đang được các
quốc gia như ấn Độ, Braxin áp dụng. Braxin chuyên sản xuất 2 loại nhiên
liệu ethanol từ mía đường là hydrous và anhydrous. Hydrous ethanol dùng
cho các xe chạy điện thiết kế đặc biệt để dùng loại nhiên liệu sạch này trong
khi các loại xăng hiện có của Braxin đều có pha 24% anhydrous làm nhiên
liệu bổ sung. Ngoài ra, điện, nấm, ván ép, thức ăn gia súc… đều là những sản
phẩm có thể được phát triển mạnh với một tính toán nghiêm túc.
- Cải tiến bao bì, mẫu mã phong phú, hấp dẫn hơn và tránh bị làm giả. Hiện
nay bao bì, mẫu mã các sản phẩm đường còn quá thô sơ và đơn giản, chủ yếu
là bằng chất liệu giấy hoặc nilông. Như vậy nhiều khi gây tâm lý ngại dùng
đường Việt Nam vì những bao bì này làm người sử dụng khó bảo quản
đường, dễ làm ướt, rách… Hai loại bao bì chính - túi 1 kg và 50 kg- là quá
đơn điệu. Các nhà máy cần chú ý đến các loại bao bì vừa mang tính tiện ích
lại vừa mang tính thẩm mỹ thì mới có khả năng cạnh tranh về sản phẩm. Chất
liệu ngoài nilông và giấy có thể dùng kim loại, thủy tinh, nhựa, gỗ; có thể sử
dụng các loại túi, hộp to nhỏ khác nhau với các hình dáng khác nhau và trong
các bao bì có thể có sẵn thìa xúc; các loại đường dành cho giải khát sẽ đóng
thành từng gói nhỏ để dùng một lần rất thuận tiện…Hay như Việt Nam là
một nước nhiệt đới, do vậy thường có rất nhiều loại côn trùng thích đồ ngọt
như kiến, gián. Các nhà máy đường có thể nắm bắt đặc điểm này mà nghiên
cứu đưa ra các loại bao bì sản phẩm có thể đuổi được các loại côn trùng.
- Để chuẩn bị cho cạnh tranh quốc tế và mở rộng thị trường xuất khẩu, các nhà
máy cũng cần nghiên cứu các pha phát triển sản phẩm trong ngắn hạn và dài
hạn. Qua đó, tìm hiểu nhu cầu thị hiếu ở các thị trường khác nhau, những quy
81
định về bao bì, mẫu mã, tiêu chuẩn kỹ thuật ở các nước khác nhau để có thể
sẵn sàng tung sản phẩm ra khi thích hợp.
Xây dựng uy tín và thương hiệu sản phẩm là công việc cần được tiến hành
ngay trước khi có quá nhiều đối thủ cạnh tranh nhảy vào chiếm lĩnh thị trường
đường nội địa. Hầu hết các nhà máy và doanh nghiệp đường của Việt Nam đều
chưa quan tâm đến vấn đề thương hiệu. Công việc cần làm còn rất nhiều song
các biện pháp chính có thể áp dụng ngay là:
- Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc xây dựng uy tín, thương
hiệu. Các nhà máy cần giao cho một bộ phận nhất định lập chiến lược rõ ràng
và bài bản.
- Tăng cường sự liên kết, hợp tác giữa các nhà máy, doanh nghiệp trong ngành
thông qua hoạt động của Tổng công ty mía đường 1, Tổng công ty mía
đường 2 và Hiệp hội mía đường để xây dựng thương hiệu “Đường Việt
Nam”.
- Nhà nước cần điều chỉnh mức kinh phí định mức là 15% cho hoạt động
quảng cáo, tiếp thị đối với các doanh nghiệp nhà nước như hiện nay. Thay
vào đó, mỗi đơn vị có thể tự quyết định mức chi phí cần thiết cho quảng bá
hình ảnh và sản phẩm của họ.
- Cải tiến bao bì, mẫu mà phù hợp thị hiếu người tiêu dùng và quản lý chặt chẽ
các bao bì, nhãn hiệu để chống hàng nhập lậu, hàng giả.
- Nhà nước cần có biện pháp cứng rắn trong việc kiểm soát hoạt động buôn lậu
và hàng giả, hàng nhái thương hiệu để bảo vệ lợi ích chính đáng của cả người
tiêu dùng lẫn nhà sản xuất trong nước. Đồng thời cần cải tiến thủ tục đăng ký
thương hiệu và thực thi những chế tài có đủ hiệu lực trong việc bảo vệ
thương hiệu cho nhà sản xuất.
3.3.3 Nhóm giải pháp về Giá cả
Như phân tích ở chương 2, giá đường Việt Nam hiện nay ở mức cao hơn nhiều
so với khu vực và thế giới và giá cả đang là yếu tố lớn nhất làm giảm năng lực
82
cạnh tranh của ngành. Bởi vậy, hạ giá thành đường là yêu cầu và là biện pháp
cấp bách để nâng cao sức cạnh tranh của ngành, từng bước hội nhập với khu vực
và thế giới.
Trong khâu mía nguyên liệu
Chi phí cho nguyên liệu mía chiếm tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu giá thành:
khoảng trên 50%. Vấn đề đặt ra là phải cắt giảm bằng được giá mía mà không
làm phương hại đến lợi ích của người nông dân. Biện pháp hữu hiệu nhất là cơ
cấu lại vùng nguyên liệu tương ứng với các nhà máy sản xuất để tập trung nâng
cao năng suất, chất lượng của mía theo hướng chuyển từ quảng canh sang thâm
canh. Các biện pháp thực hiện cụ thể đã được trình bày trong phần Nguyên liệu.
Trong khâu chế biến công nghiệp
- Rà soát lại các chi phí nguyên nhiên vật liệu nhằm cát giảm các chi phí
không hợp lý, giảm tỷ lệ tiêu hao mía/đường. Nhà máy phải có cơ chế thưởng
phạt rõ ràng, thích đáng đối với những thành tích và vi phạm trong quá trình
sản xuất.
- Các nhà máy tính toán để kéo dài thời gian sử dụng máy móc, thiết bị và
nâng cao hiệu suất ép, hiệu suất nấu, hiệu suất tổng thu hồi; ngay sau mỗi vụ
sản xuất, phải tổ chức kiểm tu, tổ chức tốt việc sửa chữa, thay thế phụ tùng;
kiểm soát tốt công tác kỹ thuật ở từng khâu nhằm giảm tỷ lệ khấu hao, thất
thoát nguyên nhiên vật liệu, giảm phế phẩm.
- Bố trí, cân đối lại lao động theo hướng giảm lao động gián tiếp nhằm làm
giảm cơ cấu giá thành sản phẩm.
- Chi phí khấu hao và chi phí trả lãi vay là những khoản có thể cắt giảm được,
đặc biệt đối với các nhà máy mới xây dựng bằng cách yêu cầu Chính phủ
điều chỉnh lại thời hạn khấu hao và thời hạn trả lãi vay thích hợp.
- Yêu cầu Chính phủ có chế độ miễn giảm thuế VAT đối với đường và các sản
phẩm sử dụng phế liệu, phụ phẩm trong chế biến đường.
83
- Đẩy mạnh việc tận dụng tổng hợp phế liệu, phụ phẩm để sản xuất ra các sản
phẩm sau đường và bên cạnh đường nhằm nâng cao hiệu suất tổng thu hồi,
góp phần giảm gánh nặng giá thành.
- Áp dụng cơ cấu mía rải vụ để kéo dài thời gian ép, nâng cao công suất ép để
hạ giá thành.
- Đầu tư cải thiện hệ thống cơ sở hạ tầng đường xá, cầu cống, bến bãi… để
giảm thời gian vận chuyển mía trên đường và chi phí vận tải.
3.3.4 Nhóm giải pháp về Thị trường
Ổn định thị trường trong nước và tận dụng các cơ hội mà hội nhập đưa lại để mở
rộng thị trường xuất khẩu là những yêu cầu hàng đầu.
Đối với thị trường trong nước
- Cần xây dựng bộ phận thị trường và phát triển sản phẩm trong mỗi nhà máy
có quy định cụ thể, chặt chẽ về chức năng, nhiệm vụ.
- Tăng cường công tác tiếp thị bởi đây là một khâu còn rất yếu của các nhà
máy đường hiện nay.
- Mở rộng thị trường và xây dựng hệ thống đại lý chủ động tìm đến khách
hàng, đặc biệt là mạng lưới tiêu thụ ở những vùng nông thôn, vùng sâu, vùng
xa.
- Tăng chi cho hoạt động xúc tiến thương mại, quảng cáo, tiếp thị.
Đối với thị trường khu vực và quốc tế
- Lập chiến lược phát triển thị trường trước mắt và dài hạn. Tạm thời, với lộ
trình AFTA, xét về nhu cầu tiềm năng và khoảng cách địa lý, ngành mía
đường Việt Nam có thể hướng tới các thị trường trong khu vực như Trung
Quốc, Inđônêxia, Malaysia, Lào, Campuchia.
- Song song với việc thâm nhập và ổn định thị phần tại các thị trường tiềm
năng, tiếp tục xây dựng chiến lược thâm nhập vào các thị trường khác như thị
84
trường Châu Á: Nhật Bản, Đài Loan… ; thị trường Âu – Mỹ: Nga, Ukraina,
Mỹ…; thị trường Tây Nam Á: Iran, Irắc…
- Kết hợp với các văn phòng thương mại, đại sứ quán của Việt Nam tại các
nước để tạo lập nguồn thông tin về các thị trường nhập khẩu tiềm năng,
người tiêu dùng và các đối thủ cạnh tranh tại các thị trường đó.
- Ngành mía đường cùng với Hiệp Hội Mía Đường cần thiết lập được văn
phòng đại diện xúc tiến thương mại, tổng đại lý tại các thị trường trường xuất
khẩu tiềm năng và chính yếu.
- Tích cực tham gia các hội chợ quốc tế, các hội nghị, hội thảo chuyên đề của
khu vực và quốc tế để học hỏi kinh nghiệm, quảng bá sản phẩm và tìm kiếm
đối tác.
3.3.5 Nhóm các giải pháp khác
3.3.5.1 Giải pháp về Công nghệ kỹ thuật
Những công nghệ tiên tiến trên thế giới được áp dụng thành công sẽ mang lại
năng suất cao hơn trong trồng mía và chế biến đường.
- Đẩy mạnh việc nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học, công nghệ cho
sản xuất, coi đây là khâu đột phá quan trọng để thúc đẩy sản xuất nông
nghiệp và chế biến công nghiệp.
- Tập trung vào công nghệ sinh học và chương trình giống cây (như đã đề cập
trong phần Giải pháp về nguyên liệu).
- Chế tạo các thiết bị, máy móc có thể sản xuất trong nước để thay thế nhập
khẩu nhằm giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành đường. Theo Đề án quốc gia
về Nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ thì ngành cơ khí
chế tạo của Việt Nam có năng lực cạnh tranh trong việc chế tạo ra máy móc,
thiết bị toàn bộ cung cấp cho ngành mía đường.
- Tập trung dành kinh phí cho việc nhập khẩu các công nghệ cao, thiết bị hiện
đại, các loại giống tốt trong nước chưa sản xuất được rồi dần dần nghiên cứu,
tiến tới tự sản xuất.
85
- Phối hợp chặt chẽ các trung tâm nghiên cứu của ngành với Tổng công ty cơ
điện nông nghiệp và thuỷ lợi, các trường đại học Bách Khoa, đại học Nông
nghiệp… trong việc nghiên cứu, tự chế tạo thay thế nhập khẩu.
Tận dụng các trang thiết bị, vật tư, máy móc, thiết bị còn tốt của các nhà máy bị
buộc phải giải thể, đóng cửa để tiết kiệm chi phí.
3.3.5.2 Giải pháp về Nhân lực
Nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực hiện có, đồng thời xây dựng được đội ngũ
kế cận là vấn đề then chốt trong nâng cao khả năng cạnh tranh ngành mía
đường.
Nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực hiện có
- Nhất thiết phải xây dựng được đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ và bản lĩnh
để đưa ngành đường vượt qua thách thức của hội nhập. Kiên quyết xử lý,
thay thế những giám đốc làm việc kém hiệu quả, không đảm bảo đủ nguyên
liệu cho sản xuất, kinh doanh lỗ trong nhiều năm.
- Tập huấn đội ngũ cán bộ kế toán, bảo đảm hạch toán giá thành sản phẩm
đường trên cơ sở tính đúng, tính đủ các yếu tố điện, nước, khấu hao, lãi vay
ngân hàng…
- Tăng cường đầu tư đào tạo cán bộ nông vụ, đội ngũ đóng vai trò cầu nối giữa
người nông dân và các nhà máy, đảm bảo tính toán, lên kế hoạch lịch chặt
mía giữa các vùng nguyên liệu sao cho vừa độ chín tới của mía lại vừa ổn
định được nguyên liệu cho sản xuất.
- Đào tạo lại và nâng cao nhận thức, kiến thức phù hợp với yêu cầu sản xuất
công nghiệp cho người lao động trực tiếp. Đặc biệt coi trọng việc đào tạo kỹ
sư thực hành và công nhân lành nghề.
- Tổ chức bồi dưỡng kiến thức về trồng mía cho người nông dân. Phải có sự
phối hợp chặt chẽ giữa cán bộ kỹ thuật của nhà máy với người nông dân để
đảm bảo những yêu cầu của nguồn nguyên liệu mía đầu vào.
86
- Có chế độ thưởng phạt rõ ràng, minh bạch cho cán bộ từng cấp để nâng cao
tinh thần trách nhiệm đối với kết quả lỗ, lãi trong hoạt động sản xuất, kinh
doanh.
Xây dựng đội ngũ nhân lực trong tương lai
- Gắn chặt đào tạo với yêu cầu sử dụng, phát huy và phát triển mô hình đào tạo
theo nhu cầu và địa chỉ đã áp dụng hiện nay.
- Phối hợp với các trường đại học, dạy nghề, các trường trung cấp công
nghiệp, kỹ thuật có kế hoạch đào tạo cán bộ, công nhân viên của ngành. Xây
dựng và sửa đổi giáo trình hiện thời cho phù hợp.
Tóm lại, việc thực hiện các giải pháp trên đây phải được tiến hành đồng bộ từ
cấp vĩ mô đến cấp vi mô và đồng bộ ở tất cả các khâu có liên quan đến sản xuất,
chế biến, phân phối và tiêu dùng các sản phẩm của ngành mía đường. Các giải
pháp cũng sẽ thực sự có hiệu quả một khi công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế
của Việt Nam được vận hành một cách đồng bộ ở tất cả các ngành và các cấp từ
Trung ương đến địa phương.
87
KẾT LUẬN
Hội nhập không chỉ toàn cái “được” mà không có “thiệt”. Hợp tác luôn đi liền
với đấu tranh, hội nhập luôn đi liền với cạnh tranh để giành cái “được” ở mức độ
tối đa và hạn chế cái “thiệt” ở mức độ tối thiểu. Điều quan trọng là về tổng thể
thì cái “được” phải nhiều hơn cái “thiệt”.
Không thể phủ nhận một thực trạng là năng lực cạnh tranh của ngành mía đường
Việt Nam hiện nay còn thấp kém. Song có tìm hiểu sâu mới thấy đằng sau kết
luận ấy là vô số những khó khăn, chủ quan có và khách quan cũng không nhỏ.
Có một điều cần phải nhìn nhận đúng là ngành mía đường của chúng ta còn non
trẻ, hiệu quả sản xuất kinh doanh lại chịu ảnh hưởng nhiều từ môi trường cơ chế,
chính sách của Nhà nước, mục tiêu hoạt động không chỉ là lợi nhuận, kinh tế mà
còn cả mục tiêu xã hội. Đó là những nguyên nhân khách quan cho phép chúng ta
có thể kỳ vọng vào một ngành mía đường Việt Nam có năng lực cạnh tranh cao
hơn trong tương lai.
Hơn thế, hội nhập là xu thế không thể đảo ngược và việc đương đầu với những
thách thức là không thể tránh né. Đã đến lúc ngành mía đường Việt Nam cần
đầu tư cho phát triển chiều sâu, chuyển từ mục tiêu lượng sang chất, từ sản xuất
thay thế nhập khẩu sang xuất khẩu. Muốn vậy, ngành không có sự lựa chọn nào
khác là nhanh chóng thực hiện các biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh để
bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của mình.
Tác giả vẫn còn nhớ một hình ảnh so sánh Việt Nam như một chú cá nhỏ đang
bơi từ sông hòa mình vào biển lớn. Chỉ bằng cách chấp nhận đối mặt với những
thách thức và rủi ro để bắt kịp và hội nhập với nền kinh tế thế giới, ngành mía
đường Việt Nam nói riêng và nền kinh tế còn non trẻ của Việt Nam nói chung
88
mới có thể học hỏi, phát triển và khẳng định được một “Thương hiệu Việt” trên
trường quốc tế!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, (1995 – 2003), Báo cáo tổng kết
sản xuất mía đường.
2. Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, (2000), Báo cáo tổng kết 5 năm thực
hiện chương trình mía đường.
3. Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, (2002), Báo cáo một số vấn đề về
kết quả sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của chương trình mía đường,
ngày 25/6/2002.
4. Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, (2003), Báo cáo trình thủ tướng
chính phủ về giải quyết khó khăn ngành mía đường, ngày 14/04/2003 và Báo
cáo bổ sung về giải quyết khó khăn cho ngành mía đường, ngày 24/9/2003.
5. Số liệu của Cục chế biến Nông sản và nghề muối, Bộ nông nghiệp và phát
triển nông thôn.
6. Tổng công ty mía đường I, (2001), Chương trình đầu tư phát triển của Tổng
công ty mía đường I đến 2005 và 2010.
7. Tổng công ty mía đường I, (2002), Đề cương xây dựng vùng nguyên liệu
chuyên canh, thâm canh cao sản trong giai đoạn từ 2002-2006, tháng
2/2002.
8. Tổng công ty mía đường II, (2002), Dự án Kiểm toán chuẩn đoán các công
ty lớn trong ngành Cao su và Mía đường, Danida, Bộ tài chính, Việt Nam.
9. Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế, (2003), Đề án quốc gia về Nâng
cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ Việt Nam, tháng 5/2002.
10. Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế, (2002), Báo cáo tham luận tại
hội nghị toàn quốc quán triệt và triển khai thực hiện nghị quyết 07-NQ/TW
của Bô chính trị về Hội nhập kinh tế quốc tế.
89
11. Nguyễn Mạnh Cầm, (2002), “Quán triệt và triển khai thực hiện nghị quyết
của Bộ chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí cộng sản, số 17, tháng
6/2002, trang 3 đến trang 13.
12. Vũ Khoan, (2002), “Hội nhập để phát triển, Tạp chí cộng sản, Số đặc biệt,
tháng 1/2002”, trang 19 đến trang 21.
13. TS. Bùi Bá Bổng, (2003), “Tình hình sản xuất và các chính sách liên quan
đến đường mía của Việt Nam”, Hội thảo đường Quốc tế Châu Á lần thứ IX,
ngày 24/09/2003.
14. TS. Lê Đăng Doanh, (2002), Nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa và
dịch vụ Việt Nam nhằm tận dụng hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ
và hội nhập kinh tế quốc tế.
15. ThS. Nguyễn Xuân Phách, (2002), “Mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 9 năm 2002, trang 14
đến trang 16.
16. Hoàng Dương, (2001), “Những đặc trưng cơ bản của tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế”, Thông tin phục vụ lãnh đạo, số 18 năm 2001, trang 13 đến
trang 18.
17. ThS. Bùi Thị Lý, (2001), “Chính sách thương mại của Việt Nam – Thực
trạng và những biện pháp điều chỉnh trong quá trình hội nhập”, Chuyên đề
Kinh tế và Kinh doanh quốc tế, Trường Đại học Ngoại Thương, quý IV năm
2001.
18. GS-PTS. Tô Xuân Dân, PTS Vũ Chí Lộc, (1997), Giáo trình Quan hệ kinh tế
quốc tế - Lý thuyết và thực tiễn, Nhà xuất bản Hà Nội.
19. Nguyễn Quốc Việt, (2003), “Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế”, Luận văn thạc sỹ
kinh tế, tháng 9/2003.
20. Nguyễn Thị Thùy Linh, (2002), “Ngành công nghiệp mía đường Việt Nam:
Thực trạng và giải pháp”, Khóa luận tốt nghiệp, năm 2002.
90
21. Trần Quỳnh Anh, (2000), “Hội nhập thương mại Việt Nam vào khu vực và
thế giới”, Khóa luận tốt nghiệp, năm 2000.
22. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI,
(1986), Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.
23. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VIII,
(1995), Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX,
(2000), Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Báo điện tử Vienam Economy, (2003), “Nâng cao sức cạnh tranh: Không
thể dựa vào lợi thế tự nhiên”, ngày 30/06/2003.
26. Báo điện tử Vietnam Agency, (2003), “Ngành mía đường Việt Nam đối mặt
với sự dư thừa của thị trường đường thế giới”, ngày 29/09/2003
27. Báo điện tử Vietnam Economy, (2002), “Lo lắng về sức cạnh tranh: Ngành
mía đường Việt Nam còn nhiều việc phải làm trước đòi hỏi của hội nhập”,
ngày 13/09/2002.
TÀI LIỆU TIẾNG ANH
1. Canberra & Sydney, (2001), “Vietnam Sugar Program – Where next?”,
Centre for international economics, December 2001.
2. Multilateral Trade Policy Assistance Programme, (2002), “Chapter VII: A
Porter-style approach”, July 2002.
3. Martin Painter, (2003), “Marketisation, Intergration and State Restructuring
in Vietnam: The Case of State Owned Enterprise Reform”, Southeast Asia
Reasearch Centre, No.39, January 2003.
4. J.A. Austin Associates INC., (2003), “Building Competitiveness in Vietnam”,
June 2003.
5. Nguyen Huu Loc, (2001), “Vietnam’s Intergration Into The World Economy
Through Foreign Trade”, Vietnam Economic Review, No. 4, 2001.
91
6. Hong Duong, (2002), “Vietnam Agriculture Steps Towards CEPT/AFTA”,
Vietnam Economic Review, No. 2, 2002.