35
DANH SÁCH NHÓM SIO : 1. NGUYỄN BÁ MỸ 2. LÊ ĐỨC SƠN 3. TRẦN NAM KHÁNH 4. LÊ TÙNG LÂM 5. HỒ THỊ THÙY NGA 6. NGUYỄN THỊ KIM YẾN 7. HOÀNG NGUYỄN NGỌC HÀ 8. PHAN THỊ THÙY DIỄM 9. VÕ THỊ BÍCH TRÂM 1

TCQT- K15QNH3- NHOM SIO.doc

Embed Size (px)

DESCRIPTION

bài tập nhóm tài chính quôc tế

Citation preview

Page 1: TCQT- K15QNH3- NHOM SIO.doc

DANH SÁCH NHÓM SIO :

1. NGUYỄN BÁ MỸ

2. LÊ ĐỨC SƠN

3. TRẦN NAM KHÁNH

4. LÊ TÙNG LÂM

5. HỒ THỊ THÙY NGA

6. NGUYỄN THỊ KIM YẾN

7. HOÀNG NGUYỄN NGỌC HÀ

8. PHAN THỊ THÙY DIỄM

9. VÕ THỊ BÍCH TRÂM

Chủ đề 1: Hệ thống tiền tệ quốc tế trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất

1

Page 2: TCQT- K15QNH3- NHOM SIO.doc

1. Hệ thống tiền tệ quốc tế là gì ?

Hệ thống tiền tệ quốc tế được hình thành trên cơ sở quan hệ thương mại – tài

chính giữa các nước.

Là hệ thống bao gồm các chế độ tiền tệ, chế tài điều tiết quan hệ tài chính giữa

các quốc gia và các định chế tài chính quốc tế. Cụ thể bao gồm:

Các chế độ tiền tệ và quy tắc xác định, điều tiết tỷ giá giữa đồng tiền của các

nước khác nhau với nhau.

Các chế tài điều tiết các mối quan hệ và hoạt động tài chính quốc tế và các

quốc gia.

Hệ thống thị trường tài chính quốc tế

Các tổ chức tài chính quốc tế.

Hệ thống tiền tệ quốc tế là hệ thống các tập quán, quy tắc, thủ tục và các tổ chức

quốc tế điều hành các quan hệ tài chính giữa các quốc gia.

Nghiên cứu hệ thống tiền tệ quốc tế là nghiên cứu các chế độ tiền tệ và chế tài

điều tiết quan hệ tài chính giữa các quốc gia và các định chế tài chính quốc tế trong

các giai đoạn lịch sử khác nhau. Cụ thể:

Chế độ tiền tệ, phương thức xác định tỷ giá và các quy tắc điều tiết.

Hoạt động của các định chế tài chính quốc tế.

2. các chế độ bản vị tồn tài trước chiến tranh thế giới thứ nhất :

2.1. Chế độ bản vị hàng hóa :

2.1.1. Lịch sử ra đời

Từ thời cổ đến thời cận đại, thương mại quốc tế hoạt động trên cơ sở bản vị hàng hóa,

trong đó, kim loại (chủ yếu là vàng và bạc) là hàng hóa được đúc thành các khối với chức

2

Page 3: TCQT- K15QNH3- NHOM SIO.doc

năng làm phương tiện trao đổi và lưu thông trong nền kinh tế. Trong thời kì đầu, tiền kim

loại được đúc chủ yếu dưới dạng tùy ý hoặc thành những thỏi hay những chiếc vòng, về

sau những phát kiến đã tiêu chuẩn hóa tiền tệ về trọng lượng, chất lượng kim loại và nhãn

mác. Những đồng xu mang những dấu hiệu về giá trị theo trọng lượng và chất lượng kim

loại, đồng thời chất lượng của các đồng xu được quốc gia bảo hộ. Do đó, hệ thống tiền

đúc (tiền xu) đã tạo điều kiện cho các giao dịch và giúp những nhà buôn tiết kiệm được

thời gian trong việc nhận dạng, định lượng và đánh giá chất lượng kim loại.Trong lịch sử,

vàng và bạc luôn là hai kim loại được ưa chuộng đặc biệt hơn hẳn các kim loại khác bởi

những đặc tính của chúng đã đáp ứng được những gì mà một đồng tiền hàng hóa cần có.

Không những thế, sự chấp nhận rộng rãi vàng và bạc như là tiền còn được củng cố từ thực

tế là các kim loại này có giá trị sử dụng phi tiền tệ trong các ngành công nghiệp và trang

sức. Chính vì sự thống nhất giá trị đồng tiền theo trọng lượng và giá trị của các kim loại

mà trong thời kì này, dự trữ ngoại hối không có ý nghĩa do đồng tiền mỗi nước đều được

chấp nhận rộng rãi và có thể quy đổi theo giá trị mà nó chứa đựng.

2.1.2 . Sự sụp đổ của chế độ bản vị hàng hóa:

Chế độ bản vị hàng hóa này đã bị sụp đổ do quy luật Gresham “Đồng tiền xấu đuổi

đồng tiền tốt” (Bad money drives out good money). Ở dạng tinh khiết,chế độ bản vị hàng

hóa hoạt động trên cơ sở giá trị đầy đủ của các đồng xu, tức là giá trị tiền tệ của chúng

cũng là giá trị kim loại của đồng xu. Tuy nhiên, sau một thời gian, khi các quốc gia ngày

càng thường xuyên giảm tỷ trọng của vàng hay bạc trong các đồng xu kéo theo sự ra đời

của tiền đúc “thiếu giá” (1540 – 1560), đã dẫn đến hiện tượng, đồng tiền xấu được ưu tiên

sử dụng hơn đồng tiền đầy đủ giá trị, đẩy đồng tiền tốt này ra khỏi lưu thông.

2.1.3. Chế độ bản vị hàng hóa trong mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung :

Chế độ bản vị hàng hóa gắn tiền với hàng hóa.Bản vị hàng hóa hay đồng tiền được bảo

đảm bằng hàng hóa đã xuất hiện và được áp dụng tại các nước xã hội chủ nghĩa trước đây

theo mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Thông qua hệ thống thương nghiệp nhà

nước và hệ thống giá nhà nước, đồng tiền được bảo đảm bằng hàng hóa cung cấp, thậm

chí theo nhiều nhóm hàng. Bạn đường của hệ thống này là chế độ tem phiếu.

3

Page 4: TCQT- K15QNH3- NHOM SIO.doc

Liệu trong hệ thống kế hoạch hành chính này đồng tiền có phải là đồng tiền ổn định?

Trong hệ thống này, đồng tiền được coi là ổn định trong chừng mực mà nhà nước còn

duy trì được sự mua bán bình thường theo hệ thống giá nhà nước. Cái giá cao phải trả cho

việc cố duy trì hệ thống này là chi phí cao, hiệu quả thấp, trao đổi mang tính gò ép, hình

thành cơ cấu kinh tế không hợp l., thị trường không có vai trò điều tiết nền kinh tế...Trong

quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, hệ thống kinh tế kế hoạch hóa tập trung, trong đó hệ

thống giá nhà nước là một bộ phận quan trọng, đã thể hiện là không có hiệu quả và kèm

theo nhiều tiêu cực khác, do vậy nó đã bị bác bỏ khi các nước xã hội chủ nghĩa tiến hành

cải cách, cải tổ và đổi mới nền kinh tế theo hướng thị trường.

2.2. Chế độ vàng – bạc – đồng

Chế độ đơn bản vị:

* Khái niệm:

Chế độ đơn bản vị là chế độ tiền tệ, trong đó lấy một thứ kim loại quý nào đó đóng vai

trò vật ngang giá chung và là cơ sở của toàn bộ chế độ lưu thông tiền tệ nước đó.Trong

lịch sử đã có những chế độ đơn bản vị cơ bản sau đây:

2.2.1. Chế độ bản vị đồng:

Chế độ bản vị đồng là chế độ tiền tệ lấy kim loại đồng làm tiêu chuẩn giá cả, xuất hiện

từ thời thượng cổ, sau cuộc phân công lao động lần thứ II của loài người khi thủ công

nghiệp tách ra khỏi công nghiệp. Trong chế độ bản vị đồng, người ta dùng kim loại đồng

để đúc tiền đưa vào lưu thông, vàng cũng được đúc tiền nhưng chiếm số lượng không

đáng kể vì lúc này quan hệ trao đổi hàng hóa chưa phát triển nên chưa có nhu cầu giao

dịch giá trị lớn

2.2.2.. Chế độ bản vị bạc:

Chế độ đơn bản vị bạc là chế độ lưu thông tiền tệ lấy bạc làm cơ sở để xác

định giá trị đồng tiền, dùng kim loại bạc để đúc tiền, vàng cũng đúc thành tiền phục vụ

những giao dịch lớn.

Khi giao dịch, người bán phải cân đếm tiền để xác định giá trị nên gọi là tiền cân. Về

sau, tiền do những người, tổ chức có uy tín đúc, đánh dấu và in giá trị lên đồng bạc, người

ta chỉ cần đếm tiền nên gọi là tiền đếm. Khi tiền do tư nhân đúc xuất hiện tình trạng gian

4

Page 5: TCQT- K15QNH3- NHOM SIO.doc

lận, nhà nước can thiệp bằng cách độc quyền tiền và phân phối trên toàn quốc, lúc này gọi

là tiền đúc.

Chế độ đơn bản vị bạc đã tồn tại rất lâu tại nhiều quốc gia trong nhiều thế kỷ dưới chế

độ phong kiến và trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên, bạc dần

dần bị mất giá, gây nhiều khó khăn trong quá trình lưu thông hàng hóa nên các

nước lần lượt loại bạc ra khỏi công dụng làm tiền tệ.

2.2.3. Chế độ bản vị vàng:

2.3. Chế độ lưỡng kim bản vị :

Chế độ lưỡng kim bản vị là chế độ tiền tệ đầu tiên được thừa nhận chính thức trong lịch

sử loài người. Nó bắt đầu hình thành vào đầu thế kỷ 18. Nguyên nhân hình thành chế độ

lưỡng kim bản vị là do sự gia tăng của sản xuất xã hội làm cho khối lượng trao đổi ngày

càng lớn, dẫn đến việc đồng tiền bạc được sử dụng trước đó trở nên không còn phù hợp

nữa. Lúc này người ta bắt đầu sử dụng thêm vàng như là kim loại thứ hai để đúc tiền tệ.

Vì vậy bạc và vàng đồng thời được coi là bản vị. Cả vàng và bạc đều được tự do đúc

thành tiền và cùng có giá trị trong thanh toán và trao đổi.

2.3.1. Khái niệm.

Chế độ song bản vị (bản vị song song): Là chế độ hai bản vị mà trong đó quy định tỷ lệ

trao đổi giữa tiền vàng và tiền bạc trong lưu thông phụ thuộc vào giá trị thực

tế của lượng vàng và lượng bạc chứa trong hai đồng tiền đó quyết định. Do đó, giá cả

hàng hóa và dịch vụ trên thị trường tất nhiên được thể hiện bằng chỉ hai loại giá

cả: Giá cả tính bằng tiền vàng và giá cả tính bằng tiền bạc. Hai loại giá cả này

sẽ thay đổi theo sự thay đổi tỷ giá giữa kim lại vàng và kim loại bạc hình thành tự phát

trên thị trường, vì vậy giá cả hàng hóa và dịch vụ sẽ bị hỗn loạn và dẫn đến sự hỗn loạn

của thị trường.

2.3.2. Hình thức.

- Chế độ bản vị song song: tiền đúc bằng vàng và tiền đúc bằng bạc được lưu

thông tự do theo giá thị trường. Ví dụ: năm 1792, 1 USD vàng bằng 1.603 gam vàng

ròng; 1 USD bạc bằng 24,06 gam bạc ròng. Do đó, trọng lượng 1 USD bạc bằng

5

Page 6: TCQT- K15QNH3- NHOM SIO.doc

15 lần trọng lượng 1 USD vàng. Chế độ này từng được áp dụng ở Anh,   Hoa Kỳ trước

thế kỷ 19.

- Chế độ bản vị kép : tiền đúc bằng vàng và tiền đúc bằng bạc được lưu thông theo

tỷ giá bắt buộc do Nhà nước quy định (tỷ giá pháp định).

2.3.3. Đặc điểm:

- Mọi người được tự do đúc tiền vàng và tiền bạc.

- Tiền vàng và tiền bạc được tự do lưu thông trong phạm vi quốc gia và giữa các quốc gia

với nhau.

* Ưu – nhược điểm của chế độ song bản vị:

+ Ưu điểm :

- Thúc đẩy thương mại quốc tế diễn ra nhanh chóng.

- Trong lưu thông hàng hoá, việc sử dụng chế độ song bản vị có nhiều tiến bộ hơn so với

thời kỳ nền kinh tế đổi chác hiện vật.

+ Nhược điểm :

- Nhà nước khó kiểm soát lượng vàng, bạc của mỗi quốc gia.

- Hai thước đo giá trị, hai hệ thống giá cả còn gây trở ngại trong việc tính toán và lưu

thông hàng hoá.

Quy luật Gresham:

Một kinh tế gia người Anh ở thế kỷ 17 tên là Gresham đã đưa ra một định luật, được gọi

là định luật Gresham. Đinh luật này cho rằng: trong một quốc gia, khi nào hai thứ tiền tệ

cùng dược pháp luật chấp nhận theo một giá trị chênh lệch, đồng tiền xấu sẽ dần trục xuất

đồng tiền tốt ra khỏi thị trường. Tiền xấu được hiểu là đồng tiền đang mất giá, tiền tốt là

tiền đang có giá.

Giả thuyết kinh tế do Grêsơm (T. Gresham; 1519 - 79) đưa ra. Theo giả thuyết này, “tiền

xấu sẽ đuổi tiền tốt ra khỏi lưu thông”. Vd. khi có hai kim loại (chẳng hạn vàng và bạc)

cùng lưu thông và giá trị thị trường của chúng khác với giá trị hợp pháp của chúng, thì

kim loại nào có giá trị thị trường lớn hơn giá trị hợp pháp sẽ được người ta tích trữ. Ở Hoa

Kì trong thời kì 1837 - 73, áp dụng chế độ song bản vị (vàng và bạc), hệ thống tiền tệ bị

mất ổn định vì khi thì bạc bị tích trữ, khi thì vàng bị tích trữ, tức “bị đuổi khỏi lưu thông”

do giá trị thị trường của bạc (hay vàng) cao hơn giá trị pháp lí của nó.

6

Page 7: TCQT- K15QNH3- NHOM SIO.doc

“tiền xấu trục xuất tiền tốt ra khỏi lưu thông”. Tức là, tiền nào có giá trị danh nghĩa thấp

hơn giá trị thực của nó trên thị trường dần dần bị quét khỏi lưu thông, nhường chỗ cho

thứ tiền có giá trị danh nghĩa lớn hơn giá trị thực tế của nó.  Nếu trong lưu thông

chỉ còn một kim loại giữ vai trò làm tiền tệ thì điều đó cũng có nghĩa là chế độ song bản

vị kết thúc nhường chỗ cho một chế độ bản vị mới.

d. Sự sụp đổ của chế độ song bản vị:

Từ cuối những năm 1860, các mỏ bạc được phạt hiện nhiều, việc khai thác

hàng loạt khiến bạc trở nên mất giá so với vàng, do đó nhiều quốc gia không

còn sử dụng bạc làm bản vị cho đồng tiền quốc gia nữa, chế độ song bản vị

bước đầu sụp đổ. Mặt khác, tại Mỹ, sau sự gián đoạn do cuộc nội chiến năm

1861, vào năm 1879, chính phủ chính thức tuyên bố không chuyển đổi tiền ra

bạc nữa mà chỉ chuyển đổi ra vàng. Chế độ song bản vị sụp đổ, hình thành chế độ

bản vị vàng cổ diển.

2.4. Chế độ bản vị vàng cổ điển (1875-1914)

2.4.1. Khái niệm:

Chế độ bản vị vàng là chế độ tiền tệ , trong đó vàng đóng vai trò là vật ngang giá

chung và là cơ sở của tòn bộ chế độ lưu thông tiền tệ.

Hệ thống bản vị vàng thực chết là chế độ tỷ giá cố định dựa trên tỷ lệ ngang giá vàng

của mỗi đồng tiền quốc gia

2.4.2. Hoàn cảnh ra đời:

Nước Anh, nước tư bản công nghiệp đầu tiên trên thế giới đã bỏ qua chế độ song bản

vị mà đi thẳng từ chế độ bản vị bạc sang chế độ bản vị vàng từ cuối thế kỉ XVIII. Từnăm

1870 Đức cũng chuyển từ song bản vị sang bản vị vàng. Đến cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ

XX để phù hợp với sự phát triển nhanh chóng của thời đại công nghiệp hóa, hầu hết

các nước tư bản châu Âu và Bắc Mỹ cũng đã chuyển sang chế độ bản vị vàng.

Trong khi trên một phần lớn diện tích thế giới ở cả ba châu lục:Á, Phi, Mỹ Latinh, các

nước chậm phát triển vẫn duy trì chế độ bản vị bạc.Ở Việt Nam, mãi đến năm 1931,

Ngân hàng Đông Dương mới chuyển sang chế độ bản vị vàng nhưng là chế độ bản vị

vàng cắt xén.

7

Page 8: TCQT- K15QNH3- NHOM SIO.doc

Tại mỹ ,quyết định chuyển đổi từ USD ra vàng mà không chuyển đổi sang bạc vào

năm 1879 là bước ngoặt quan trọng cho sự ra đời của hệ thống bản vị vàng. Nhưng đến

năm 1900, hệ thống này mới chính thức phê chuẩn thông qua đạo luật bản vị vàng. Trong

khoảng thời gian 30 năm từ năm 1880 đến năm 1914, hệ thống bản vị vàng đã phát triển ở

hầu hết các quốc gia, nó đã liên kết các quốc gia chặt chẽ với nhau cũng như giữa các

nước thống trị và các nước thuộc địa.

2.4.3. Nguyên tắc cơ bản :

- Tỷ giá của các đồng tiền được xác định bởi một khối lượng vàng nhất định. Hay nói

một cách khác mỗi chính phủ ấn định giá vàng theo đồng tiền quốc gia, đồng

thời sẵn sàng không hạn chế mua và bán vàng tại mức giá đã định. Ví dụ, tại Mỹ, giá 1

troy ounce vàng nguyên chất (480grains) là $20.67, do đó, sở đúc tiền của Mỹ

sẵn sàng và khônghạn chế mua vàng vào và bán vàng ra ở mức giá này.

- Tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền được xác định dựa trên nguyên tắc

ngang giá vàng . Tức l à thông qua g iá vàng được ấn đ ịnh t ính bằng các

đồng t i ền này . Ví dụ , 1 ounce vàng nguyên chất ở Anh có giá là ₤4.24 và ở Mỹ là

$20.67, từ đó suy ra tỷ giá hối đoái sẽ là $4.87/ ₤ ($20.67/₤4.24). Tỷ giá $4.87/₤ được duy

trì từ năm 1880 đến 1914.

- Dưới chế độ bản vị vàng, NHTW luôn phải duy trì một lượng vàng dự trữ trong mố

iquan hệ trực tiếp với số tiền phát hành. Tiền do NHTW phát hành được “đảm

bảo bằngvàng 100%” và tiền được chuyển đổi tự do không hạn chế ra vàng.

Kết quả là, khả năng thay đổi cung ứng tiền chính là sự thay đổi lượng tiền có

sẵn trong tay những người cưtrú. Chúng ta có thể nhận ra rằng, vai trò của

NHTW trong chế độ bản vị vàng là muavàng từ người cư t rú và thông qua

đó phá t hành t i ền ra lưu thông . Như vậy , vô h ình chung chế độ bản vị vàng

đã hạn chế sự năng động của NHTW trong việc điều tiết lượng tiền lưu thông.

- Vàng có thể được xuất khẩu hay nhập khẩu không hạn chế, được tự do mua bán trên

thị trường thế giới. Do vàng được chu chuyển tự do giữa các quốc gia, cho nên tỷ giá trao

đổi thực tế trên thị trường tự do không biến đổi đáng kể so với bản vị vàng,

bởi lẽ tất cả đều được quy ra vàng.

2.4.4. Hoạt động kinh tế vĩ mô dưới chế độ bản vị vàng:

8

Page 9: TCQT- K15QNH3- NHOM SIO.doc

- Tỷ giá trên thị trường ngoại hối dao động không đáng kể xung quanh mức

tỷ giá trên cơ sở bản vị vàng. Biên độ dao động của tỷ giá vào khoảng 1%

xung quanh mức tỷ giá trên cơ sở bản vị vàng tương đương với chi phí chuyên

chở và bảo hiểm khi chuyênchở vàng giữa các quốc gia. Hành động kinh doanh chênh

lệch tỷ giá làm tăng cung bảng Anh trên thị trường ngoại hối, dẫn đến bảng Anh giảm

xuống , có xu hướng trở về mức tỷ g iá t r ên cơ sở bản v ị vàng . Do Bảng Anh

đ ịnh g iá cao nên các nhà nhập khẩu Mỹ sẽ thanh toán nhập khẩu từ

Anh bằng cách vận chuyển vàng sang Anh ,và các nhà nhập khẩu Anh sẽ

thanh toán nhập khẩu từ Mỹ bằng cách chuyển bảng Anh ra đô la Mỹ. Điều này làm tăng

cung bảng Anh trên thị trường ,làm cho bảng Anh giảm giá.

- Hệ thống bản vị vàng về nguyên tắc , duy trì sự ổn định cán cân thanh

toán trong dà i hạn . Đối vớ i quốc g ia thâm hụ t cán cân thanh toán , xuấ t

h iện dòng vàng chảy ra , lượng tiền lưu thông giảm. Tác động làm giá và tiền

lương trong nước giảm.(thiếu mộtlượng tiền mặt để mua hàng hoá, làm cho

hàng hoá bị giảm giá ). Tiền lương giảm khihàng hoá tiêu dùng giảm, tác động làm

cho lãi suất lại tăng (do thiếu tiền mua hàng và họ phải đến ngân hàng để vay, cho nên lãi

suất lúc này sẽ tăng lên). Giá và lương trong nước giảm có tác động làm cho hàng hóa rẻ

hơn ,nhập khẩu giảm, xuất khẩu tăng. Lãi suất tăng có thể thu hút vốn chảy vào, cán

cân thanh toán được cải thiện và trở về trạng thái cân  bằng. Đối với các quốc

gia thặng dư cán cân thanh toán, xuất hiện dòng vàng chảy vào làm lượng tiền

lưu thông tăng.Tác động làm giá và tiền lương tăng.Giá và tiền lương tăng t ác

động l àm cho hàng hoá đắ t hơn , xuấ t khẩu g iảm và nhập khẩu t ăng .

Lã i suấ tgiảm kích thích luồng vốn chảy ra, giảm thặng dư cán cân thanh toán, cán cân

thanh toán có xu hướng trở về trạng thái cân bằng.

2.4.5. Đặc điểm:

Chế độ bản vị vàng cổ điển có 3 đặc điểm cơ bản sau đây:

- Mọi người được tự do đúc tiền vàng theo tiêu chuẩn giá cả do nhà nước quy định

-Tiền giấy được tự do đổi lấy vàng theo giá trị ghi trên giấy, từ đó hình thành

tỷgiá hối đoái giữa các quốc gia. Ví dụ, trước chiến tranh thế giới 1USD có thểđổi được

gần 1/20 lượng vàng, 1GBPcó thể đổi được gần 1/4 lượng vàng, nêntỷ giá hối đoái giữa

9

Page 10: TCQT- K15QNH3- NHOM SIO.doc

GBP và USD là gần 5 đôla.-Vàng được tự do luân chuyển giữa các nước,

nghĩa là vàng vừa là t iền tệ quốc gia, vừa là tiền tệ quốc tế.

Với những đặc trưng trên, chế độ bản vị vàng cổ điển có tác dụng tích cực đối với sự

phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa:

- Thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của nền sản xuất TBCN- góp phần thúc đẩy sự

phát triển của hệ thống tín dụng TBCN – tạo điều kiện phát triển ngoại thương.

 Tuy nhiên, chế độ bản vị vàng cũng có những hạn chế của nó như. -Chính phủ các

nước không còn kiểm soát được chính sách t iền tệ của mình vì lượng cung

ứng tiền tệ của nước đó được xác định bởi các luồng vàng được di chuyển giữa các nước.

- Chính sách t iền tệ t rên toàn thế giới bị chi phối rấ t lớn bởi việc sản

xuất vàngvà việc phát hiện các mỏ vàng. Khi lượng vàng đủ cho lưu thông thì nền kinh

tế phát triển tốt, không có lạm phát. Nhưng nếu lượng vàng cung ứng không ăn

nhịp với tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ làm giá cả hàng hóa sụt giảm, ngược lại, nếu lượng

cung ứng tiền vàng quá lớn sẽ làm giá cả hàng hóa tăng lên.

2.4.6. Ưu – nhược điểm của chế độ bản vị vàng:

* Ưu điểm:- Giúp cho thương mại và đầu tư thế giới phát triển và hưng

thịnh. Điều này được chứng minh trong thời kỳ 1880-1914, với hang rào

thương mại vàng được gỡ bỏ hoàn toàn và kiểm soát ngoại hối , chu chuyển vốn ít

khi được áp dụng cộng với việc không cómột sự phá giá hay nâng giá nào giữa các đồng

tiền của các quốc gia lớn trên thế giới đã giúp cho thị trường vốn quốc tế phát triển với

trung tâm là London.

- Khuyến khích phân công lao động quốc tế, giúp gia tăng phúc lợi thế giới.

Trong chế độ bản vị vàng, các nhà đầu tư gần như được dảm bảo chắc chắn

trước những rủi rovề tỷ giá, điều này khiến cho thương mại và đầu tư thế giới

phát triển, luồng vốn lưu chuyển tự do giữa các quốc gia để tìm kiếm lợi nhuận cao

nhất.

- Cơ chế điều chỉnh ván vân thanh toán vận hành trơn tru. Với cơ chế dòng

vàng – giá cả, những bất cân đối trong cán cân thanh toán của các quốc gia sẽ tự động

được điều chỉnh về trạng thái cân bằng.

10

Page 11: TCQT- K15QNH3- NHOM SIO.doc

- Mâu thuẫn quyền lợi giữa các quốc gia ít khi xảy ra vì có sự tác động của

cơ chế dòng vàng- giá cả nên những thâm hụt hay thặng dư trong cán cân thanh

toán của một quốc gia được điều chỉnh một cách tự động theo quan hệ cung cầu phổ

biến.

* Những hạn chế của chế độ bản vị vàng:

- Nền kịnh tế phải trải qua sự bất ổn. Cơ chế điều chỉnh cán cân thanh toán

quốc tế thông qua sự thay đổi mức giá cả, lãi suất, thu nhập và thất nghiệp.

- Quốc gia có thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế phải trải qua thời kỳ kinh

tế đình đốn, tỷ lệ thất nghiệp cao; trong khi đó, quốc gia có thặng dư cán cân

thanh toán lại trảiqua thời kỳ lạm phát.

  - Những phát hiện mới về các mỏ vàng có thể xuất hiện bất cứ lúc nào, và là nguyên

nhân làm tăng cung tiền và tăng tỷ lệ lạm phát một cách đột biến.- Ở những quốc gia khan

hiếm vàng thì cung ứng tiền sẽ hạn chế và trở thành nguyênnhân kìm hãm tăng trưởng

kinh tế.

2.4.7. Sự sụp đổ của chế độ bản vị vàng:

 Nguyên nhân sâu xa dẫn tới sự sụp đổ của chế độ bản vị vàng cổ điển chính là những

hạn chế trong chính bản thân nó. Từ đầu thế kỉ XX, để chuẩn bị chiến tranh và cả tái thiết

sau chiến tranh, họ mua quá nhiều hàng hóa, vũ khí đến mức không còn đủ vàng để trả

và phải phát hành tiền giấy nhiều hơn là giới hạn được bảo đảm bằng vàng, đặt cược vào

kết cục chiến tranh và thu bồi thường chiến tranh như nước Đức đã làm trong

Chiến tranhPháp-Phổ 1870. Đầu tiên, chính phủ các nước lớn ra sức tích trữ

vàng, đình chỉ đổi tiềnngân hàng lấy vàng, đình chỉ xuất khẩu vàng, thực hiện chế độ

bảo hộ mậu dịch... Chẳng hạn như Ngân hàng Anh không đổi tiền ra vàng kể từ năm

1914. Cho đến cuối Thế chiến,nước Anh ban hành hàng loạt các quy định sử dụng “tiền

luật định” như nộp thuế, trả trợ cấp xã hội, thu chi chính phủ… Tuy nhiên, hiệu

quả của các chính sách ấy không như mong muốn vì các chính phủ phải chi tiêu quá

nhiều. Lượng tiền mặt in ra quá nhiều làm xuất hiện lạm phát với quy mô khủng

khiếp, như siêu lạm phát ở Đức với tỷ lệ lạm phát 1000% và sau 2 năm giá cả

hàng hóa tăng 30 tỷ lần. Bên cạnh đó, luồng vàng di chuyểngiữa các nước

không đồng đều, 2/3 lượng vàng trên thế giới tập trung vào 5 nước lớn làAnh,

11

Page 12: TCQT- K15QNH3- NHOM SIO.doc

Mỹ, Pháp, Đức, Nga, còn dự vàng các nước khác sụt giảm nghiêm trọng làm

mấtkhả năng chuyển tiền giấy ra vàng. Chế độ bản vị vàng cổ điển sụp đổ, sau

hơn 40 năm đem lại sự thịnh vượng cho các nước.

Chủ đề 2: Hệ thống tiền tệ quốc tế giữa hai cuộc đại chiến và hệ thống Bretton

Woods.

1. Hệ thống tiền tệ quốc tế là gì ?

12

Page 13: TCQT- K15QNH3- NHOM SIO.doc

Hệ thống tiền tệ quốc tế được hình thành trên cơ sở quan hệ thương mại – tài

chính giữa các nước.

Là hệ thống bao gồm các chế độ tiền tệ, chế tài điều tiết quan hệ tài chính giữa

các quốc gia và các định chế tài chính quốc tế. Cụ thể bao gồm:

Các chế độ tiền tệ và quy tắc xác định, điều tiết tỷ giá giữa đồng tiền của các

nước khác nhau với nhau.

Các chế tài điều tiết các mối quan hệ và hoạt động tài chính quốc tế và các

quốc gia.

Hệ thống thị trường tài chính quốc tế

Các tổ chức tài chính quốc tế.

Nghiên cứu hệ thống tiền tệ quốc tế là nghiên cứu các chế độ tiền tệ và chế tài

điều tiết quan hệ tài chính giữa các quốc gia và các định chế tài chính quốc tế trong

các giai đoạn lịch sử khác nhau. Cụ thể:

Chế độ tiền tệ, phương thức xác định tỷ giá và các quy tắc điều tiết.

Hoạt động của các định chế tài chính quốc tế.

2. Chế độ bản vị giữa hai cuộc đại chiến (1914-1944)

Sơ lược về các chế độ bản vị giữa hai cuộc đại chiến:

Sự chấm dứt bản vị vàng và chế độ tỷ giá thả nổi: tài trợ chiến tranh và lạm phát bùng

nổ, phá vỡ khả năng duy trì quan hệ tiền – vàng.

Việc tái ấn định lại bản vị vàng 1920: sự hồi sinh chế độ bản vị vàng và mang đặc

điểm của chế độ bản vị hối đoái vàng 1925-1931.

13

Page 14: TCQT- K15QNH3- NHOM SIO.doc

Sự sụp đổ của hệ thống thương mại và tài chính quốc tế sau Đại khủng hoảng 1929-

1933: Sự tan rã của các khối tiền tệ (GBP, USD, và các đồng tiền khác tiếp tục gắn với

vàng), chấm dứt chế độ bản vị vàng.

Những thương thuyết về tái thiết hệ thống tiền tệ quốc tế 1941

Hội nghị Bretton Woods 1944 và sự ra đời của hệ thống Bretton woods

Chế độ bản vị vàng mới :

2.2.2. Hoàn cảnh:

Cùng với sự sụp đổ của chế độ bản vị vàng cổ điển, lưu thông tiền tệ giữa

các nước gặp nh iều khó khăn . Để có một chế độ t i ền t ệ ổn đ ịnh , hàng

loạ t các cố gắng của các nước trong thập niên 1920 để quay trở lại bản vị vàng mà

đi đầu là Mỹ năm 1919. Ở Anh Quốc, với sự tư vấn của các nhà kinh tế học bảo

thủ, đồng bảng trở lại bản vị vàng năm 1925 dưới thời Bộ trưởng Tài chính

Winston Churchill dù ông làm việc này một cách miễn cưỡng. Bất kể giá vàng

cao hơn và lạm phát nghiêm trọng sau Thế chiến thứ nhất chấm dứt chế độ bản vị

vàng, Churchill đã trở lại bản vị vàng mức trước chiến tranh. Tiếp theo đó là Thụy Sĩ,

Pháp và các quốc gia Bắc Âu khác cũng lần lượt khôi phục lại chế độ bản vị vàng. Tuy

nhiên, hầu hết các nước lúc bấy giờ không còn đủ vàng để chế độ bản vị vàng

theo kiểu cổ điển mà phải thực hiện chế độ bản vị vàng mới, không trọn vẹn hay còn gọi

là chế độ bản vị vàng bị cắt xén. Chế độ bản vị vàng mới bao gồm chế độ bản

vị vàngthoi và chế độ bản vị hối đoái vàng.

2.2.3. Chế độ bản vị vàng thoi: 

Chế độ bản vị vàng thoi hay là chế độ kim định bản vị (gold bullion

stardand), theo chế độ này tiền giấy không được tự do đổi ra tiền vàng mà phải

có một khối lượng tiền giấy nhất định mới đổi được một thoi vàng. Chế độ bản vị vàng

thoi thi hành ở Anh năm 1925, muốn đổi tiền giấy lấy vàng phải đổi ít nhất 1500 bảng

Anh, ở Pháp năm 1928 con số tối thiểu này là 225.000 Franc.

2.2.4. Chế độ bản vị hối đoái vàng:

14

Page 15: TCQT- K15QNH3- NHOM SIO.doc

Chế độ bản vị hối đoái vàng hay là chế độ kim hoàn bản vị (gold exchange stardand).

Đấy là chế độ trong đó tiền giấy không được đổi trực tiếp ra vàng, muốn

chuyển đổi ra vàng phải thông qua một đồng tiền trung gian khác. Thông thường đồng

tiền trung gian là đồng tiền mình có quan hệ chuyển đổi ra vàng.

2.2.5. Nhược điểm của chế độ bản vị vàng mới:

Vẫn mang những nhược điểm của chế độ bản vị vàng cổ điển. Áp dụng chế độ bản

vị vàng mới mang lại những lợi ích nhất định cho các nước như Anh làm chính

phủ Anh lạm dụng quyền phát hành Bảng Anh khiến đồng Bảng Anh liên tục bị khủng

hoảng và mất uy tín. Những nỗ lực nhằm quay trở lại với thời bản vị vàng sau Thế chiến I

đã không được quản lý đúng cách với việc tái áp dụng tỷ lệ trao đổi như thời trước chiến

tranh ở một số nước mặc cho có sự xuất hiện của lạm phát, tỷ lệ trao đổi thấp hơn ở

những nước khác và sự kìm hãm những cơ chế điều chỉnh cần thiết.

Theo các nhà nghiên cứu thì đây là bước lùi của hệ thống tiền tệ TBCN: sự

liên kết giữa vàng và tiền giấy đã trở nên lõng lẽo, trong chế độ bản vị vàng gián tiếp

người ta thấy sự xuất hiện của hiện tượng lạm phát.

2.2.6. So sánh chế độ bản vị vàng cổ điển và chế độ bản vị vàng mới:

Chế độ bản vị vàng cổ điển là chế độ trong đó tiền giấy khả hoán được chuyển đổi

thành vàng theo một định nghĩa chính thức. Ví dụ, vào năm 1930, 1USD = 1,504 gr

vàng,1FRF = 0,065gr vàng. Lượng tiền giấy phát hành luôn được đảm bảo bằng lượng

vàng dự trữ. Trong chế độ tiền tệ này, mọi người được tự do đúc tiền, đổi tiền giấy hoặc

vàng thoi lấy tiền vàng. Tiền tệ có giá trị trao đổi đúng bằng giá trị nội tại của nó. Giá trị

thật sự của tiền đúng bằng giá trị ghi trên đồng tiền. Trong chế độ bản vị vàng thoi,

Nhà Nước hạn chế quyền tự do đổi tiền lấy vàng bằng cách chỉ cho chuyển đổi

từ một khối lượng tối thiểu khá lớn, dưới hình thức vàng thoi. Tức là, vào thời kì

này không còn tiền dưới hình thức những đồng tiền vàng mà chỉ có hình thức vàng

thoi, tiền vàng không còn là phương tiện thanh toán chủ yếu trên thị trường nữa.

Còn chế độ bản vị hối đoái vàng là chế độ định nghĩa đơn vị tiền tệ quốc gia theo đơn vị

tiền tệ của nước khác. Đơn vị tiền tệ của nước được chọn để định nghĩa lại theo

chế độ kim bản vị. Ví dụ, Ấn Độ đã định nghĩa đồng Roupie theo đồng bảng

Anh, đồng bảng Anh lại được định nghĩa theo bản vị vàng.

15

Page 16: TCQT- K15QNH3- NHOM SIO.doc

2.2.7. Sự sụp đổ của chế độ bản vị vàng mới:

Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 làm cho hàng ngàn ngân hàng

bị phá sản và hàng loạt ngân hàng rơi vào thế khủng hoảng, dẫn tới tâm lý lo sợ của công

chúng, làn sóng đổi tiền giấy lấy vàng dâng lên ào ạt khiến các ngân hàng không còn đủ

vàng để đáp ứng nhu cầu chuyển đổi. Những nước giữ nhiều GBP (đứng đầu là

Pháp) đã dùng GBP để săn vàng của Anh làm cho dự trữ vàng của Anh cạn

dần. Đến ngày 21/09/1931, Ngân hàng Anh phải đình chỉ đổi tiền giấy lấy

vàng, tuyên bố chấm dứt chế độ bản vị vàng thoi . Không săn được vàng của

Anh, các nước chuyển sang săn vàng của Mỹ. Chỉ trong một thời gian ngắn, Mỹ

mất luôn 20% dự trữ vàng, Mỹ phải tuyên bố chấm dứt chế độ bản vị vàng vào năm

1933. Và các quốc gia khác cũng lần lượt buộc phải từ bỏ nó trong thời gian

Đại khủng hoảng như ở Thụy Điển năm 1929, ở Bỉ vào tháng 3/1935, ở  Pháp,

Hà Lan, Thụy Sĩ vào tháng 10/1936… Ngay từ khi ra đời, chế độ bản vị vàng mới đã bộc

lộ tính chất không ổn định nên khi cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-

1933 bùng nổ đã thật sự phá sập hệ thống tiền tệ dựa trên bản vị vàng thoi và

bản vị hối đoái vàng. Đến đây, chế độ bản vị vàng mới hoàn toàn sụp đổ dưới mọi

hình thức.

2.3. Chế độ ngoại tệ bản vị:

2.3.1. Hoàn cảnh:

Sự sụp đổ của chế độ bản vị vàng cùng với việc các quốc gia lần lượt bãi bỏ chế độ

tiền giấy khả hoán, chuyển sang chế độ tiền giấy bất khả hoán gây nhiều khó khăn trong

thương mại quốc tế.

Để hổ trợ cho hoạt động thanh toán quốc tế, thúc đẩy quá trình phát triển nền kinh tế

quốc tế đòi hỏi phải thiết lập chế độ tiền tệ, với một thước đo, tiêu chuẩn chung giữa các

quốc gia.

2.3.2. Khái niệm:

Là chế độ tiền tệ trong đó một nước quy định đơn vị tiền tệ của mình theo một ngoại

tệ nhất định (thường là ngoại tệ mạnh). Có nhiều loại chế độ ngoại tệ bản vị, tồn tại đan

xen nhau.

Chế độ ngoại tệ bản vị bao gồm những hình thức chủ yếu sau:

16

Page 17: TCQT- K15QNH3- NHOM SIO.doc

2.3.3. Chế độ tiền tệ theo khu vực:

Giai đoạn này, các nước đều phá giá tiền tệ của họ để canh tranh xuất khẩu và giành

giật thị trường tiêu thụ hàng hoá. Để có thể đứng vững trong cạnh tranh, các nước đã tự

tập họp thành các khu vực tiền tệ, mỗi khu vực do một nước lớn cầm đầu đối địch với các

nước khác.

Đ

ặc

điểm:

Phần

lớn dự trữ

ngoại hối của

các nước

thành viên

được tập

trung vào

ngân hàng

của các nước

cầm đầu.

Quan hệ tiền tệ giữa tiền tệ của các nước cầm đầu khu vực tiền tệ với tiền tệ của

các nước thành viên được thực hiện theo một tỷ giá hối đoái nhất định.

Phần lớn thanh toán quốc tế của các nước trong khu vực tiền tệ được thực hiện

bằng tiền tệ của nước cầm đầu khu vực tiền tệ.

* Chế độ tiền tệ theo khu vực hình thành và phát triển từ năm 1933 và kết thúc vào

năm 1939 do cuộc đại chiến tranh thế giới thứ II làm cho tình hình kinh tế chính trị và tài

chính của các nước ngày càng xấu đi, phong trào giải phóng dân tộc dâng cao đã làm tan

rã khối thuộc địa, do đó kéo theo sự sụp đổ của các khu vực tiền tệ.

=> Như vậy, thời kỳ giữa 2 cuộc thế chiến, HTTTQT mang tính chất hỗn loạn.

3. Hệ thống Bretton Woods (1944-1973).

Khu vực tiền tệ Các quốc gia sử dụng

Khu vực bảng Anh

Anh và các nước thuộc địa, nửa thuộc địa,

các nước có mối quan hệ mật thiết với

Anh về thương mại, tài chính như: Ai Cập,

I Rắc, Thái Lan, Bồ Đào Nha, Đan

Mạch…

Khu vực Đô-la MỹDo Mỹ cầm đầu bao gồm: Mỹ, Canada và

các nước ở Châu Mỹ LaTinh…

Khu vực Frăng Pháp

Do Pháp cầm đầu bao gồm Pháp và các

nước thuộc địa của Pháp ở Châu Âu và

Châu Phi…

Khu vực đồng RoubleLiên Xô (cũ) và các nước theo Chủ Nghĩa

Xã Hội…

17

Page 18: TCQT- K15QNH3- NHOM SIO.doc

3.1. Sự hình thành hệ thống Bretton Woods

Ngay trước khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, các nước đồng minh đã bắt

đầu việc xây dựng một hệ thống tiền tệ quốc tế mới nhằm thúc đẩy các quan hệ tiền tệ và

thương mại quốc tế. Vào năm 1944, một hội nghị quốc tế được nhóm họp tại Bretton

Woods (Mỹ) với sự tham gia của đại diện 44 quốc gia đã đưa ra một loạt các biện pháp

liên quan đến lĩnh vực tài chính tiền tệ, dẫn đến sự hình thành hệ thống tiền tệ quốc tế mới

với tên gọi là hệ thống Bretton Woods.

Hệ thống tiền tệ quốc tế mới được xây dựng chủ yếu trên cơ sở kế hoạch do đoàn

đại biểu Mỹ đưa ra (một kế hoạch khác do Anh đưa ra đã không được chấp thuận) theo đó

hệ thống phải đáp ứng được một số yêu cầu cơ bản sau đây:

- Các tổ chức quốc tế - hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tài chính tiền tệ đòi hỏi phải

thành lập một tổ chức quốc tế với những chức năng và quyền hạn nhất định.

- Chế độ tỷ giá hối đoái - tỷ giá hối đoái phải được xác định cố định về mặt ngắn

hạn, nhưng có thể được điều chỉnh khi xuất hiện tình trạng “mất cân đối cơ bản”.

- Dự trữ quốc tế - để giúp chế độ tỷ giá cố định điều chỉnh hoạt động một cách có

hiệu quả, các quốc gia cần tới một lượng dự trữ quốc tế lớn, vì vậy phải có sự gia tăng

vàng và các nguồn dự trữ bằng tiền.

- Khả năng chuyển đổi của đồng tiền – vì lợi ích kinh tế chung mà tất cả các quốc

gia phải tham gia vào mọi hệ thống thương mại đa phương tự do, trong đó các đồng tiền

chuyển đổi tự do được sử dụng.

3.2. Đặc điểm của hệ thống Bretton Woods

Thứ nhất là chế độ tỷ giá. Tỷ giá hối đoái cố định trong ngắn hạn, có thể điều chỉnh

trong những trường hợp cụ thể. Theo quy định của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), mỗi đồng

tiền quốc gia được ấn định một tỷ giá cố định với USD và được phép dao động trong biên

độ ±1%. Giá USD được cố định với vàng là 35USD/ounce. Việc cố định tỷ giá đôla với

vàng đã tạo lòng tin cho cả thế giới vì Mỹ vào thời điểm đó chiếm 70% dự trữ vàng của

thế giới. Chính phủ Mỹ cam kết đổi đôla ra vàng không hạn chế. Một cách gián tiếp, các

quốc gia có thể hoàn toàn tin tưởng khi neo giá đồng tiền nước mình với đồng đôla. Trong

những trường hợp mất cân bằng nghiêm trọng trong cán cân thanh toán, các quốc gia có

18

Page 19: TCQT- K15QNH3- NHOM SIO.doc

thể tiến hành phá giá hay nâng giá đồng tiền với biên độ nhỏ hơn 10% trước khi IMF phải

can thiệp.

Thứ hai, là dự trự quốc tế. Muốn duy trì tỷ giá hối đoái cố định, các quốc gia phải có

một lượng dự trữ quốc tế đủ lớn bằng vàng và ngoại tệ. Theo quy định của IMF, tổ chức

này sẽ giám sát và hỗ trợ hợp tác quốc tế trên lĩnh vực tiền tệ và thương mại. Để cho các

quan hệ thương mại ổn định, cần phải duy trì một hệ thống tỷ giá ổn định, hiệu quả. Nhằm

trành cho các quốc gia thành viên thực hiện phá giá hoặc nâng giá đồng tiền, IMF cung

cấp cho các thành viên một hạn mức tín dụng thường xuyên để tài trợ cho thâm hụt cán

cân thanh toán. Hạn mức tín dụng phụ thuộc vào quy mô của các nền kinh tế và tỷ trọng

đóng góp của các quốc gia đó vào IMF. Các quốc gia đóng góp vào IMF theo tỷ lện ¼ là

tài sản dự trữ (chủ yểu là vàng), ¾ bằng đồng tiền quốc gia. Khi gặp khó khăn, mỗi thành

viên được rút 25% hạn mức trong lần đầu, sau đó muốn rút thêm phải tuân thủ nghiêm

ngặt các chính sách kinh tế của IMF đưa ra, có thể rút trong 4 lần, mỗi lần 25% hạn mức.

Thứ ba là khả năng chuyển đổi các đồng tiền. Các quốc gia tham gia vào quỹ tiền tệ

quốc tế (IMF) và Hiệp định chung về thương mại và thuế quan GATT phải cam kết

chuyển đổi không hạn chế đồng nội tệ đối với các giao dịch trong cán cân vãng lai (có thể

hạn chế kiểm soát chu chuyển vốn nhưng không kiểm soát các chuyển đổi tiền tệ phục vụ

mục đích thương mại).

3.3. Hoạt động của hệ thống Bretton Woods

Thời gian tồn tại của hệ thống BW có thể chia thành hai giai đoạn: giai đoạn “đói

Đôla” (1940 – 1958) và giai đoạn “bội thực Đôla” ( 1959 – 1971).

Giai đoạn “đói đôla” (1940-1958):

Trong chiến tranh thế giới II, Mỹ đã thu được nguồn vàng lớn từ bên ngoài bằng việc

buôn bán vũ khí cho các nước tham chiến. Sau chiến tranh, Mỹ đã có 1 nguồn dự trữ vàng

lên tớI 26 tỉ đôla chiếm 60% dự trữ vàng trên toàn thế giới. Do đó, đồng đôla của Mỹ

được coi là tốt như vàng.

Trong khi đó, do bị chiến tranh tàn phá nặng nề nên các nước Tây Âu có một nhu cầu

tín dụng lớn để nhập khẩu những gì cần thiết cho công cuộc tái thiết. Theo kế họach

Marshall, vẫn được biết đến là kế hoạch tái thiết Châu Âu, từ 1948 đến 1954, $17 tỉ Mỹ

đã được đưa vào 16 nước Tây Âu.

19

Page 20: TCQT- K15QNH3- NHOM SIO.doc

Hơn nữa, trong giai đoạn này, những bất đồng lớn trong phe đồng minh chống phát xít

bắt đầu xuất hiện. Mặc dù Liên Xô có tham gia vào hộI nghị Bretton Woods năm 1944

nhưng Liên Xô lại từ chối tham gia vào quỹ tiền tệ thế giới. Đặc biệt trong không khí

căng thẳng của chiến tranh lạnh, Mỹ đã phải chi trả một khoản lớn cho quân sự, do đó vào

cuối những năm 50 đầu những năm 60 nền kinh tế Mỹ bắt đầu xuất hiện một số dấu hiệu

của khủng hoảng.

Giai đoạn “bội thực đôla” (1959-1971):

Trong giai đoạn này, nền kinh tế ở các nước Tây Âu dần đi vào ổn định và phát triển.

Nguồn dự trữ đôla ở ngân hàng các nước tăng lên nhanh với tốc độ không mong muốn,

các ngân hàng đó bắt đầu tìm cách chuyển đổi đôla lấy vàng.

Thêm vào đó, thị trường vàng kép xuất hiện mà khoảng cách giữa giá vàng trên thị

trường tự do với giá vàng của ngân hàng nhà nước là rất lớn, mức giá vàng trên thị trường

tự do là $35/ounce, còn mức giá trên thị trường tự do biến động theo quy luật cung - cầu.

Điều này dẫn đến tình trạng những nhà đầu cơ mua vàng ở ngân hàng trung ương và bán

vàng trên thị trường tự do.

Lúc này, nền kinh tế của Tây Âu và Nhật Bản phát triển mạnh mẽ. Do đó, giá trị đồng

tiền của các nước này cũng tăng. Lòng tin vào đồng đôla cũng giảm sút, nguồn vốn khổng

lồ bằng đồng đôla dần được chuyển sang các đồng tiền mạnh hơn.

Đến năm 1971, Mỹ phải tuyên bố ngừng đổi đồng đôla sang vàng và phá giá lần thứ

nhất đối với đồng đôla. Bằng việc ký thỏa thuận Smith mà theo đó giá vàng chính thức

được tăng từ 35 đôla lên $38/ounce, và đồng tiền của một số nước như Mac Đức, Yên

Nhật, Franc Thụy Sỹ được nâng giá. Mức dao động xung quanh ngang giá được nâng lên

từ 1% lên 2,25%. Do việc chuyển đổi đôla thành vàng không được phục hồi cho nên trong

thời gian đó gọi là “chế độ bản vị đôla” tuy nhiên hiệp ước Smith chỉ tồn tại được 15

tháng.

Vào đầu năm 1973 do khủng hoảng của đồng $ nên các quốc gia công nghiệp chủ

chốt đã bãi bỏ các mức ngang giá chính thức với đồng $ và thực hiện thả nổi độc lập

(hoặc tập thể) đồng tiền của mình, sau khi Mỹ phá giá đồng $ lần thứ 2. Điều này đánh

dấu sự thất bại hoàn toàn trong việc cải tổ hệ thống Bretton Woods và sự sụp đổ của hệ

thống bản vị $ này.

20

Page 21: TCQT- K15QNH3- NHOM SIO.doc

4.4. Nguyên nhân sụp đổ của hệ thống Bretton Woods

Hệ thống Bretton Woods hoạt động với sự thành công rõ ràng và đáng ghi nhận, trong

suốt những năm từ 1947 đến 1971 chỉ xảy ra một số lần điều chỉnh đột xuất. Việc giải

thích sự sụp đổ của Bretton Woods thường tập trung vào vấn đề thanh khoản và sự thiếu

vắng một cơ chế điều chỉnh phù hợp.

- Vấn đề thanh khoản:

Với mức giá $35 /ounce thì tổng tài sản nợ của chính phủ Mỹ đã vượt tổng tài sản có

bằng vàng. Điều này có nghĩa là khả năng chuyển đổi toàn bộ tài sản nợ bằng USD ra

vàng tại mức giá $35/ounce là không thể thực hiện. Triffin đã tiên đoán rằng: một khi

chính phủ Mỹ đã bộc lộ mất khả năng thanh toán (chuyển đổi USD ra vàng tại mức giá

$35/ounce như cam kết), tức USD được dự tính là sẽ phá giá đối với vàng; do đó, các

ngân hàng trung ương nước ngoài sẽ chuyển đổi USD dự trữ của mình ra vàng, do lượng

vàng không đủ nên chính phủ Mỹ cuối cùng buộc phải từ chối việc chuyển đổi USD ra

vàng, nghĩa là chấm dứt duy trì tỷ giá cố định với USD, làm cho Bretton Woods sụp đổ.

- Sự thiếu vắng một cơ chế điều chỉnh:

Bretton Wood cho phép điều chỉnh tỷ giá chính thức như là biện pháp cuối cùng để

điều chỉnh sự mất cân đối cơ bản trong BOP của các nước thành viên. Tuy nhiên trong

thực tế các quốc gia có BOP mất cân đối tỏ ra rất miễn cưỡng khi thực hiện cac biện pháp

như: phá giá, nâng giá, hay các chính sách kinh tế khác nhằm duy trì trạng thái cân bằng

của BOP.

Về phía Mỹ: Cho dù tỷ lệ lạm phát sau nhiều năm tuy có cao, nhưng chính phủ Mỹ

không thể phá giá USD đối với vàng được, bởi vì nếu phá giá sẽ làm xói mòn lòng tin vào

toàn hệ thống Bretton Woods. Hơn nữa, giả sử chính phủ Mỹ phá giá USD so với vàng thì

cũng không cải thiện được sức cạnh tranh thương mại quốc tế nếu như các bạn hàng vẫn

duy trì tỷ giá cố định đối với USD. Như vậy, để duy trì và kiểm soát được thâm hụt BOP

chính phủ Mỹ buộc phải áp dụng các chính sách thiểu phát nền kinh tế.

Đối với các nước có BOP thâm hụt: Rõ ràng hành động phá giá là phương thuốc cuối

cùng để cải thiện BOp của các nước bị thâm hụt. Nhưng thực tế chỉ ra rằng các nước có

BOP thâm hụt lại tỏ ra rất miễn cưỡng khi phá giá đồng tiền của mình, bởi vì phá giá

thường được xem là biểu hiện yếu kém của chính phủ và của cả một quốc gia. Một khi

21

Page 22: TCQT- K15QNH3- NHOM SIO.doc

các quốc gia có thâm hụt BOP miễn cưỡng áp dụng các chính sách thiểu phát nền kinh tế

cũng như phá giá đồng bản tiền tệ, có nghĩa là hệ thống Bretton Woods phải trông chờ

vào các nước có thặng dư BOP làm một cái gì đó để BOP của họ giảm xuống.

Đối với các nước có thặng dư BOP như Đức, Nhật, Thuỵ Sỹ... cũng muốn chứng tỏ

rằng việc nâng giá đồng tiền của họ cũng khó khăn và miễn cưỡng chẳng kém gì các nước

phải phá giá đồng tiền. Điều này xảy ra là vì khi đồng tiền của họ tiếp tục được định giá

thấp sẽ cho phép duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong xuất khẩu và hướng nền kinh tế vào

sản xuất hàng xuất khẩu. Họ lo ngại rằng nếu nâng giá đồng bản tệ sẽ khiến cho tăng

trưởng xuất khẩu chậm lại, thất nghiệp gia tăng bởi vì các ngành sản xuất hàng xuất khẩu

phải co lại. Hơn nữa, các quốc gia này không dễ gì áp dụng chính sách mở rộng tiền tệ

như là các biện pháp giảm thặng dư BOP bởi vì họ luôn lo ngại về những hậu quả của lạm

phát có thể gây ra.

Trong chế độ tỷ giá cố định, áp lực luôn đè nặng lên con nợ phải tiến hành biện pháp

điều chỉnh nào đó bởi vì nếu không dự trữ ngoại hối sẽ cạn kiệt để bảo vệ tỷ giá.

- Về đặc quyền phát hành USD: Vai trò độc tôn của USD bao hàm ý rằng, nước Mỹ là

người cung cấp nguồn thanh khoản quốc tế chủ yếu dưới chế độ Bretton Woods. Để có

được nguồn dự trữ quốc tế, phần thế giới còn lại (không phải Mỹ) phải duy trì BOP luôn

ở trạng thái thặng dư, trong khi đó Mỹ phải duy trì một BOP luôn thâm hụt. Điều này có

nghĩa là phần còn lại của thế giới phải tiêu dùng ít hơn những gì mà chính nó sản xuất ra,

trong khi đó nước Mỹ có đặc quyền là có thể tiêu dùng nhiều hơn những gì mà chính

nước Mỹ sản xuất ra.

 

22