444
HỎI VÀ ĐÁP MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN HỎI VÀ ĐÁP MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN (Dành cho sinh viên đại học, cao đẳng khối không chuyên ngành Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh) Đồng chủ biên: TS. LÊ MINH NGHĨA - TS. PHẠM VĂN SINH CHÚ DẪN CỦA NHÀ XUẤT BẢN Nhằm đáp ứng yêu cầu nghiên cứu, giảng dạy và học tập bộ môn “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản cuốn sách Hỏi và đáp môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin (Dành cho sinh viên đại học, cao đẳng khối không chuyên ngành Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh) do TS. Lê Minh Nghĩa và TS. Phạm Văn Sinh đồng chủ biên. Các câu hỏi và câu trả lời được sắp xếp theo nội dung, trình tự phù hợp với chương trình môn học, đảm bảo tính cơ bản, hệ thống, cô đọng. Lần đầu tiên biên soạn sách hỏi đáp môn học theo giáo trình mới chắc chắn khó tránh khỏi những thiếu sót, Nhà xuất bản và tập thể tác giả rất mong nhận được ý kiến

HỎI VÀ ĐÁP MÔN - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/...Lenin.docx  · Web view... Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam;

Embed Size (px)

Citation preview

HỎI VÀ ĐÁP MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN

HỎI VÀ ĐÁP MÔNNHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN

(Dành cho sinh viên đại học, cao đẳng khối không chuyên ngành Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh)

Đồng chủ biên:

TS. LÊ MINH NGHĨA - TS. PHẠM VĂN SINH

CHÚ DẪN CỦA NHÀ XUẤT BẢN

Nhằm đáp ứng yêu cầu nghiên cứu, giảng dạy và học tập bộ môn

“Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin”, Nhà xuất bản Chính trị

quốc gia xuất bản cuốn sách Hỏi và đáp môn Những nguyên lý cơ bản của

chủ nghĩa Mác - Lênin (Dành cho sinh viên đại học, cao đẳng khối không

chuyên ngành Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh) do TS. Lê Minh Nghĩa và

TS. Phạm Văn Sinh đồng chủ biên.

Các câu hỏi và câu trả lời được sắp xếp theo nội dung, trình tự phù hợp

với chương trình môn học, đảm bảo tính cơ bản, hệ thống, cô đọng.

Lần đầu tiên biên soạn sách hỏi đáp môn học theo giáo trình mới chắc

chắn khó tránh khỏi những thiếu sót, Nhà xuất bản và tập thể tác giả rất mong

nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để lần xuất bản sau sách được hoàn

chỉnh hơn.

Xin giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.

Tháng 6 năm 2010

NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA

Phần mở đầu. NHẬP MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN

Câu hỏi 1: Chủ nghĩa Mác - Lênin là gì? Chủ nghĩa Mác - Lênin được

cấu thành từ những bộ phận lý luận cơ bản nào? Chức năng và mối quan hệ

cơ bản của mỗi bộ phận đó trong chủ nghĩa Mác - Lênin?

Trả lời:

- Khái niệm “Chủ nghĩa Mác - Lênin”

Chủ nghĩa Mác - Lênin là:

+ Hệ thống quan điểm và học thuyết khoa học về sự nghiệp giải phóng

giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức, bóc lột,

tiến tới thực hiện sự nghiệp giải phóng con người.

(Lưu ý: đây là xét từ góc độ đối tượng của nó).

+ Hệ thống quan điểm và học thuyết đó được sáng lập bởi C.Mác,

Ph.Ăngghen và sự phát triển của V.I.Lênin.

(Lưu ý: đây là xét từ góc độ chủ thể sáng tạo và phát triển nó).

+ Hệ thống quan điểm và học thuyết đó được hình thành và phát triển

trên cơ sở kế thừa những giá trị tư tưởng tiến bộ của nhân loại và tổng kết

thực tiễn thời đại.

(Lưu ý: đây là xét từ góc độ mối quan hệ giữa chủ nghĩa Mác - Lênin

với lịch sử phát triển tư tưởng nhân loại và với thực tiễn).

+ Hệ thống quan điểm và học thuyết đó đóng vai trò là thế giới quan,

phương pháp luận phổ biến cho sự sáng tạo trong nhận thức khoa học

(nghiên cứu phát hiện và sáng tạo ra cái mới) và thực tiễn cách mạng (thực

tiễn cải biến cái cũ, sáng tạo cái mới).

(Lưu ý: đây là xét từ góc độ mối quan hệ của chủ nghĩa Mác - Lênin với

hoạt động nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng nói chung: muốn thực

hiện sự sáng tạo trong hoạt động nhận thức và thực tiễn thì nhất định cần

phải vận dụng thế giới quan, phương pháp luận đó).

- Chủ nghĩa Mác - Lênin có ba bộ phận lý luận cơ bản hợp thành, đó là:

+ Triết học;

+ Kinh tế chính trị học;

+ Chủ nghĩa xã hội khoa học.

- Chức năng và mối quan hệ cơ bản của mỗi bộ phận lý luận trong chủ

nghĩa Mác - Lênin:

+ Triết học là bộ phận lý luận nghiên cứu những quy luật vận động,

phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy; xây dựng thế giới quan

và phương pháp luận chung nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn cách

mạng.

+ Trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận triết học. Kinh tế

chính trị Mác - Lênin nghiên cứu những quy luật kinh tế của xã hội, đặc biệt là

những quy luật kinh tế của quá trình ra đời, phát triển, suy tàn của phương

thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và sự ra đời, phát triển của phương thức sản

xuất mới - phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.

+ Chủ nghĩa xã hội khoa học là kết quả tất nhiên của sự vận dụng thế

giới quan, phương pháp luận triết học và kinh tế chính trị Mác - Lênin vào việc

nghiên cứu làm sáng tỏ những quy luật khách quan của quá trình cách mạng

xã hội chủ nghĩa - bước chuyển biến lịch sử từ chủ nghĩa tư bản lên chủ

nghĩa xã hội và tiến tới chủ nghĩa cộng sản.

Ba bộ phận lý luận cấu thành chủ nghĩa Mác - Lênin có đối tượng

nghiên cứu cụ thể khác nhau nhưng đều nằm trong một hệ thống lý luận khoa

học thống nhất - đó là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải

phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức, bóc lột và tiến tới giải phóng

con người.

Câu hỏi 2: Chủ nghĩa Mác ra đời, phát triển trên cơ sở những điều

kiện, tiền đề cơ bản nào? Hãy nêu khái quát các điều kiện, tiền đề đó?

Trả lời:

Chủ nghĩa Mác ra đời, phát triển trên cơ sở ba điều kiện, tiền đề cơ bản

sau đây:

- Điều kiện kinh tế - xã hội

Cho đến giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã được thiết lập và đã đạt

được sự phát triển mạnh mẽ của nó ở các nước Tây Âu, đặc biệt là tại các

nước Anh, Pháp. Sự phát triển đó, một mặt đã tạo ra được những thành tựu

to lớn về nhiều mặt kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, mặt trái của nó là đã tự tạo ra

những mâu thuẫn không thể giải quyết được trong phạm vi chế độ tư bản chủ

nghĩa. Trung tâm của những mâu thuẫn đó được biểu hiện về mặt xã hội là

mâu thuẫn gay gắt giữa hai giai cấp: giai cấp tư sản (chủ sở hữu tư liệu sản

xuất của xã hội) và giai cấp vô sản (giai cấp công nhân làm thuê). Mâu thuẫn

đó được bộc lộ thành những cuộc đấu tranh ngày càng phát triển của giai cấp

công nhân tại nhiều nưốc tư bản, đặc biệt là những cuộc đấu tranh của giai

cấp công nhân làm thuê tại các nước Anh, Pháp và Đức. Sự phát triển của

các cuộc đấu tranh đó làm phát sinh nhu cầu cần có một lý luận cách mạng

và khoa học của nó. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác là nhằm đáp ứng nhu cầu

này. Đồng thời chính thực tiễn phát triển của nó lại là một trong những điều

kiện thực tiễn cho sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa Mác.

- Tiền đề lý luận

Chủ nghĩa Mác ra đời không chỉ xuất phát từ nhu cầu khách quan của

lịch sử mà còn là kết quả của sự kế thừa tinh hoa di sản lý luận của nhân loại,

trong đó trực tiếp nhất là triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị cổ điển Anh và

chủ nghĩa xã hội không tưởng ở các nước Pháp và Anh.

+ Với Triết học cổ điển Đức, đặc biệt là triết học của Ph.Hêghen và

L.Phoiơbắc đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành thế giới quan và

phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác.

Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã kế thừa những nội dung cơ bản

trong phép biện chứng của Hêghen, chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc. Đồng

thời, các ông cũng khắc phục những hạn chế cơ bản của hai học thuyết ấy;

đó là thế giới quan duy tâm trong triết học Hêghen và phương pháp siêu hình

trong triết học của Phoiơbắc. Trên cơ sở đó các ông đã sáng lập ra một thế

giới quan triết học mới là: chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng

duy vật. Nhờ thế giới quan mới này các ông đã vận dụng nó vào việc nghiên

cứu một cách khoa học những quy luật chung nhất của sự phát triển xã hội,

đặc biệt là nghiên cứu những quy luật ra đời, phát triển, suy tàn của chủ

nghĩa tư bản và sự ra đời tất yếu của chủ nghĩa xã hội.

+ Với Kinh tế chính trị cổ điển Anh, đặc biệt là với các học thuyết của

những đại biểu lớn của nó (A.Xmít và Đ.Ricácđô), C.Mác và Ph.Ăngghen kế

thừa những quan điểm hợp lý khoa học của những học thuyết này. Đó là:

quan diểm duy vật trong nghiên cứu lĩnh vực khoa học kinh tế chính trị và học

thuyết giá trị về lao động. Đồng thời các ông cũng phê phán và khắc phục tính

chất chưa triệt để trong học thuyết giá trị về lao động và phương pháp siêu

hình trong nghiên cứu của các nhà kinh tế học cổ điển Anh. Trên cơ sở đó

các ông đã xây dựng thành công học thuyết vê giá trị lao động và học thuyết

giá trị thặng dư.

+ Với Chủ nghĩa xã hội không tưởng ở nước Anh và Pháp, đặc biệt là

với những đại biểu lớn của nó là H.Xanh Ximông, S.Phuriê và R.Ôoen, C.Mác

và Ph.Ăngghen đã kế thừa những tư tưởng nhân đạo và những sự phê phán

hợp lý của các nhà tư tưởng này đối với những hạn chế của chủ nghĩa tư

bản. Đồng thời, các ông cũng khắc phục và vượt qua những hạn chế trong

học thuyết của họ. Đó là tính chât không tưởng trong các học thuyết ấy. Từ

đó các ông xây dựng nên một lý luận mới - lý luận khoa học về chủ nghĩa xã

hội.

- Tiền đề khoa học tự nhiên

Cho đến những năm giữa thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên đã có những

bước phát triển mới, đem lại một số quan niệm mới mẻ về giới tự nhiên so với

trước đó. Tiêu biểu cho những quan niệm mới này là: khẳng định tính chất

bảo toàn năng lượng trong quá trình biến đổi của vật chất trong giới tự nhiên;

khẳng định tính thống nhất về cơ sở vật chất của mọi sự sống là tế bào;

khẳng định tính tất yếu khách quan của quá trình phát triển các loài sinh vật

trên trái đất. Những quan niệm mới này đóng vai trò là những bằng chứng xác

thực (ở tầm khoa học) của các quan điểm duy vật biện chứng về giới tự

nhiên.

Câu hỏi 3: Chủ nghĩa Mác hình thành và phát triển qua các giai đoạn

lớn (thời kỳ chính yếu) nào?

Trả lời:

Chủ nghĩa Mác với tư cách là “hệ thống quan điểm và học thuyết” được

hình thành và phát triển qua 3 giai đoạn lớn:

- Giai đoạn lớn thứ nhất: là giai đoạn hình thành và phát triển do C.Mác

và Ph.Ăngghen thực hiện (diễn ra vào những năm thuộc nửa sau của thế kỷ

XIX)

Giai đoạn này được bắt đầu từ những năm 1842-1843 đến những năm

1847-1848 là những năm các ông thực hiện sự phê phán đối với các lý luận

cũ (Triết học cổ điển Đức, Kinh tế chính trị học cổ điển Anh, Chủ nghĩa xã hội

không tưởng Pháp) và xây dựng hệ thống quan điểm mới của mình.

Tiếp đến, từ năm 1849 đến năm 1895 là quá trình các ông phát triển

sâu sắc hơn, hoàn thiện hơn các quan điểm mới của mình. Trong giai đoạn

này, trên cơ sở thực tiễn của thời đại, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nghiên cứu

tư tưởng của nhân loại trên nhiều lĩnh vực từ cổ đại cho đến xã hội đương

thời để từng bước củng cố, bổ sung và hoàn thiện quan điểm của mình.

- Giai đoạn lớn thứ hai (những năm đầu thế kỷ XX): là giai đoạn bảo vệ

và phát triển chủ nghĩa Mác do V.I.Lênin thực hiện.

Vào cuối thế kỷ XIX và đặc biệt là vào những năm đầu thế kỷ XX, tình

hình thế giới có nhiều biến đổi mới. Những biến đổi mới đó đã đặt ra nhu cầu

phải bảo vệ và tiếp tục phát triển hệ thống quan điểm và học thuyết của

C.Mác và Ph.Ănghen, đồng thời vận dụng nó vào việc giải quyết nhiều vấn đề

mới của thời đại. Người có công lớn nhất trong quá trình bảo vệ và phát triển

này là V.I.Lênin.

Quá trình V.I.Lênin bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác có thể chia

thành ba thời kỳ, tương ứng với ba nhu cầu cơ bản khác nhau của thực tiễn,

đó là:

+ Thời kỳ từ năm 1893 đến năm 1907 là thời kỳ V.I.Lênin nghiên cứu

chủ nghĩa Mác và đứng vững trên lập trưòng khoa học để bảo vệ những quan

điểm của chủ nghĩa Mác, phê phán những sai lầm trong việc nghiên cứu, vận

dụng chủ nghĩa Mác ở nước Nga.

+ Thời kỳ từ năm 1907 đến năm 1917 là thời kỳ V.I.Lênin tiếp tục

nghiên cứu các quan điểm khoa học của chủ nghĩa Mác và phát triển các

quan điểm đó bằng việc tổng kết các thành tựu mới trong lĩnh vực phát triển

khoa học tự nhiên; đồng thời vận dụng những quan điểm khoa học của chủ

nghĩa Mác để phân tích những biến động mới trong thực tiễn phát triển của

chủ nghĩa tư bản và thực tiễn cách mạng ở nước Nga cũng như trên phạm vi

quốc tế. Trong quá trình này Lênin đã có nhiều đóng góp quan trọng vào việc

phát triển chủ nghĩa Mác.

+ Thời kỳ từ sau khi Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga

thành công (năm 1917) đến khi V.I.Lênin từ trần (năm 1924) là thời kỳ

V.I.Lênin tiếp tục vận dụng chủ nghĩa Mác vào chỉ đạo công cuộc xây dựng xã

hội mới xã hội chủ nghĩa ở nước Nga. Quá trình vận dụng đó cũng chính là

quá trình tiếp tục bảo vệ, bổ sung, hoàn thiện, phát triển chủ nghĩa Mác.

- Giai đoạn lớn thứ ba là giai đoạn từ sau khi Lênin mất đến nay là giai

đoạn các Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế tiếp tục nghiên cứu, bảo vệ,

hoàn thiện và phát triển nhiều nội dung của chủ nghĩa Mác - Lênin cho phù

hợp với sự vận dụng nó trong thực tiễn cách mạng ở từng quốc gia, từng thời

kỳ cách mạng.

Câu hỏi 4: Chủ nghĩa Mác - Lênin giữ vai trò gì đối với sự nghiệp cách

mạng ở nước ta trong giai đoạn hiện nay? Sinh viên học tập những nguyên lý

cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin để làm gì và cần học tập như thế nào?

Trả lời:

- Chủ nghĩa Mác - Lênin cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò là

nền tảng tư tưởng khoa học của toàn bộ quá trình cách mạng Việt Nam.

Trong giai đoạn hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định: “phải

kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ

nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”; phải “Vận dụng và phát triển

sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động của

Đảng. Thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận, giải quyết

đúng đắn những vấn đề do cuộc sống đặt ra”.

- Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin là những quan

điểm cơ bản, nền tảng và có tính chân lý khoa học bền vững của chủ nghĩa

Mác - Lênin. Bởi vậy, sinh viên các trường đại học, cao đẳng học tập những

nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin là để:

+ Hiểu rõ cơ sở lý luận quan trọng nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh và

đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam; nhận thức sâu sắc các

quan điểm, đường lối cách mạng của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà

nước ta từ cơ sở nền tảng tư tưởng của nó là những nguyên lý cơ bản của

chủ nghĩa Mác - Lênin được vận dụng sáng tạo vào thực tiễn Việt Nam.

+ Xây dựng thế giới quan, phương pháp luận khoa học, nhân sinh quan

cách mạng, xây dựng niềm tin và lý tưởng cách mạng; vận dụng sáng tạo nó

trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, trong rèn luyện và tu dưỡng đạo đức,

đáp ứng yêu cầu của con người Việt Nam trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và

xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

- Cần học tập chủ nghĩa Mác - Lênin thế nào?

Quá trình học tập, nghiên cứu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa

Mác - Lênin cần thực hiện được một số yêu cầu cơ bản sau đây:

Thứ nhất, phải hiểu đúng tinh thần, thực chất của nó; chống xu hướng

kinh viện, giáo điều.

Thứ hai, phải đặt chúng trong mối liên hệ với các luận điểm khác, ở các

bộ phận cấu thành khác để thấy sự thống nhất trong tính đa dạng và nhất

quán của mỗi tư tưởng nói riêng, của toàn bộ chủ nghĩa Mác - Lênin nói

chung.

Thứ ba, phải gắn nó với đời sống thực tiễn, đặc biệt là với thực tiễn

cách mạng Việt Nam trước đây và hiện nay.

Thứ tư, phải là quá trình giáo dục, tự giáo dục, tu dưỡng và rèn luyện

để từng bước hoàn thiện mình trong đời sống cá nhân cũng như trong đời

sống cộng đồng xã hội.

Thứ năm, phải là quá trình tổng kết, đúc kết kinh nghiệm để góp phần

phát triển tính khoa học và tính nhân văn vốn có của nó. Mặt khác việc học

tập, nghiên cứu các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng cần

phải đặt nó trong lịch sử phát triển tư tưởng nhân loại bởi nó là sự kế thừa và

phát triển những tinh hoa của lịch sử đó trong những điểu kiện lịch sử mới.

Một số yêu cầu trên thống nhất hữu cơ với nhau, giúp cho quá trình học

tập, nghiên cứu không chỉ kế thừa được tinh hoa của chủ nghĩa Mác-Lênin

mà quan trọng hơn, nó giúp người học, nghiên cứu vận dụng được tinh hoa

ấy trong các hoạt động nhận thức và thực tiễn.

Phần 1. THẾ GIỚI QUAN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN TRIẾT HỌC CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN

CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG

Câu hỏi 5: Triết học là gì? vấn đề cơ bản lớn của triết học là vấn đề

nào? Vị trí của vấn đề đó đối với sự phân định các trường phái triết học chính

trong lịch sử?

Trả lời:

- Triết học là hệ thống quan điểm lý luận chung nhất của con người về

thế giới; về tự nhiên xã hội và tư duy; về vị trí, vai trò của con người trong thế

giới đó.

- Theo Ph. Ăngghen: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là

triết học hiện đại, là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại”. Tóm tắt: đó là vấn đề

về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Nội dung chính của vấn đề này là

phải trả lời 2 câu hỏi lớn: thứ nhất, giữa vật chất và ý thức: cái nào có trước,

cái nào có sau? cái nào quyết định cái nào? cái gì là bản chất của mọi tồn tại

trong thế giới? (vật chất hay ý thức?); và thứ hai, con người có khả năng

nhận thức được (hiểu được) thế giới đúng như nó tồn tại hay không?

- Trong lịch sử tư tưởng triết học của nhân loại từ thời cổ đại đến nay

đã có những lời giải đáp khác nhau và đối lập nhau đối với hai câu hỏi đó.

Đây là xuất phát điểm của sự khác biệt và đối lập giữa các trường phái triết

học lớn trong lịch sử: chủ nghĩa nhất nguyên (bao gồm: chủ nghĩa duy vật,

chủ nghĩa duy tâm) và chủ nghĩa nhị nguyên; thuyết có thể biết, thuyết không

thể biết và thuyết hoài nghi.

Câu hỏi 6: Chủ nghĩa duy vật là gì? Nó có những hình thức - trình độ

phát triển nào? Vì sao nói chủ nghĩa duy vật biện chứng do C.Mác và

Ph.Ăngghen sáng lập là hình thức - trình độ phát triển cao nhất của chủ nghĩa

duy vật trong lịch sử?

Trả lời:

- Chủ nghĩa duy vật là một trong những trường phái triết học lớn trong

lịch sử, bao gồm trong đó toàn bộ các học thuyết triết học được xây dựng trên

lập trường duy vật trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học: vật chất

là tính thứ nhất, ý thức hay tinh thần chỉ là tính thứ hai của mọi tồn tại trong

thế giới; cũng tức là thừa nhận và minh chứng rằng: suy đến cùng, bản chất

và cơ sở của mọi tồn tại trong thế giới tự nhiên và xã hội chính là vật chất.

- Trong lịch sử triết học, chủ nghĩa duy vật đã phát triển qua ba hình

thức - trình độ cơ bản, đó là:

+ Chủ nghĩa duy vật chất phác với hình thức điển hình của nó là các

học thuyết triết học duy vật thời cổ ở Ấn Độ, Trung Quốc và Hy Lạp.

+ Chủ nghĩa duy vật siêu hình với hình thức điển hình của nó là các học

thuyết triết học duy vật thời cận đại (thế kỷ XVII-XVIII) ở các nước Tây Âu

(tiêu biểu là chủ nghĩa duy vật cận đại nước Anh và Pháp).

+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập từ

giữa thế kỷ XIX.

- Chủ nghĩa duy vật biện chứng do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập là

hình thức - trình độ phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật trong lịch sử

triết học, vì:

+ Một là, nó không chỉ đứng trên lập trường duy vật trong việc lý giải

các tồn tại trong giói tự nhiên (như chủ nghĩa duy vật siêu hình trước đây) mà

còn đứng trên lập trường duy vật trong việc giải thích các hiện tượng, quá

trình diễn ra trong đời sống xã hội loài người - đó chính là những quan điểm

duy vật về lịch sử hay chủ nghĩa duy vật lịch sử.

- Hai là, nó không chỉ đứng trên lập trường duy vật trong quá trình định

hướng nhận thức và cải tạo thế giới mà còn sử dụng phương pháp biện

chứng trong quá trình ấy. Từ đó tạo nên sự đúng đắn, khoa học trong việc lý

giải thế giới và cải tạo thế giới.

- Ba là, nội dung của chủ nghĩa duy vật biện chứng xây dựng trên cơ

sở kế thừa những tinh hoa của lịch sử triết học và trên cơ sở tổng kết những

thành tựu lớn khoa học, của thực tiễn trong thời đại mới; nó trở thành giới

quan và phương pháp luận khoa học của giai cấp cách mạng và của các lực

lượng tiến bộ trong thời nay.

Câu hỏi 7: Phạm trù (khái niệm) “vật chất” giữ vai trò gì đối với chủ

nghĩa duy vật? Các nhà triết học duy vật trước Mác đã có quan niệm thế nào

về “vật chất”? Nêu ưu điểm và hạn chế lịch sử của những quan niệm đó?

Trả lời:

- Phạm trù “vật chất” giữ vai trò là phạm trù cơ bản và nền tảng của chủ

nghĩa duy vật (nói chung) và chủ nghĩa duy vật biện chứng (nói riêng). Bởi vì:

chủ nghĩa duy vật (dù là chủ nghĩa duy vật nào) cũng đều được xây dựng trên

cơ sở quan điểm: vật chất là tính thứ nhất; bản chất và cơ sở của mọi tồn tại,

suy đến cùng chính là vật chất chứ không phải là ý thức hay tinh thần. Bởi

vậy, quan niệm về vật chất có đúng đắn và khoa học hay không đóng vai trò

là cơ sở đầu tiên quyết định việc giải quyết có đúng đắn và khoa học hay

không đối với các vấn đề khác có liên quan.

- Quan niệm về vật chất của các nhà triết học duy vật trước Mác:

“Vật chất” thường được hiểu là một hoặc một số chất hay yếu tố khách

quan, tự có trong giới tự nhiên, đóng vai trò là cơ sở ban đầu (bản nguyên,

bản căn) sản sinh ra và cấu tạo nên mọi tồn tại trong thế giới. Bởi vậy,

phương pháp luận chung của các nhà duy vật này là: muốn hiểu được đúng

đắn thế giới thì cần phải nghiên cứu để hiểu được đúng cấu tạo vật chất đầu

tiên đó. Những quan niệm như vậy có thể nhận thấy rõ khi nghiên cứu nội

dung các học thuyết duy vật thời cổ ở Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp (Đạo

gia, thuyết Âm Dương - Ngũ Hành ở Trung Quốc; trường phái Lokayata ở Ấn

Độ; trường phái nguyên tử luận ở Hy Lạp) hoặc các học thuyết triết học duy

vật thời cận đại ở các nước Anh, Pháp, Đức (triết học của Ph.Bêcơn, triết học

tự nhiên của R.Đềcáctơ, triết học tự nhiên của I.Kantơ,...).

- Ưu điểm và hạn chế của những quan niệm đó:

+ Ưu điểm: với quan niệm về vật chất như đã nói ở trên, các nhà duy

vật trước Mác đã xác lập phương pháp luận tích cực cho sự phát triển nhận

thức một cách khoa học về thế giới, đặc biệt là trong việc giải thích về cấu tạo

vật chất khách quan của các hiện tượng tự nhiên, làm tiền đề cho việc giải

quyết đúng đắn nhiều vấn đề trong việc ứng xử tích cực giữa con người và

giới tự nhiên, vì sự sinh tồn và phát triển của con người.

+ Hạn chế lịch sử: một mặt, quan niệm về vật chất của các nhà duy vật

trước Mác chưa bao quát được mọi tồn tại vật chất trong thế giới, mặt khác

quan niệm này chủ yếu mới chỉ được tiếp cận từ giác độ cấu tạo bản thể vật

chất của các sự vật, hiện tượng trong thế giới, giác độ nhận thức luận chưa

được nghiên cứu đầy đủ; tức là chưa giải được triệt để phạm trù vật chất từ

góc độ giải quyết được mặt vấn đề cơ bản của triết học. Những hạn chế này

được khắc phục trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật biện

chứng.

Câu hỏi 8: Phát biểu định nghĩa của V.I.Lênin về vật chất. Hãy phân

tích nội dung cơ bản và ý nghĩa của định nghĩa đó?

Trả lời:

- Quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng được thể

hiện tập trung, cô đọng ở định nghĩa về vật chất do V.I.Lênin viết trong tác

phẩm “Sáng kiến vĩ đại”: “Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại

khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của

chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác".

- Theo định nghĩa của V.I. Lênin về vật chất:

+ Thứ nhất, cần phân biệt khái niệm “vật chất” với tư cách là phạm trù

triết học (tức phạm trù khái quát thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của

mọi tồn tại vật chất và được xác định từ góc độ giải quyết vấn đề cơ bản của

triết học) với khái niệm “vật chất” được sử dụng trong các khoa học chuyên

ngành (tức khái niệm dùng để chỉ những dạng vật chất cụ thể, cảm tính;

những biểu hiện cụ thể của thế giới vật chất tự nhiên hay xã hội).

+ Thứ hai, thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi tồn tại vật

chất được khái quát trong phạm trù vật chất của chủ nghĩa duy vật biện

chứng là thuộc tính tồn tại khách quan (thực tại khách quan), tức là thuộc tính

tồn tại ngoài ý thức, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức của con người cho

dù con người có nhận thức được hay không nhận thức được nó.

+ Thứ ba, vật chất (dưới hình thức tồn tại cụ thể của nó) là cái có thể

gây nên cảm giác ở con người khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác

quan của con người; ý thức của con người là sự phản ánh đối với vật chất,

còn vật chất là cái được ý thức phản ánh.

- Định nghĩa của V.I.Lênin về vật chất có ý nghĩa quan trọng đối với sự

phát triển của chủ nghĩa duy vật và nhận thức khoa học:

+ Một là, bằng việc tìm ra thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của vật

chất là thuộc tính tồn tại khách quan, V.I.Lênin đã phân biệt sự khác nhau cơ

bản giữa khái niệm vật chất với tư cách là phạm trù triết học với khái niệm vật

chất với tư cách là phạm trù của các khoa học chuyên ngành (vật lý học, hóa

học, sinh vật học,...) từ đó khắc phục được hạn chế trong quan niệm về vật

chất của chủ nghĩa duy vật cũ; cung cấp căn cứ nhận thức khoa học để xác

định những gì thuộc về vật chất; tạo lập cơ sở lý luận cho việc xây dựng quan

điểm duy vật về lịch sử, khắc phục được những hạn chế duy tâm trong quan

niệm về xã hội.

+ Hai là, khi khẳng định vật chất là “thực tại khách quan”, “được đem lại

cho con người trong cảm giác” và “được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp

lại, phản ánh”, V.I.Lênin không những đã khẳng định tính thứ nhất của vật

chất, tính thứ hai của ý thức theo quan điểm duy vật mà còn khẳng định khả

năng con người có thể nhận thức được thực tại khách quan thông qua sự

“chép lại, chụp lại, phản ánh” của con người đối với thực tại khách quan.

Câu hỏi 9: Hãy trình bày các nội dung cơ bản của quan niệm duy vật

biện chứng về vận động của vật chất và không gian, thời gian của vật chất?

Trả lời:

- Các nội dung cơ bản của quan niệm duy vật biện chứng về vận động

của vật chất

+ Khái niệm vận động:

Theo Ph.Ăngghen: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được

hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật

chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ,

kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”.

+ Các hình thức vận động cơ bản của vật chất đã được nghiên cứu,

khám phá bởi khoa học.

Tổng kết các thành tựu khoa học nghiên cứu về tự nhiên và xã hội,

Ph.Ănghen đã khái quát 5 hình thức vận động cơ bản của vật chất:

Vận động cơ giới, đó là hình thức vận động đơn giản nhất, bao gồm

những sự biến đổi về vị trí của các vật thể trong không gian. Nó là đối tượng

nghiên cứu của cơ học.

Vận động vật lý, đó là những sự biến đổi của nhiệt, điện, từ trường, các

hạt cơ bản,... Nó là đối tượng nghiên cứu của vật lý học.

Vận động hoá, đó là những sự biến đổi của các chất vô cơ, hữu cơ

trong các quá trình phản ứng hoá hợp và phân giải của chúng,

Vận động sinh vật, đó là các quá trình biến đổi của các chất đặc trưng

cho sự sống: sự lớn lên của các cơ thể sống nhờ quá trình không ngừng trao

đổi chất của cơ thể sống và môi trường, sự biến đổi của cấu trúc gen, sự phát

sinh các giống loài mới trong quá trình phát triển của chúng,... Nó là đối tượng

nghiên cứu của sinh vật học.

Vận động xã hội, đó là tất thảy các quá trình biến đổi của các lĩnh vực

kinh tế, chính trị, đạo đức,... của đời sống xã hội loài người. Nó là đối tượng

nghiên cứu của các ngành khoa học xã hội, như: kinh tế học, chính trị học,

đạo đức học,...

+ Mối quan hệ biện chứng giữa các hình thức vận động cơ bản của vật

chất:

Hình thức vận động thấp là cơ sở của các hình thức vận động cao hơn;

giữa các hình thức vận động có mối liên hệ chi phối, ảnh hưởng lẫn nhau và

chuyển hoá, từ đó làm xuất hiện các hình thức vận động trung gian - đó là cơ

sở khách quan làm xuất hiện những sự nghiên cứu có tính chất liên ngành

khoa học; mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình khách quan có thể bao gồm trong

nó nhiều hình thức vận động cùng tồn tại, chi phối ảnh hưởng lẫn nhau,

nhưng thường có hình thức vận động đặc trưng của nó.

+ Mối quan hệ giữa vật chất và vận động:

Theo quan điểm duy vật biện chứng: vận động là một phương thức tồn

tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất. Theo quan niệm đó,

không thể có vật chất không vận động cũng như không thể có sự vận động

nào tồn tại trừu tượng ngoài mỗi tồn tại vật chất xác định. Mỗi sự vận động

bao giờ cũng là sự vận động của một tồn tại vật chất xác định. Như vậy cũng

có thể nói, vận động là một thuộc tính vốn có (cố hữu) của vật; nó là thuộc

tính khách quan và phổ biến của mọi tồn tại vật chất.

+ Mối quan hệ giữa vận động và đứng im:

Vận động là tuyệt đối, là vĩnh viễn. Điều này không có nghĩa là chủ

nghĩa duy vật biện chứng phủ nhận sự đứng im, cân bằng; nhưng đứng im,

cân bằng chỉ là hiện tượng tương đối, tạm thời và thực chất đứng im, cân

bằng chỉ là một trạng thái đặc biệt của vận động.

Đứng im là tương đối, tạm thời vì đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong

một số quan hệ nhất định chứ không xảy ra với tất cả mọi quan hệ; đứng im,

cân bằng chỉ xảy ra trong một hình thức vận động chứ không phải xảy ra với

tất cả các hình thức vận động; đứng im không phải là cái tồn tại vĩnh viễn mà

chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định, chỉ là xét trong một hay một số quan

hệ nhất định, ngay trong sự đứng im vẫn diễn ra những quá trình biến đổi

nhất định.

Đứng im là trạng thái đặc biệt của vận động, đó là vận động trong thế

cân bằng, ổn định; vận động chưa làm thay đổi cơ bản về chất, về vị trí, hình

dáng, kết cấu của sự vật.

- Các nội dung cơ bản của quan niệm duy vật biện chứng về không

gian và thời gian của vật chất

+ Khái niệm không gian và thời gian:

Mọi dạng cụ thể của vật chất đều tồn tại ở một vị trí nhất định, có một

quảng tính (chiều cao, chiều rộng, chiều dài) nhất định và tồn tại trong các

mối tương quan nhất định (trước hay sau, trên hay dưới, bên phải hay bên

trái, v.v.) với những dạng vật chất khác. Những hình thức tồn tại như vậy

được gọi là không gian. Mặt khác, sự tồn tại của sự vật còn được thể hiện ở

quá trình biến đổi: nhanh hay chậm, kế tiếp và chuyên hoá, v.v.. Những hình

thức tồn tại như vậy được gọi là thời gian.

+ Mối quan hệ giữa không gian, thời gian và vật chất vận động:

Ph.Ăngghen viết: “Các hình thức cơ bản của mọi tồn tại là không gian

và thời gian; tồn tại ngoài thời gian thì cũng hết sức vô lý như tồn tại ngoài

không gian”. Như vậy, vật chất, không gian, thời gian không tách rời nhau;

không có vật chất tồn tại ngoài không gian và thời gian; cũng không có không

gian, thời gian tồn tại ở ngoài vật chất đang vận động.

Câu hỏi 10: Hãy trình bày khái quát nội dung cơ bản của quan niệm

duy vật biện chứng về tính thống nhất vật chất của thế giới?

Trả lời:

Theo quan điểm duy vật biện chứng, bản chất của thế giới là vật chất,

thế giới thống nhất ở tính vật chất của nó. Quan điểm đó bao hàm những nội

dung cơ bản sau đây:

Một là, chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất; thế giới vật chất

là cái có trước, tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người.

Hai là, thế giới vật chất tồn tại vmh viễn, vô tận, vô hạn, không được

sinh ra và không bị mất đi.

Ba là, mọi tồn tại của thế giới vật chất đều có mối liên hệ khách quan,

thống nhất với nhau, biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật

chất, là những kết cấu vật chất, có nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra và

cùng chịu sự chi phối của những quy luật khách quan phổ biến của thế giới

vật chất. Trong thế giới vật chất không có gì khác ngoài những quá trình vật

chất đang biến đổi và chuyển hoá lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và kết

quả của nhau.

Bản chất vật chất và tính thống nhất vật chất của thế giới là kết luận

được rút ra từ việc khái quát những thành tựu của khoa học, được khoa học

và cuộc sống hiện thực của con người kiểm nghiệm. Nó không chỉ định

hướng cho con người giải thích về tính đa dạng của thế giới mà còn định

hướng cho con người tiếp tục nhận thức về tính đa dạng ấy để thực hiện quá

trình cải tạo hợp quy luật.

Câu hỏi 11: Hãy trình bày khái quát quan điểm duy vật biện chứng về

nguồn gôc của ý thức?

Trả lời:

Theo quan điểm duy vật biện chứng, ý thức có nguồn gốc tự nhiên và

nguồn gốc xã hội.

- Nguồn gốc tự nhiên của ý thức

Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên của ý thức là bộ óc con người

và hoạt động của nó cùng mối quan hệ giữa con người với thế giới khách

quan; trong đó, thế giới khách quan tác động đến bộ óc con người từ đó tạo

ra khả năng hình thành ý thức của con người về thế giới khách quan. Như

vậy, ý thức chính là sự phản ánh của con người về thế giới khách quan.

- Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng

vật chất khác trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Phản ánh

là thuộc tính của tất cả các dạng vật chất song phản ánh được thể hiện dưới

nhiều hình thức: phản ánh vật lý, hoá học; phản ánh sinh học; phản ánh tâm

lý và phản ánh năng động, sáng tạo (tức phản ánh ý thức). Những hình thức

này tương ứng với quá trình tiến hoá của vật chất tự nhiên.

+ Phản ánh vật lý, hoá học là hình thức thấp nhất, đặc trưng cho vật

chất vô sinh. Phản ánh vật lý, hoá học thể hiện qua những biến đổi về cơ, lý,

hoá (thay đổi kết cấu, vị trí, tính chât lý - hoá qua quá trình kết hợp, phân giải

các chất) khi có sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các dạng vật chất vô sinh.

Hình thức phản ánh này mang tính thụ động, chưa có định hướng lựa chọn

của vật nhận tác động.

+ Phản ánh sinh học là hình thức phản ánh cao hơn, đặc trưng cho giới

tự nhiên hữu sinh. Tương ứng với quá trình phát triển của giới tự nhiên hữu

sinh, phản ánh sinh học được thể hiện qua tính kích thích, tính cảm ứng,

phản xạ. Tính kích thích là phản ứng của thực vật và động vật bậc thấp bằng

cách thay đổi chiều hướng sinh trưởng, phát triển, thay đổi màu sắc, thay đổi

cấu trúc, v.v. khi nhận sự tác động trong môi trường sống. Tính cảm ứng là

phản ứng của động vật có hệ thần kinh tạo ra năng lực cảm giác, được thực

hiện trên cơ sở điều khiển của quá trình thần kinh qua cơ chế phản xạ không

điều kiện, khi có sự tác động từ bên ngoài môi trường lên cơ thể sống.

+ Phản ánh tâm lý là sự phản ánh đặc trưng cho động vật đã phát triển

đến trình độ có hệ thần kinh trung ương, được thực hiện thông qua cơ chế

phản xạ có điều kiện đối với những tác động của môi trường sống.

+ Phản ánh ý thức là hình thức phản ánh năng động, sáng tạo chỉ có ở

con người. Đây là sự phản ánh có tính chủ động lựa chọn thông tin, xử lý

thông tin để tạo ra những thông tin mới, phát hiện ý nghĩa của thông tin.

- Nguồn gốc xã hội của ý thức:

Nhân tố cơ bản nhất và trực tiếp nhất tạo thành nguồn gốc xã hội của ý

thức là lao động và ngôn ngữ.

+ Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ tác động vào giới

tự nhiên nhằm thay đổi giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người;

là quá trình trong đó bản thân con người đóng vai trò môi giới, điều tiết sự

trao đổi vật chất giữa mình với giới tự nhiên. Trong quá trình lao động, con

người tác động vào thế giới khách quan làm thế giới khách quan bộc lộ

những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của nó, biểu hiện

thành những hiện tượng nhất định mà con người có thể quan sát được.

Những hiện tượng ấy, thông qua hoạt động của các giác quan, tác động vào

bộ óc người, thông qua hoạt động của bộ não con người, tạo ra khả năng

hình thành nên những tri thức nói riêng và ý thức nói chung.

Như vậy, sự ra đời của ý thức chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới

khách quan thông qua quá trình lao động.

+ Ngôn ngữ là “cái vỏ vật chất” của ý thức, tức hình thức vật chất nhân

tạo đóng vai trò thể hiện và lưu giữ các nội dung ý thức.

Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động. Lao động ngay từ đầu

đã mang tính tập thể. Mối quan hệ giữa các thành viên trong lao động nảy

sinh ở họ nhu cầu phải có phương tiện để giao tiếp, trao đổi tri thức, tình cảm,

ý chí,... giữa các thành viên trong cộng đồng con người. Nhu cầu này làm cho

ngôn ngữ nảy sinh và phát triển ngay trong quá trình lao động sản xuất cũng

như trong sinh hoạt xã hội. Nhờ có ngôn ngữ, con người không chỉ giao tiếp,

trao đổi trực tiếp mà còn có thể lưu giữ, truyền đạt nội dung ý thức từ thế hệ

này sang thế hệ khác...

Câu hỏi 12: Hãy trình bày khái quát quan điểm duy vật biện chứng về

bản chất của ý thức? Theo quan điểm đó, ý thức có “tự vận động” không?

Trả lời:

- Nhận định khái quát về bản chất của ý thức

Theo quan điểm duy vật biện chứng: ý thức là “hình ảnh chủ quan của

thế giới khách quan” (V.I.Lênin); là “cái vật chất được di chuyển vào bộ óc

con người và được cải biến đi ở trong đó” (C.Mác).

- Các tính chất đặc trưng thể hiện bản chất của ý thức

+ Tính phụ thuộc của ý thức vào vật chất. Ý thức là hiện tượng có thực

trong đời sống con người và xã hội loài người nhưng nó không phải là cái vốn

có sẵn trong giới tự nhiên hay cái vốn có sẵn ở mỗi con ngươi. Sự hình

thành, tồn tại và phát triển của nó đều có nguồn gốc từ hiện thực Khách quan,

thông qua các điều kiện vật chất nhất định; là sự phản ánh của bộ óc con

người về hiện thực khách quan; bộ óc của con người chính là khí quan vật

chất tự nhiên của ý thức.

+ Tính phi cảm giác. Ý thức thuộc về đời sống tinh thần của con người.

Sự tồn tại của nó mang tính chất phi cảm giác. Tính chất đặc biệt này là một

đặc trưng phân biệt sự phản ánh ý thức với sự phản ánh thông tin vật chất (lý,

hoá,...). Do mang đặc tính “tinh thần” như vậy nên trong đời sống hiện thực ý

thức không tự tồn tại mà trái lại, sự tồn tại của nó bao giờ cũng phải được vật

chất hoá dưới các hình thức ngôn ngữ nhất định. Các hình thức ngôn ngữ đó

đóng vai trò là “cái vỏ vật chất” của ý thức. Nhờ được lưu giữ dưới các hình

thức vật chất là ngôn ngữ đó mà ý thức có thể được truyền bá từ người này

sang người khác, thế hệ này qua thế hệ khác thông qua quan hệ giao tiếp xã

hội; nó được tích lũy và không ngừng được kế thừa, phát triển...

+ Tính sáng tạo. Ý thức là sự phản ánh của bộ óc con người đối với

hiện thực khách quan nhưng đó không phải là sự phản ánh giản đơn mà là sự

phản ánh có tính chất năng động sáng tạo. Tính chất năng động sáng tạo đó

được thể hiện ở chỗ: ý thức có khả năng phản ánh được bản chất, quy luật

khách quan, trên cơ sở đó có khả năng sáng tạo ra các mô hình tư tưởng

(trong khoa học, nghệ thuật, tôn giáo,...) làm tiền đề cho những hoạt động

sáng tạo trong thực tiễn theo mục tiêu cải biến hiện thực khách quan.

+ Tính xã hội. Ý thức được sản sinh ra từ sự hoạt động của bộ óc con

người nhưng nó không phải là sản phẩm thuần tuý mang tính chất hoạt động

riêng lẻ của mỗi cá nhân riêng biệt; trái lại, nó có tính xã hội. Tính xã hội của ý

thức được thể hiện từ nguồn gốc hình thành đến phương thức tồn tại, phát

triển của nó.

- Ý thức có “tự vận động” không?

Theo quan điểm duy vật biện chứng, ý thức không ngừng vận động và

phát triển (dù đó là đời sống ý thức của mỗi cá nhân hay ý thức của cộng

đồng xã hội) nhưng xuất phát từ tính chất đặc trưng phụ thuộc của ý thức vào

vật chất, có thể nói: sự vận động của ý thức, dù có tính độc lập tương đối thì

suy đến cùng nó vẫn không thể “tự thân vận động” được. Sự vận động, phát

triển của ý thức, suy đến cùng đều phụ thuộc vào vật chất: sự biến đổi của

thực tại khách quan.

Câu hỏi 13: Hãy trình bày khái quát quan điểm duy vật biện chứng về

kết cấu của ý thức? Theo quan điểm đó, tri thức đóng vai trò gì trong đời sống

tinh thần của con người và trong hoạt động thực tiến của con người?

Trả lời:

- Trình bày khái quát kết cấu của ý thức

Ý thức có kết cấu cực kỳ phức tạp. Có nhiều ngành khoa học, nhiều

cách tiếp cận nghiên cứu về kết cấu của ý thức. Mỗi cách tiếp cận phân tích

kết cấu của ý thức đều góp phần làm sáng tỏ các yếu tố cấu thành ý thức của

con người, đem lại những giá trị quan trọng trong việc phát huy vai trò của ý

thức trong hoạt động của con người và xã hội. Tuy nhiên, dù cách tiếp cận

nào thì cũng đều cho thấy, có 3 yếu tố quan trọng hợp thành đời sống ý thức

của con người, đó là: tri thức, tình cảm và ý chí. Các yếu tố đó hình thành, tồn

tại và phát triển trong mối quan hệ ràng buộc, chi phối, tác động lẫn nhau tạo

nên tính chất phong phú trong sự biểu hiện của chúng: trong mỗi tình cảm

của con người có thể có nhân tố nguồn gốc và sự chi phối của nhân tố tri

thức và ý chí; ngược lại, trong mỗi ý chí lại có thể bao hàm trong đó sự hiểu

biết và tình cảm sâu sắc của con người,...

+ Tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con người về hiện thực khách

quan (trong đó còn có thể bao gồm cả sự hiểu biết của con người về chính

những hiểu biết đó - tức là khi đạt tới sự tự ý thức).

Căn cứ vào lĩnh vực nhận thức, tri thức có thể chia thành nhiều loại

như tri thức về tự nhiên, tri thức về con người và xã hội. Căn cứ vào trình độ

phát triển của nhận thức, tri thức có thể chia thành tri thức đời thường và tri

thức khoa học, tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận, tri thức cảm tính và tri

thức lý tính, v.v..

+ Tình cảm là những rung động biểu hiện thái độ của con người trong

các quan hệ. Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh hiện thực,

được hình thành từ sự khái quát những cảm xúc cụ thể của con người khi

nhận sự tác động của ngoại cảnh. Tình cảm biểu hiện và phát triển trong mọi

lĩnh vực đời sống của con người; là một yếu tố phát huy sức mạnh, một động

lực thúc đẩy hoạt động nhận thức và thực tiễn.

Tùy vào từng đối tượng nhận thức và sự rung động của con người về

đối tượng đó trong các quan hệ mà hình thành nên các loại tình cảm khác

nhau, như: tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ, tình cảm tôn giáo, v.v..

+ Ý chí là sự biểu hiện sức mạnh của bản thân mỗi con người nhằm

vượt qua những cản trở trong quá trình thực hiện mục đích của nó. Ý chí

được coi là mặt năng động của ý thức, một biểu hiện của ý thức trong thực

tiễn mà ở đó con người tự giác được mục đích của hành động nên tự đấu

tranh với mình và ngoại cảnh để thực hiện đến cùng mục đích đã lựa chọn.

Có thể coi ý chí là quyền lực của con người người hướng đến mục đích một

cách tự giác; nó cho phép con người tự kiềm chế, tự làm chủ bản thân và

quyết đoán trong hành động theo quan điểm và niềm tin của mình.

- Quan điểm duy vật biện chứng về vai trò của tri thức

Theo quan điểm duy vật biện chứng, có nhiều nhân tố tạo thành đời

sống ý thức của con người nhưng trong đó tri thức là nhân tố cơ bản và quan

trọng nhất, đóng vai trò là “phương thức tồn tại của ý thức”.

Trong kết cấu ý thức, nhân tố tri thức là nhân tô" chi phối mạnh mẽ các

nhân tố tình cảm, ý chí của con người, của xã hội; là nhân tố thể hiện tiêu

biểu và tập trung các đặc trưng bản chất của ý thức; là nhân tố đặc biệt quan

trọng trong sự phân biệt giữa phản ánh sáng tạo của ý thức với các hình thức

phản ánh khác của vật chất trong giới tự nhiên; là nhân tố cơ bản làm tiền đề

cho những sáng tạo của hoạt động thực tiễn. Vai trò quan trọng của nó ngày

càng thể hiện trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội trong thời đại phát triển

công nghiệp và thị trường các nước trên thế giới.

Câu hỏi 14: Quan điểm duy vật biện chứng đối với vấn đề về mối quan

hệ giữa vật chất và ý thức? Quan điểm đó có gì khác biệt cơ bản với quan

điểm duy tâm và quan điểm duy vật siêu hình về vấn đề này?

Trả lời:

Theo quan điểm duy vật biện chứng: vật chất và ý thức tồn tại trong mối

quan hệ biện chứng với nhau thông qua hoạt động thực tiễn của con người;

trong mối quan hệ đó, vật chất giữ vai trò quyết định đối với ý thức.

Quan điểm đó, một mặt đối lập với quan điểm duy tâm, mặt khác cũng

khác biệt cơ bản với quan điểm siêu hình trong việc giải quyết vấn đề về mối

quan hệ giữa vật chất và ý thức. Theo quan điểm duy tâm, không phải vật

chất quyết định ý thức mà ngược lại; còn quan điểm duy vật siêu hình chỉ

nhấn mạnh một chiều đến vai trò quyết định của ý thức, xem thường vai trò

năng động sáng tạo của ý thức đối với vật chất, đặc biệt là nó không thấy

được vai trò của thực tiễn trong việc phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý

thức.

- Quan điểm duy vật biện chứng về vai trò của vật chất đối với ý thức

Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được phân tích ở các

điểm cơ bản sau đây:

+ Vật chất giữ vai trò là nguồn gốc, cơ sở và điều kiện quyết định quá

trình hình thành, vận động, phát triển của ý thức.

+ Vật chất giữ vai trò quyết định nội dung của ý thức (mọi nội dung của

ý thức, suy đến cùng đều chỉ là sự phản ánh đối với thực tế khách quan).

+ Vật chất giữ vai trò là cơ sở, điều kiện quyết định mọi hoạt động sáng

tạo của ý thức.

+ Vật chất giữ vai trò là điều kiện quyết định quá trình vận dụng ý thức

trong hoạt động thực tiễn cải biến khách quan.

- Quan điểm duy vật biện chứng về vai trò của ý thức đối với vật chất

Trong mối quan hệ với thế giới khách quan, loài người khác căn bản

với loài vật ở chỗ có khả năng làm cải biến môi trường khách quan để tồn tại

và phát triển. Hoạt động làm cải biến đó trực tiếp nhờ vào hoạt động lao động

và các hoạt động thực tiễn khác mà chỉ con người mới có. Hoạt động thực

tiễn đó không phải là hoạt động bản năng như loài vật mà là hoạt động xã hội

và là hoạt động có sự tham gia và chi phối của nhân tố ý thức, đặc biệt là

nhân tố tri thức; nó quyết định sự thành công hay thất bại, quyết định tính hiệu

quả hay không hiệu quả của các hoạt động thực tiễn làm cải biến khách quan.

Vì vậy, vai trò của ý thức đối với vật chất luôn luôn cần được phân tích thông

qua hoạt động thực tiễn. Vai trò đó được thể hiện trên hai điểm cơ bản:

- Từ ý thức đã có được, con người xác định mục tiêu, phương hướng

cho hoạt động thực tiễn.

- Từ ý thức đã có được, con người xây dựng nên phương pháp, mô

hình, kế hoạch tổ chức hoạt động thực tiễn.

Mức độ, phạm vi và hiệu quả tác động của ý thức đối với vật chất phụ

thuộc vào hai điều kiện cơ bản sau:

Một là, mức độ, phạm vi phản ánh đúng đắn của ý thức đối với thực tế

khách quan.

Hai là, mức độ, phạm vi vật chất hoá ý thức trong hoạt động thực tiễn

(sự thâm nhập của một ý thức nào đó trong xã hội, biến thành hoạt động thực

tiễn của cộng đồng, những sáng kiến, giải pháp,... được thừa nhận và áp

dụng trong thực tế sản xuất kinh doanh, v.v.).

Câu hỏi 15: Từ quan điểm duy vật biện chứng về vật chất, ý thức, mối

quan hệ giữa vật chất và ý thức rút ra ý nghĩa phương pháp luận cơ bản?

Trả lời:

Khái quát nội dung ý nghĩa phương pháp luận:

Trên cơ sở quan điểm về bản chất vật chất của thế giới, bản chất năng

động, sáng tạo của ý thức và mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức,

chủ nghĩa duy vật biện chứng xây dựng nguyên tắc phương pháp luận cơ

bản, chung nhất, phổ biến đối với mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn.

Nguyên tắc đó là: trong mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn cần phải luôn

luôn xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan, đồng thời cần

phải phát huy tính năng động chủ quan. Theo nguyên tắc phương pháp luận

này, mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người chỉ có thể đúng

đắn, thành công và có hiệu quả khi và chỉ khi thực hiện đồng thời giữa việc

xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng thực tế khách quan với phát huy

tính năng động chủ quan; phát huy tính năng động chủ quan phải là trên cơ

sở và trong phạm vi điều kiện khách quan, chống chủ quan duy ý chí trong

nhận thức và thực tiễn.

- Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan là xuất phát từ

tính khách quan của vật chất, có thái độ tôn trọng đối với hiện thực khách

quan mà căn bản là tôn trọng quy luật, nhận thức và hành động theo quy luật,

tôn trọng vai trò quyết định của đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần

của con người, của xã hội. Điều đó đòi hỏi trong nhận thức và hành động con

người phải xuất phát từ thực tế khách quan để xác định mục đích, đề ra

đường lối, chủ trương, chính sách, kế hoạch, biện pháp; phải lấy thực tế

khách quan làm cơ sở, phương tiện; phải tìm ra những nhân tố vật chất, tổ

chức những nhân tố ấy thành lực lượng vật chất để hành động.

- Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy vai trò tích cực, năng

động, sáng tạo của ý thức và phát huy vai trò nhân tố con người trong việc vật

chất hóa tính tích cực, năng động, sáng tạo ấy. Điều này đòi hỏi con người

rhải tôn trọng tri thức khoa học; tích cực học tập, nghiên cứu để làm chủ tri

thức khoa học và truyền bá vào quần chúng để trở thành tri thức, niềm tin của

quần chúng, hướng dẫn quần chúng hành động. Mặt khác phải tự giác tu

dưỡng, rèn luyện để hình thành, củng cố nhân sinh quan cách mạng, tình

cảm, nghị lực cách mạng để có sự thống nhất hữu cơ giữa tính khoa học và

tính nhân văn trong định hướng hành động.

Thực hiện nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động

chủ quan trong nhận thức và thực tiễn đòi hỏi phải phòng, chống và khắc

phục bệnh chủ quan duy ý chí; đó là những hành động lấy ý chí áp đặt cho

thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực, lấy ý muốn chủ quan làm chính

sách, lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược, sách lược, v.v.. Đây

cũng phải là quá trình chống chủ nghĩa kinh nghiệm, xem thường tri thức

khoa học, xem thường lý luận, bảo thủ, trì trệ, thụ động, v.v. trong hoạt động

nhận thức và thực tiễn.

PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

Câu hỏi 16: Biện chứng là gì? Phép biện chứng là gì? Có những hình

thức lịch sử nào của phép biện chứng? Có sự đối lập căn bản nào giữa

phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình trong nhận thức?

Trả lời:

- Biện chứng là gì?

+ Khái niệm biện chứng dùng để chỉ những mối liên hệ và sự phát triển

của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.

+ Khái niệm biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan.

Biện chứng khách quan là chỉ biện chứng của các tồn tại vật chất; còn

biện chứng chủ quan là chỉ biện chứng của ý thức.

Có sự đối lập giữa quan điểm duy vật và quan điểm duy tâm trong việc

giải quyết vấn đề về mối quan hệ giữa biện chứng khách quan và biện chứng

chủ quan. Theo quan niệm duy tâm: biện chứng chủ quan là cơ sở của biện

chứng khách quan; còn theo quan điểm duy vật: biện chứng khách quan là cơ

sở của biện chứng chủ quan. Ph.Ăngghen khẳng định: “Biện chứng gọi là

khách quan thì chi phối trong toàn bộ giới tự nhiên, còn biện chứng gọi là chủ

quan, tức tư duy biện chứng, thì chỉ là phản ánh sự chi phối, trong toàn bộ

giới tự nhiên...”.

Sự đối lập nhau trong quan niệm đó là cơ sở phân chia phép biện

chứng thành: phép biện chứng duy tâm và phép biện chứng duy vật.

- Phép biện chứng là gì?

Phép biện chứng là học thuyết về biện chứng của thế giới.

Với tư cách là học thuyết triết học, phép biện chứng khái quát những

mối liên hệ phổ biến và những quy luật chung nhất của mọi quá trình vận

động, phát triển của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy;

từ đó xây dựng các nguyên tắc phương pháp luận chung cho các quá trình

nhận thức và thực tiễn.

- Các hình thức lịch sử của phép biện chứng

Phép biện chứng đã có lịch sử phát triển trên 2.000 năm từ thời cổ đại

phương Đông và phương Tây, với ba hình thức cơ bản (cũng là thể hiện ba

trình độ phát triển của phép biện chứng trong lịch sử triết học):

+ Phép biện chứng chất phác thời cổ đại là hình thức đầu tiên của phép

biện chứng trong lịch sử triết học. Nó là một nội dung cơ bản trong nhiều hệ

thống triết học của Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại. Tiêu biểu cho những

tư tưởng biện chứng của triết học Trung Quốc là “biến dịch luận” (học thuyết

về những nguyên lý, quy luật biến đổi phổ biến trong vũ trụ) và “ngũ hành

luận” (học thuyết về những nguyên tắc tương tác, biến đổi của các tố chất

bản thể trong vũ trụ) của Âm dương gia. Trong triết học Ấn Độ, biểu hiện rõ

nét nhất của tư tưởng biện chứng là triết học của đạo Phật, với các phạm trù

“vô ngã”, “vô thường”, “nhân duyên”... Tiêu biểu cho phép biện chứng của triết

học Hy Lạp cổ đại là những quan điểm biện chứng của Heraclit.

+ Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức được khởi đầu từ những quan

điểm biện chứng trong triết học của I.Kantơ và đạt tới đỉnh cao trong triết học

của Ph.Hêghen. Ph.Hêghen đã nghiên cứu và phát triển các tư tưởng biện

chứng thời cổ đại lên một trình độ mới - trình độ lý luận sâu sắc và có tính hệ

thống chặt chẽ, trong đó trung tâm là học thuyết về sự phát triển. Tuy nhiên,

phép biện chứng trong triết học của Ph.Hêghen là phép biện chứng được xây

dựng trên lập trường duy tâm (duy tâm khách quan) nên hệ thống lý luận này

chưa phản ánh đúng đắn bức tranh hiện thực của các mối liên hệ phổ biến và

sự phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Theo lý luận này, bản thân biện

chứng của các quá trình trong giới tự nhiên và xã hội chỉ là sự tha hoá của

bản chất biện chứng của “ý niệm tuyệt đối”.

+ Phép biện chứng duy vật do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập là hình

thức phát triển cao nhất của phép biện chứng. Nó được xây dựng trên cơ sở

kế thừa những giá trị hợp lý trong lịch sử phép biện chứng, đặc biệt là kế thừa

những giá trị hợp lý và khắc phục những hạn chế trong phép biện chứng của

Ph.Hêghen; đồng thời phát triển phép biện chứng trên cơ sở thực tiễn mới,

nhờ đó làm cho phép biện chứng đạt đến trình độ hoàn bị trên lập trường duy

vật mới.

- Sự đối lập căn bản giữa phương pháp biện chứng và phương pháp

siêu hình trong nhận thức

Sự đối lập căn bản giữa phương pháp biện chứng và phương pháp

siêu hình trong việc nhận thức thế giới là ở chỗ: phương pháp biện chứng là

phương pháp nhận thức sự vật, hiện tượng trong các mối liên hệ phổ biến,

tương tác, chuyển hoá, vận động và phát triển; còn phương pháp siêu hình là

phương pháp nhận thức các sự vật, hiện tượng không trong mối liên hệ,

tương tác, chuyển hoá, vận động và phát triển; nó tuyệt đối hoá tính chất ổn

định, cô lập của các sự vật, hiện tượng. Do đó, phương pháp siêu hình chỉ có

giá trị trong một phạm vi nhất định. Chỉ có phương pháp biện chứng mới có

thể cho phép nhận thức sự vật, hiện tượng đúng như chúng tồn tại trong thực

tế.

Câu hỏi 17: Phép biện chứng duy vật bao gồm những nguyên lý, quy

luật cơ bản nào?

Trả lời:

Với tư cách là khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển của tất

cả mọi sự vật, hiện tượng trong giới tự nhiên, xã hội và tư duy, nội dung cơ

bản của phép biện chứng duy vật bao gồm:

- Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến

Nguyên lý này khái quát những tính chất chung của các mối liên hệ;

nghiên cứu khái quát những mối liên hệ phổ biến nhất của các sự vật, hiện

tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy; đó là các mối liên hệ: cái chung và cái

riêng, tất nhiên và ngẫu nhiên, bản chất và hiện tượng, nguyên nhân và kết

quả, nội dung và hình thức, khả năng và hiện thực.

- Nguyên lý về sự phát triển

Nguyên lý này khái quát những tính chất chung của mọi sự phát triển

của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy, đồng thời cũng

nghiên cứu chỉ ra những quy luật chung nhất của mọi quá trình vận động,

phát triển; đó là các quy luật: những thay đổi về lượng dẫn tới những thay đổi

về chất và ngược lại, quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập và

quy luật phủ định của phủ định. Đó là các quy luật về phương thức, nguồn

gốc, động lực và khuynh hướng cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vận động,

phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy.

Từ việc nghiên cứu những tính chất chung nhất của các mối liên hệ phổ

biến, các quy luật chung nhất của mọi sự vận động, phát triển, phép biện

chứng đã xác lập hệ thống các nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, có tính

phổ biến, giữ vai trò định hướng chung nhất cho quá trình nhận thức và thực

tiễn, đặc biệt là với những sáng tạo trong nhận thức khoa học và thực tiễn

cách mạng.

Câu hỏi 18: Thế nào là mối liên hệ và mối liên hệ phổ biến? Cho ví dụ.

Trả lời:

- Khái niệm mối liên hệ

Trong phép biện chứng, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ: sự quy định,

sự tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng, hay giữa

các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới.

Ví dụ, giữa cung và cầu (hàng hoá, dịch vụ) trên thị trường luôn luôn

diễn ra quá trình: cung và cầu quy định lẫn nhau; cung và cầu tác động, ảnh

hưởng lẫn nhau, chuyển hoá lẫn nhau, từ đó tạo nên quá trình vận động, phát

triển không ngừng của cả cung và cầu. Đó chính là những nội dung cơ bản

khi phân tích về mối quan hệ biện chứng giữa cung và cầu.

- Khái niệm mối liên hệ phổ biến được sử dụng với hai hàm nghĩa:

+ Dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ (ví dụ như: khi khẳng

định rằng mối liên hệ là cái vốn có của tất thảy mọi sự vật hiện tượng trong

thế giới, không loại trừ một sự vật, hiện tượng nào, lĩnh vực nào);

+ Đồng thời, khái niệm này cũng dùng để chỉ: những mối liên hệ tồn tại

(được thể hiện) ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới (tức là dùng để phân

biệt với khái niệm các mối liên hệ đặc thù chỉ biểu hiện ở một hay một số các

sự vật, hiện tượng, hay lĩnh vực nhất định).

Ví dụ, mối liên hệ giữa cung và cầu là mối liên hệ phổ biến, tức cũng là

mối liên hệ chung, nhưng mối liên hệ đó được thể hiện cụ thể khác nhau, có

tính chất đặc thù tùy theo từng loại thị trường hàng hoá, tuỳ theo thời điểm

thực hiện... Khi nghiên cứu cụ thể từng loại thị trường hàng hoá, không thể

không nghiên cứu những tính chất riêng có (đặc thù) đó. Nhưng dù khác nhau

bao nhiêu thì chúng vẫn tuân theo những nguyên tắc chung của mối liên hệ

cung cầu.

Có nhiều cấp độ, phạm vi của mối liên hệ phổ biến, trong đó phép biện

chứng duy vật với tư cách là khoa học triết học có nhiệm vụ nghiên cứu các

mối liên hệ phổ biến nhất, làm tiền đề phương pháp luận chung cho việc

nghiên cứu các mối liên hệ cụ thể trong từng lĩnh vực nghiên cứu của các

khoa học chuyên ngành; đó là các mối liên hệ như: cái chung và cái riêng,

bản chất và hiện tượng, nguyên nhân và kết quả...

Câu hỏi 19: Theo phép biện chứng duy vật, các mối liên hệ có những

tính chất chung nào? Cho ví dụ.

Trả lời:

Theo phép biện chứng duy vật, các mối liên hệ đều có ba tính chất

chung nhất, đó là: tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.

- Thứ nhất, tính khách quan của các mối liên hệ

Theo quan điểm biện chứng duy vật, các mối liên hệ của các sự vật,

hiện tượng của thế giới là có tính khách quan. Theo quan điểm đó, sự quy

định lẫn nhau, tác động lẫn nhau và làm chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật,

hiện tượng (hoặc trong bản thân chúng) là cái vốn có của nó, tồn tại độc lập

không phụ thuộc vào ý chí của con người; con người chỉ có thể nhận thức và

vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình.

Ví dụ, mối liên hệ ràng buộc và tương tác (theo lực hút - đẩy) giữa các

vật thể; mối liên hệ giữa trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường (đồng

hoá - dị hoá); mối liên hệ ràng buộc và ảnh hưởng lẫn nhau giữa cung và cầu

hàng hoá trên thị trường; mối liên hệ tất yếu giữa các khái niệm trong quá

trình tư duy của con người,... đều là những mối liên hệ khách quan, tồn tại

độc lập, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người.

- Thứ hai, tính phổ biến của các mối liên hệ

Theo quan điểm biện chứng thì không có bất cứ sự vật, hiện tượng hay

quá trình nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật, hiện tượng hay quá trình

khác. Đồng thời, cũng không có bất cứ sự vật, hiện tượng nào không phải là

một cấu trúc hệ thống, bao gồm những yếu tố cấu thành với những mối liên

hệ bên trong của nó, tức là bất cứ một tồn tại nào cũng là một hệ thống, hơn

nữa là hệ thống mở, tồn tại trong mối liên hệ với hệ thống khác, tương tác và

làm biến đổi lẫn nhau.

Ví dụ: mỗi cơ thể sống là một hệ thống cấu trúc tạo nên khả năng tự

trao đổi chất với môi trường, nhờ đó mà nó tồn tại, phát triển; đồng thời bản

thân môi trường sống cũng là một hệ thống được tạo thành từ nhiều yếu tố

lớp, phân hệ trực tiếp và gián tiếp...

- Thứ ba, tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ

Tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ được thể hiện ở chỗ: mỗi

sự vật, hiện tượng đều có nhiều mối liên hệ khác nhau (bên trong và bên

ngoài, trực tiếp và gián tiếp, cơ bản và không cơ bản... chúng giữ vị trí, vai trò

khác nhau đối với sự tồn tại, phát triển của sự vật đó; đồng thời, mỗi mối liên

hệ đó lại có những biểu hiện phong phú khác nhau trong những điều kiện cụ

thể khác nhau...

Câu hỏi 20: Phát triển là gì? Cho ví dụ. Tăng trưởng và phát triển có

mối quan hệ nào? Cho ví dụ.

Trả lời:

- Khái niệm phát triển

Trong phép biện chứng duy vật, khái niệm phát triển dùng để chỉ quá

trình vận động theo chiều hướng đi lên của sự vật: từ trình độ thấp lên trình

độ cao hơn.

Ví dụ, quá trình biến đổi của các giống loài từ bậc thấp lên bậc cao; quá

trình thay thế lẫn nhau của các hình thức thức tổ chức xã hội loài người: từ

hình thức tổ chức xã hội thị tộc, bộ lạc còn sơ khai thời nguyên thuỷ lên các

hình thức tổ chức xã hội cao hơn là hình thức tổ chức bộ tộc, dân tộc...; quá

trình thay thế lẫn nhau của các thế hệ kỹ thuật theo hướng ngày càng hoàn

thiện hơn...

- Khái niệm tăng trưởng và mối quan hệ giữa phát triển và tăng trưởng

Về căn bản, khái niệm tăng trưởng dùng để chỉ quá trình biến đổi theo

chiều hướng tăng lên đơn thuần về lượng của sự vật; nó không phản ánh quá

trình biến đổi theo chiều hướng nâng cao về chất của sự vật. Đây là điểm

khác nhau căn bản giữa khái niệm phát triển và khái niệm tăng trưởng.

Mặc dù có sự khác nhau giữa tăng trưởng và phát triển nhưng giữa

chúng lại có mối liên hệ tất yếu với nhau: tăng trưởng là điều kiện của phát

triển và ngược lại, phát triển lại là điều kiện tạo ra những sự tăng trưởng mới,

thường là với tốc độ và quy mô lớn hơn. Đó là mối quan hệ có tính quy luật

của sự phát triển.

Ví dụ, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế: tăng

trưởng kinh tế là điều kiện quan trọng để phát triển kinh tế và ngược lại, sự

phát triển kinh tế lại tạo ra điều kiện cho sự tăng trưởng kinh tế có thể đạt

được sự tăng trưởng bền vững và với một quy mô, tốc độ mới lớn hơn.

Câu hỏi 21: Mọi sự phát triển đều có những tính chất chung nào? Cho

ví dụ.

Trả lời: Mọi quá trình phát triển đều có ba tính chất chung là: tính

khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.

- Tính khách quan của sự phát triển

Mọi quá trình phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy đều là những

quá trình diễn ra theo tính tất yếu quy luật của nó: những quá trình biến đổi

dần về lượng tất yếu dẫn đến những quá trình biến đổi về chất, quá trình đấu

tranh giữa các mặt đối lập bên trong bản thân sự vật hiện tượng...

Ví dụ, quá trình phát sinh một giống loài mới hoàn toàn diễn ra một

cách khách quan theo quy luật tiến hoá của giới tự nhiên. Con người muốn

sáng tạo một giống loài mới thì cũng phải nhận thức và làm theo quy luật đó.

- Tính phổ biến của sự phát triển

Tính phổ biến của sự phát triển được thể hiện ở chỗ: phát triển không

phải là đặc tính riêng có của một lĩnh vực nào đó của thế giới, mà trái lại nó là

khuynh hướng vận động được thể hiện ở tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội

và tư duy. Tính phổ biến của sự phát triển còn thể hiện ở chỗ: mỗi sự vật,

hiện tượng đều có thể bao hàm trong nó khả năng của sự phát triển, phát

sinh từ chính sự vận động của nó và chịu sự chi phối của nhiều khuynh

hướng phát triển khác.

Ví dụ, trong giới tự nhiên: đó là sự phát triển từ thế giới vật chất vô cơ

đến hữu cơ; từ vật chất chưa có năng lực sự sống đến sự phát sinh các cơ

thể sống và tiến hoá dần lên các cơ thể có cơ cấu sự sống phức tạp hơn - sự

tiến hoá của các giống loài làm phát sinh các giống loài thực vật và động vật

mới đến mức có thể làm phát sinh loài người với các hình thức tổ chức xã hội

từ đơn giản đến trình độ tổ chức cao hơn; cùng với quá trình đó cũng là quá

trình không ngừng phát triển nhận thức của con người từ thấp đến cao...

- Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển

Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển được thể hiện ở chỗ: các

lĩnh vực khác nhau, sự vật khác nhau, điều kiện khác nhau,... thì cũng có sự

khác nhau ít hay nhiều về tính chất, con đường, mô thức, phương thức... của

sự phát triển.

Ví dụ, không thể đồng nhất tính chất, phương thức phát triển của giới

tự nhiên với sự phát triển của xã hội loài người. Sự phát triển của giới tự

nhiên thuần tuý tuân theo tính tự phát, còn sự phát triển của xã hội loài người

lại có thể diễn ra một cách tự giác do có sự tham gia của nhân tố ý thức.

Câu hỏi 22: Thế nào là quan điểm toàn diện, phát triển và lịch sử cụ

thể? Cho ví dụ. Các quan điểm đó được xác lập trên cơ sở lý luận nào?

Trả lời:

- Cơ sở lý luận của quan điêm toàn diện, phát triển và lịch sử cụ thể:

Quan điểm toàn diện, phát triển và lịch sử cụ thể là những quan điểm

cơ bản thuộc về phương pháp luận của phép biện chứng duy vật. Chúng

được xây dựng trên cơ sở lý giải theo quan điểm duy vật biện chứng về tính

khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng phong phú của các mối liên hệ và

sự phát triển của tất thảy các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư

duy.

- Nội dung chính của quan điểm toàn diện

Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần phải xem xét sự vật trên

nhiều mặt, nhiều mối quan hệ của nó. Thực hiện điều này sẽ giúp cho chúng

ta tránh được hoặc hạn chế được sự phiến diện, siêu hình, máy móc, một

chiều trong nhận thức cũng như trong việc giải quyết các tình huống thực tiễn,

nhờ đó tạo ra khả năng nhận thức đúng được sự vật như nó vốn có trong

thực tế và xử lý chính xác, có hiệu quả đối với các vấn đề thực tiễn.

Ví dụ, khi phân tích bất cứ một đối tượng nào, chúng ta cũng cần vận

dụng lý thuyết hệ thống, tức là: xem xét nó được cấu thành nên từ những yếu

tố, bộ phận nào với những mối quan hệ ràng buộc và tương tác nào, từ đó có

thể phát hiện ra thuộc tính chung của hệ thống vốn không có ở mỗi yếu tố

(thuộc tính “trồi”); mặt khác, cũng cần phải xem xét sự vật ấy trong tính mở

của nó, tức là xem xét nó trong mối quan hệ với các hệ thống khác, với các

yếu tố tạo thành môi trường vận động, phát triển của nó...

- Nội dung chính của quan điểm phát triển

Trong nhận thức và thực tiễn cần phải xem xét sự vật theo một quá

trình không ngừng thay đổi về chất ở trình độ cao hơn qua sự biểu hiện của

nó ở các giai đoạn, các hình thái xác định, nhờ đó giúp cho chúng ta nhận

thức được sự vật theo một quá trình không ngừng phát triển của nó. Cũng từ

đó có thể dự báo được giai đoạn, hình thái phát triển trong tương lai của nó.

Ví dụ, C.Mác đã đứng trên quan điểm phát triển để phân tích sự phát

triển của xã hội loài người qua các hình thái tổ chức kinh tế - xã hội hoặc ông

đã đứng trên quan điểm đó để phân tích lịch sử phát triển của các hình thái

giá trị: từ hình thái trao đổi ngẫu nhiên đến hình thái cao nhất của nó là hình

thái tiền tệ,...

- Nội dung chính của quan điểm lịch sử cụ thể

Trong nhận thức và thực tiễn cần phải xem xét sự vật trong các mối

quan hệ và tình huống xác định, các giai đoạn vận động, phát triển xác định;

cũng tức là: khi nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn cần phải tránh

quan niệm chung chung trừu tượng, thiếu tính xác định lịch sử cụ thể; tránh

chiết trung, ngụy biện.

Như vậy, khi thực hiện quan điểm toàn diện và phát triển cần phải luôn

luôn gắn với quan điểm lịch sử cụ thể thì mới có thể thực sự nhận thức chính

xác được sự vật và giải quyết đúng đắn, có hiệu quả đối với các vấn đề thực

tiễn.

Câu hỏi 23: Thế nào là cái riêng, cái chung, cái đơn nhất? Giữa chúng

có mối quan hệ như thế nào? Nghiên cứu mối quan hệ đó có ý nghĩa gì đối

với nhận thức và thực tiễn? Nêu một số ví dụ minh hoạ.

Trả lời:

- Khái niệm cái riêng, cái chung và cái đơn nhất với tư cách là phạm trù

cơ bản của phép biện chứng duy vật

Trong phép biện chứng duy vật:

+ “Cái riêng” dùng để chỉ mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi quá trình,...

xác định, tồn tại tương đối độc lập so với các sự vật, hiện tượng, quá trình...

khác.

+ “Cái chung” dùng để chỉ những thuộc tính, tính chất,... lặp lại ở nhiều

cái riêng.

+ “Cái đơn nhất” dùng để chỉ những thuộc tính, tính chất,... chỉ tồn tại ở

một cái riêng nhất định.

Ví dụ, mỗi con người là một cái riêng; những thuộc tính tự nhiên và xã

hội khiến cho con người khác với động vật giữ vai trò là cái chung của tất cả

mọi người với tư cách người; nhưng mặt khác, ở mỗi con người lại có những

thuộc tính không lặp lại ở nhau như: cấu tạo gen, nhân cách, năng lực,... cụ

thể khác nhau.

- Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung, cái riêng và cái đơn nhất

+ Cái chung không tồn tại - trừu tượng bên ngoài những cái riêng; trái

lại, cái chung chỉ tồn tại trong mỗi cái riêng, biểu hiện thông qua mỗi cái riêng.

Vì vậy, để nhận thức cái chung có thể dùng phương pháp quy nạp từ việc

nghiên cứu nhiều cái riêng.

Ví dụ, trên cơ sở khảo sát tình hình hoạt động cụ thể của một số doanh

nghiệp có thể rút ra kết luận về tình trạng chung của các doanh nghiệp trong

nền kinh tế.

+ Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung; không có cái

riêng tồn tại độc lập tuyệt đối tách rời cái chung. Vì vậy, để giải quyết mỗi vấn

đề riêng không thể bất chấp cái chung, đặc biệt là cái chung là cái thuộc bản

chất, quy luật phổ biến...

Ví dụ, không có doanh nghiệp nào tồn tại với tư cách doanh nghiệp mà

lại không tuân theo các quy tắc chung của thị trường (ví dụ quy tắc cạnh

tranh...). Nếu doanh nghiệp nào đó bất chấp các nguyên tắc chung đó thì nó

không thể tồn tại trong nền kinh tế thị trường.

+ Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú, đa dạng hơn cái chung; còn cái

chung là cái bộ phận nhưng sâu sắc, bản chất hơn cái riêng. Vì vậy, chẳng

những việc giải quyết mỗi vấn đề riêng không thể bất chấp cái chung mà còn

phải xét đến cái phong phú, lịch sử khi vận dụng cái chung.

Ví dụ, khi vận dụng những nguyên lý chung của khoa học vào việc giải

quyết mỗi vấn đề riêng cần phải xét đến những điều kiện lịch sử, cụ thể tạo

nên cái đơn nhất (đặc thù) của nó. Cần tránh thái độ chung chung, trừu tượng

khi giải quyết mỗi vấn đề riêng.

+ Cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hóa cho nhau trong những

điều kiện xác định của quá trình vận động, phát triển của sự vật. Vì vậy, tuỳ

từng mục đích có thể tạo ra những điều kiện để thực hiện sự chuyển hoá từ

cái đơn nhất thành cái chung hay ngược lại.

Ví dụ, một sáng kiến khi mới ra đời - nó là cái đơn nhất. Với mục đích

nhân rộng sáng kiến đó áp dụng trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội, có

thể thông qua các tổ chức trao đổi, học tập để phổ biến sáng kiến đó thành

cái chung, cái phổ biến - khi đó cái đơn nhất đã trở thành cái chung...

Câu hỏi 24: Nguyên nhân và kết quả có mối quan hệ biện chứng nào?

Từ việc hiểu mối quan hệ biện chứng đó có thể rút ra ý nghĩa phương pháp

luận gì? Cho ví dụ.

Trả lời:

- Khái niệm nguyên nhân và kết quả với tư cách là phạm trù cơ bản của

phép biện chứng duy vật

Khái niệm nguyên nhân dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt

trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau từ đó

tạo ra sự biến đổi nhất định. Những sự biến đổi đó được gọi là kết quả.

Ví dụ, sự tác động của dòng điện lên dây dẫn (nguyên nhân) khiến cho

dây dẫn nóng lên (kết quả); hoặc sự tác động qua lại của cung và cầu đến

quá trình thực hiện giá cả (nguyên nhân) của hàng hoá khiến cho giá cả xoay

quanh giá trị của hàng hoá (kết quả).

- Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả, ý nghĩa phương pháp luận

rút ra từ việc nghiên cứu mối quan hệ đó

+ Quan hệ “nhân - quả” là quan hệ có tính tất yếu khách quan: không

có nguyên nhân phi kết quả và ngược lại không có kết quả nào (sự biến đổi

nào) không có nguyên nhân của nó. Đây là quan hệ có tính quy luật, trong đó

nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết quả; kết quả luôn phụ thuộc tất yếu

vào nguyên nhân. Do vậy, khi nắm bắt được nguyên nhân có thể dự báo

được kết quả xảy ra và ngược lại, trước mỗi sự biến đổi cần đặt vấn đề

nghiên cứu xác định nguyên nhân của nó bởi vì không có kết quả nào không

do những nguyên nhân nhất định.

Ví dụ, khi khảo sát (đo đạc, tính toán,...) được thực trạng của các nhân

tố tác động đến sự biến đổi của khí hậu, người ta có thể dự báo trước được

những diễn biến của thời tiết sẽ diễn ra trong thời gian gần hoặc xa.

+ Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả là mối quan hệ hết sức

phức tạp, đa chiều: một nguyên nhân có thể sinh ra một hoặc nhiều kết quả

(chính, phụ,...) ngược lại, một kết quả có thể do một hoặc nhiều nguyên nhân

(chính, phụ,...). Kết quả là cái xảy ra sau nguyên nhân, nhưng khi kết quả đã

xuất hiện thì kết quả này lại có thể tác động trở lại các nhân tố vốn là tác nhân

sản sinh ra nó; đồng thời, nó cũng có thể lại trở thành nguyên nhân tạo ra

những biến đổi mới. Đó cũng chính là mối quan hệ chuyển hoá biện chứng

của quan hệ “nhân - quả”. Vì vậy, không thể đơn giản hoá việc phân tích và

giải quyết các mối quan hệ “nhân - quả” trong thực tế; mặt khác cũng có thể

sử dụng tính phức tạp này để lựa chọn phương án tối ưu trong thực tiễn.

Ví dụ, hoạt động của con người là một trong những nguyên nhân quan

trọng dẫn tới sự biến đổi của môi trường sự sống trên trái đất; ngược lại,

chính những biến đổi theo chiều hướng không tốt hiện nay lại trở thành

nguyên nhân tác động trở lại theo chiều hướng bất thuận lợi cho hoạt động

của con người...

Câu hỏi 25: Tất nhiên và ngẫu nhiên có mối quan hệ biện chứng nào?

Có thể rút ra ý nghĩa phương pháp luận gì từ việc hiểu biết mối quan hệ biện

chứng đó? Cho ví dụ.

Trả lời:

- Khái niệm tất nhiên và ngẫu nhiên với tư cách là phạm trù cơ bản của

phép biện chứng duy vật

+ Khái niệm tất nhiên dùng để chỉ cái xuất phát từ bản chất, quy luật

vận động, phát triển của sự vật; do vậy, nó luôn có tính tất định (trong một

điều kiện xác định nó nhất định phải xảy ra như thế mà không thể khác).

+ Khái niệm ngẫu nhiên dùng để chỉ cái xảy ra do sự tác động của hoàn

cảnh môi trường đến quá trình biểu hiện của cái tất nhiên; do vậy, nó khiến

cho cái tất nhiên có thể biểu hiện ra trong thực tế thành tính đa khả năng (có

thể xảy ra như thế này hay thế khác theo sự biến thiên của những điều kiện

khác nhau).

Ví dụ, xét một vật rơi tự do: xuất phát từ bản chất (quy luật) tương tác

hấp dẫn của trái đất đối với nó, khiến cho nó nhất định rơi vào trái đất (cái tất

nhiên); nhưng do điều kiện tác động của các nhân tố hợp thành môi trường

rơi của nó khiến cho đường rơi của nó có thể diễn ra theo nhiều khả năng

khác nhau (cái ngẫu nhiên).

- Mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên, ý nghĩa

phương pháp luận từ việc nghiên cứu mối quan hệ đó

+ Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan và đều có vai trò nhất

định đối với sự vận động, phát triển của sự vật, trong đó cái tất nhiên đóng vai

trò quyết định, còn cái ngẫu nhiên làm cho sự biểu hiện của cái tất nhiên trở

nên phong phú. Vì vậy, trong nhận thức và thực tiễn, điều quan trọng nhất,

trước hết cần phải phát hiện và hành động theo cái tất nhiên. Tuy nhiên, cũng

cần phải xét đến những khả năng biến đổi của các nhân tố tạo thành hoàn

cảnh thực tế trong quá trình vận động của sự vật.

Ví dụ, theo quy luật khách quan thì xã hội loài người tất nhiên sẽ vận

động theo chiều hướng đi lên, nhưng quá trình đó lại không phải là con

đường thẳng mà trái lại, nó là con đường phức tạp, quanh co, bao hàm cả

những bước thụt lùi trong một bối cảnh cụ thể do sự tác động của rất nhiều

nhân tố khác nhau đến tiến trình ấy.

+ Không có cái tất nhiên và ngẫu nhiên thuần tuý tách rời nhau: cái tất

nhiên được biểu hiện ra trong hiện thực thông qua cái ngẫu nhiên. Trong

trường hợp này có thể nói: cái tất nhiên xuyên qua vô số cái ngẫu nhiên mà

biểu hiện tính tất yếu theo quy luật của nó. Bởi vậy, trong mỗi cái ngẫu nhiên

đều bao hàm trong nó ít hay nhiều tính tất nhiên. Vì thế, để nhận thức cái tất

nhiên nào đó, có thể thông qua việc nghiên cứu cái ngẫu nhiên.

Ví dụ, trên cơ sở thống kê tập hợp số lượng lớn nhiều cái tất nhiên sẽ

có thể rút ra kết luận về tính tất nhiên (đây cũng là một cơ sở khách quan của

phương pháp thống kê được sử dụng trong nghiên cứu khoa học).

+ Tất nhiên và ngẫu nhiên không phải tồn tại vĩnh viễn ở trạng thái cũ

mà thường xuyên thay đổi; cái trong quan hệ này là tất nhiên thì trong một

quan hệ khác lại có thể là ngẫu nhiên. Vì vậy, cần phải có quan điểm lịch sử,

cụ thể khi phân tích xác định cái tất nhiên và cái ngẫu nhiên.

Ví dụ, trong các xã hội chưa có sự phát triển của quan hệ hàng hoá -

tiền tệ thì sự trao đổi hàng hoá chưa có tính tất yếu, nhưng khi quan hệ đó đã

phát triển thì việc trao đổi hàng hoá lại trở thành cái có tính tất yếu (xuất phát

từ các quy luật kinh tế của sản xuất hàng hoá).

Câu hỏi 26: Trình bày mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình

thức. Từ việc nghiên cứu mối quan hệ biện chứng đó có thể rút ra ý nghĩa

phương pháp luận gì? Nêu một số ví dụ minh hoạ.

Trả lời:

- Khái niệm nội dung và hình thức với tư cách là phạm trù cơ bản của

phép biện chứng duy vật

Khái niệm nội dung dùng để chỉ toàn bộ các yếu tố làm cơ sở cấu thành

nên sự vật; còn khái niệm hỉnh thức dùng để chỉ phương thức kết hợp các

yếu tố đó tạo nên sự tồn tại của sự vật.

Ví dụ, khi phân tích mỗi phân tử nước (H20) đã cho thấy: các yếu tố vật

chất làm cơ sở cấu thành nên nó là 2 nguyên tử hyđrô và 1 nguyên tử ôxy

(nội dung); cách thức liên kết hoá học của chúng là: H - 0 - H (hình thức).

- Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức, ý nghĩa phương

pháp luận

+ Nội dung và hình thức là hai phương diện cấu thành nên mỗi sự vật:

không có sự vật nào tồn tại mà chỉ có nội dung mà không có hình thức nhất

định. Vì vậy, khi nghiên cứu nội dung của mỗi sự vật bao giờ cũng cần xem

xét nó theo phương thức kết hợp nhất định và ngược lại. Việc nghiên cứu

thuần tuý nội dung hay hình thức thuần tuý chỉ mang ý nghĩa là sự trừu tượng

hoá trong một quá trình nhận thức xác định.

Ví dụ, khi nghiên cứu một đối tượng, trước hết người ta có thể tiến

hành phân tích xem nó được cấu thành từ những yếu tố, bộ phận,... nào. Sau

đó tiến hành nghiên cứu xem chúng được liên kết với nhau theo cách thức

nào để tạo nên sự tồn tại của đối tượng đó, nhờ đó hiểu được toàn diện đối

tượng ấy, giải thích được tính chất chung được tạo ra từ sự liên kết các yếu

tố, bộ phận đó.

+ Cùng một nội dung nhưng có thể có những phương thức kết hợp

khác nhau; ngược lại, các nội dung khác nhau nhưng có thể có sự đồng dạng

về phương thức kết hợp giữa chúng. Tuy nhiên điều đó không phải là tuyệt

đối, phi nguyên tắc.

Ví dụ, một số doanh nghiệp có thể tương đồng nhau về số lượng vốn

nhưng lại có phương thức kinh doanh ít hay nhiều khác nhau, từ đó tạo nên

tính hiệu quả kinh doanh khác nhau; ngược lại, cùng một phương thức kinh

doanh nhưng lại có thể thích hợp với một số doanh nghiệp có số lượng vốn ít

nhiều khác nhau.

+ Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức là mối quan hệ biện chứng,

trong đó nội dung quyết định hình thức và hình thức tác động trở lại nội dung.

Giữa nội dung và hình thức không phải luôn luôn có sự thống nhất. Thông

thường, quá trình biến đổi, phát triển của một sự vật được bắt đầu từ sự biến

đổi nội dung của nó (dưới một hình thức phù hợp), tới một giới hạn nhất định

sẽ xuất hiện sự không còn phù hợp giữa nội dung và hình thức. Khi đó sẽ

xuất hiện nhu cầu thay đổi hình thức tạo nên sự phù hợp mới.

Vì vậy, vấn đề mấu chốt trong nhận thức và thực tiễn là nghiên cứu sự

vật từ quá trình biến đổi nội dung của nó và xác lập sự thống nhất giữa nội

dung và hình thức.

Ví dụ, dưới một hình thức kinh doanh phù hợp, số lượng vốn của

doanh nghiệp không ngừng tăng lên. Đến một giai đoạn nhất định, nó đòi hỏi

phải thay đổi cách thức tổ chức kinh doanh cũ, xác lập cách thức kinh doanh

mới để bảo toàn lượng vốn cũ và không ngừng thực hiện sự tăng trưởng của

doanh nghiệp.

Câu hỏi 27: Bản chất là gì? Hiện tượng là gì? chúng có mối quan hệ

biện chứng nào? Ý nghĩa rút ra từ việc nghiên cứu mối quan hệ đó. Cho ví dụ

minh họa.

Trả lời:

- Khái niệm bản chất và hiện tượng với tư cách là phạm trù cơ bản của

phép biện chứng duy vật

Khái niệm bản chất dùng để chỉ cái đặc trưng cho sự vật. quyết định

quá trình biến đổi, phát triển của sự vật; còn khái niệm hiện tượng dùng để

chỉ sự biểu hiện của bản chất trong các điều kiện xác định.

Ví dụ, một trong những đặc tính bản chất của ánh sáng là tính sóng.

Hiện tượng biểu hiện của nó (qua thực nghiệm) là sự giao thoa bước sóng

(có thể quan sát được).

- Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng, ý nghĩa

phương pháp luận

+ Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng: bản chất bao giờ cũng

bộc lộ ra qua hiện tượng, còn hiện tượng bao giờ cũng là sự biểu hiện của

một bản chất nhất định; không có bản chất tồn tại thuần túy tách rời hiện

tượng, cũng như không có hiện tượng lại không biểu hiện của một bản chất

nào đó; bản chất quyết định hiện tượng; khi bản chất thay đổi thì cũng kéo

theo sự biến đổi của hiện tượng tương ứng.

Vì vậy, có thể thông qua việc quan sát các hiện tượng để nghiên cứu

bản chất và ngược lại, khi hiểu rõ bản chất của một đối tượng nghiên cứu thì

có thể suy ra các khả năng biểu hiện của nó khi xác định được các điều kiện

có liên quan. Điều quan trọng nhất đối với nhận thức và thực tiễn là cần phải

nắm bắt được bản chất, trên cơ sở đó mới có thể giải quyết được căn bản

hiện tượng (giải thích hiện tượng, xoá bỏ hay tạo ra hiện tượng mới,...).

Ví dụ, trong nghiên cứu khoa học người ta thường bắt đầu từ việc quan

sát, thống kê các hiện tượng (quan sát tự nhiên hay qua thí nghiệm) trên cơ

sở đó tiến hành nghiên cứu (có thể thông qua việc xác lập các mô hình giả

thuyết,...) về bản chất của hiện tượng để giải thích hiện tượng quan sát được.

+ Sự đối lập giữa bản chất và hiện tượng được thể hiện ở chỗ: bản

chất là cái chung, cái tất yếu; còn hiện tượng là cái riêng biệt phong phú và đa

dạng; bản chất là cái bên trong, hiện tượng là cái bên ngoài; bản chất tương

đối ổn định, còn hiện tượng thường xuyên biến đổi. Vì vậy, không phải trong

bất cứ trường hợp nào cũng có thể từ hiện tượng quan sát được trực tiếp rút

ra bản chất tương ứng mà cần phải có sự nghiên cứu kỹ lưỡng, xem xét

những nhân tố tác động làm sai lệch sự biểu hiện của một bản chất. Đó cũng

chính là lý do tồn tại của nghiên cứu khoa học: chỉ ra sự ẩn giấu của một bản

chất qua hiện tượng biểu hiện có tính sai lạc.

Ví dụ, có thể thấy các hiện tượng “ảo ảnh” khi quan sát các hiện tượng

tự nhiên; hoặc các hiện tượng che giấu bản chất thực sự qua quan sát một số

hiện tượng trong đời sống hoạt động của con người và xã hội.

Câu hỏi 28: Trình bày mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện

thực? Có thể rút ra ý nghĩa phương pháp luận nào từ việc nghiên cứu mối

quan hệ đó? Cho một số ví dụ minh hoạ.

Trả lời:

- Khái niệm khả năng và hiện thực với tư cách là phạm trù cơ bản của

phép biện chứng duy vật

Khái niệm hiện thực dùng để chỉ tất cả những gì hiện hiện đang tồn tại

trong thực tế; còn khái niệm khả năng dùng để chỉ cái mà trong hiện tại mới

chỉ thể hiện ở dạng tiềm năng, tiềm thế, xu hướng,... (chưa trở thành hiện

thực, chỉ có thể trở thành hiện thực trong tương lai khi có những điều kiện

thích hợp).

Ví dụ, xét về mặt hiện thực thì một quốc gia nào đó vẫn đang ở tình

trạng là một nước nghèo nhưng khả năng trong tương lai quốc gia đó có thể

trở thành một nước giầu khi nó phát huy được những lợi thế hiện tại.

- Mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực, ý nghĩa phương

pháp luận

+ Hiện thực và khả năng tồn tại trong mối quan hệ chuyển hoá lẫn

nhau: mỗi hiện thực đều bao hàm những khả năng nhất định. Khi khả năng

này trở thành hiện thực trong tương lai thì hiện thực mới đó lại có thể xuất

hiện những khả năng mới... Vì vậy, trong nhận thức và thực tiễn có thể xuất

phát từ hiện thực để phát hiện khả năng và có thể chủ động biến khả năng đó

trở thành hiện thực trong tương lai...

Ví dụ, hiện tại nước ta chưa có nền công nghiệp hiện đại, nhưng nếu

như phát huy được những tiềm năng hiện tại thì nước ta có thể trở thành một

nước có nền công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Với hiện thực

khi đó sẽ lại làm xuất hiện những khả năng mới để đưa nước ta tiến xa hơn

nữa trên con đường thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công

bằng, dân chủ, văn minh...

+ Mỗi khả năng đều xuất phát từ một hiện thực nhất định; đồng thời,

trong một hiện thực thường xuất hiện nhiều khả năng (khả năng gần, khả

năng xa, khả năng đã đủ điều kiện thực hiện và chưa đủ điều kiện trở thành

hiện thực,...). Vì vậy, trong nhận thức và thực tiễn cần phát hiện khả năng từ

hiện thực (tránh khả năng ảo - không xuất phát từ hiện thực), đồng thời cần

có sự phân loại và lựa chọn khả năng có tính khả thi nhất và khả năng tối ưu

trong một điều kiện xác định.

Ví dụ, do những điều kiện thực tế khác nhau nên cuộc sống của mỗi

người đều có thể xuất hiện những khả năng phát triển khác nhau. Vấn đề là ở

chỗ mỗi người tự xác định được và lựa chọn được cho mình khả năng có tính

khả thi nhất và tối ưu nhất để hành động, biến nó thành hiện thực trong tương

lai. “Con chim thì bay, con rùa thì bò” - đó cũng chính là một triết lý khôn

ngoan tổng kết từ thực tế.

Câu hỏi 29: Mọi quá trình vận động, phát triển trong tự nhiên, xã hội và

tư duy đều tuân theo những quy luật cơ bản nào? Vị trí của mỗi quy luật đó

đối với quá trình vận động, phát triển? Cho ví dụ.

Trả lời:

- Theo phép biện chứng duy vật, mọi quá trình vận động, phát triển

trong tự nhiên, xã hội và tư duy đều tuân theo ba quy luật cơ bản, đó là: Quy

luật chuyển hoá từ những biến đổi về lượng dẫn tới những biến đổi về chất và

ngược lại; Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập; Quy luật phủ

định của phủ định.

- Vị trí của mỗi quy luật đối với các quá trình vận động, phát triển:

+ Quy luật chuyển hoá từ những biến đổi về lượng dẫn đến những biến

đổi về chất là quy luật về phương thức cơ bản của vận động, phát triển.

Phương thức đó là từ những quá trình thay đổi về lượng của sự vật tất yếu sẽ

dẫn tới những thay đổi về chất và ngược lại, chất mới lại tạo ra những điều

kiện mới làm cho lượng của sự vật mới có những biến đổi mới,...

Ví dụ, quá trình tích tụ “tư bản” (vốn đầu tư kinh doanh để tìm kiếm lợi

nhuận) đến một giới hạn cần thiết sẽ có thể nâng cao sức cạnh tranh của

doanh nghiệp; ngược lại, sự tăng cường sức cạnh tranh của nó lại tiếp tục tạo

ra khả năng tăng cường tốc độ và quy mô tích tụ tư bản mới,...

+ Quy luật thống nhất và đấu tranh của (giữa) các mặt đối lập là quy

luật về nguồn gốc, động lực cơ bản của mọi quá trình vận động, phát triển.

Theo quy luật này sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (“mâu

thuẫn” hiểu theo nghĩa biện chứng) đóng vai trò là nguồn gốc, động lực cơ

bản của mọi quá trình vận động phát triển.

Ví dụ, quá trình phát triển của các giống loài có nguồn gốc, động lực cơ

bản từ sự vận động của hệ thống mâu thuẫn giữa cơ thể sống và môi trường,

đồng hoá và dị hoá, biến dị và di truyền,...

+ Quy luật phủ định của phủ định là quy luật về khuynh hướng chung

của mọi sự phát triển. Theo quy luật này, mọi quá trình phát triển đểu diễn ra

theo khuynh hướng cơ bản là vận động từ thấp đến cao thông qua nhiều lần

phủ định biện chứng - đó cũng chính là quá trình diễn ra theo tính chu kỳ -

chu kỳ có tính chất “phủ định của phủ định”.

Ví dụ, quá trình tái sản xuất xã hội: ...{- sản xuất [- phân phối - trao đổi -

tiêu dùng -] - sản xuất}...

Câu hỏi 30: Thế nào là chất, lượng, độ, điểm nút, bước nhảy? Chất và

lượng của sự vật có mối quan hệ biện chứng nào? Có thể rút ra ý nghĩa

phương pháp luận gì từ việc nghiên cứu mối quan hệ đó? Cho ví dụ minh

hoạ.

Trả lời:

- Khái niệm chất, lượng, độ, điểm nút, bước nhảy với tư cách là những

phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật

+ Khái niệm “chất” dùng để chỉ tính quy định của sự vật về phương diện

tổng hợp các thuộc tính cơ bản, khách quan, vốn có của một sự vật nào đó;

cái mà nhờ đó, sự vật là nó, khác với sự vật khác.

+ Khái niệm “lượng” dùng để chỉ tính quy định khách quan, vốn có của

sự vật (tạo thành cơ sở khách quan cho sự tồn tại của chất của sự vật) về

các phương diện: số lượng các yếu tố cấu thành, quy mô của sự tồn tại, tốc

độ, nhịp điệu của các quá trình vận động, phát triển của sự vật.

Ghi chú: Một sự vật có thể có nhiều loại lượng và nhiều loại chất

(tương ứng với từng loại lượng cụ thể).

+ Khái niệm “độ” dùng để chỉ khoảng giới hạn trong đó có sự thống

nhất giữa chất và lượng (trong khoảng đó, những biến đổi của lượng chưa

làm cho chất tương ứng của nó thay đổi).

+ Khái niệm “điểm nút" dùng để chỉ giới hạn tại đó với những sự thay

đổi của lượng trực tiếp dẫn đến những thay đổi về chất.

+ Khái niệm “bước nhảy” dùng để chỉ quá trình thay đổi về chất của sự

vật diễn ra tại điểm nút.

Ví dụ, xét “nước” (H20) nguyên chất, trong điều kiện 1 atmotphe ở trạng

thái thể lỏng (chất) được quy định bởi lượng nhiệt độ (lượng) từ Ooc đến

100oc (độ). Khi lượng nhiệt độ biến thiên nằm ngoài khoảng giới hạn 0°c hoặc

100°c đó (điểm nút) thì tất yếu xảy ra quá trình biến đổi trạng thái của nước từ

trạng thái lỏng sang trạng thái rắn hoặc khí (bước nhảy).

- Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng với tư cách là phương

thức vận động, phát triển của sự vật

+ Chất và lượng của sự vật là hai mặt của cùng một sự vật, chúng tồn

tại trong tính quy định lẫn nhau: tương ứng với một loại lượng nhất định thì

cũng có một loại chất tương ứng và ngược lại.

Ví dụ, tương ứng với cấu tạo H - 0 - H (cấu tạo liên kết 2 nguyên tử

hyđrô và 1 nguyên tử ôxy) thì 1 phân tử nước (H20) được hình thành với tập

hợp các tính chất cơ bản, khách quan, vốn có của nó là: không màu, không

mùi, không vị, có thể hoà tan muối, axít,...

+ Vì giữa chúng có mối quan hệ quy định lẫn nhau như vậy, nên những

sự biến đổi về lượng sẽ tất yếu có khả năng dẫn đến thay đổi về chất và

ngược lại.

Ví dụ, quy định nên trạng thái thể lỏng của nước chính là lượng nhiệt

độ của nó (chứ không phải là số lượng nguyên tử hyđrô và ôxy); do vậy, khi

lượng nhiệt độ này biến thiên thì tất yếu có khả năng dẫn tới sự biến đổi về

trạng thái của nước sang thể rắn hay lỏng.

Tuy nhiên, mối quan hệ giữa chất và lượng của sự vật có những sự tồn

tại độc lập tương ứng. Vì vậy, không phải bất kỳ sự thay đổi nào về lượng

cũng ngay lập tức có thể dẫn đến sự thay đổi về chất của nó. Sự thay đổi này

chỉ có thể diễn ra trong thực tế với những điều kiện xác định. Thông thường,

điều kiện đó là: sự thay đổi của lượng phải đạt tới giới hạn điểm nút.

- Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ việc nghiên cứu mối quan hệ biện

chứng giữa chất và lượng

+ Muốn hiểu biết đầy đủ về sự vật, cần phải nghiên cứu trên cả hai

phương diện chất và lượng.

Ví dụ, khi nghiên cứu về các chất trong hoá vô cơ hay hữu cơ, người ta

không chỉ nghiên cứu để xác định các tính chất hoá học cơ bản vốn có của nó

mà còn phải nghiên cứu giải thích tính chất đó được tạo ra bởi số lượng các

nguyên tố nào với cấu tạo liên kết nào. Nhờ đó có thể tạo ra sự biến đổi của

các chất đó trên cơ sở làm thay đổi lượng tương ứng.

+ Trong thực tiễn, muốn làm thay đổi chất của sự vật thì cần phải làm

thay đổi được loại lượng tương ứng với chất đó đến giới hạn điểm nút.

Ngược lại, nếu không muốn cho chất của sự vật thay đổi thì cần phải giới hạn

sự thay đổi của lượng trong giới hạn của độ.

Ví dụ, để “tiền” có thể biến thành “tư bản” (k) thì cần phải có sự tích luỹ

tiền đến một lượng nhất định và trong các điều kiện xác định về mặt chế độ

kinh tế, chế độ chính trị xã hội,...

Câu hỏi 31: Hiểu theo nghĩa biện chứng duy vật: mâu thuẫn là gì? Với

nghĩa như vậy, mâu thuẫn đóng v ai trò gì đối với quá trình vận động, phát

triển? Tại sao? Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu vai trò đó?

Cho một số ví dụ tương ứng.

Trả lời:

- Khái niệm mâu thuẫn với tư cách là phạm trù cơ bản của phép biện

chứng duy vật

Khái niệm mâu thuẫn dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất, đấu tranh và

chuyển hoá của các mặt đối lập trong một sự vật hoặc giữa các sự vật trong

quá trình vận động, phát triển của chúng (vắn tắt: là mối liên hệ thống nhất và

đấu tranh giữa các mặt đối lập). Với nghĩa như vậy, mâu thuẫn là cái tồn tại

khách quan, vốn có của bất cứ một sự vật, hiện tượng, quá trình nào trong tự

nhiên, xã hội và tư duy.

Ví dụ: mối quan hệ giữa điện tích âm và điện tích dương của một dòng

điện; giữa đồng hoá và dị hoá của cơ thể sống, giữa chân lý và sai lầm trong

quá trình nhận thức, giữa cung và cầu trên thị trường hàng hoá,...

Khái niệm mặt đối lập dùng để chỉ những gì trái ngược nhau (tính chất,

xu hướng vận động,...).

Khái niệm thống nhất của các mặt đối lập dùng để chỉ: sự quy định lẫn

nhau; sự tương đồng; tác dụng ngang nhau giữa các mặt đối lập trong quá

trình đấu tranh giữa các mặt đối lập.

Khái niệm đấu tranh của các mặt đối lập dùng để chỉ sự tác động theo

khuynh hướng bài xích, gạt bỏ, thủ tiêu,... lẫn nhau giữa (của) các mặt đối

lập.

- Vai trò của mâu thuẫn đối với quá trình vận động, phát triển

Mâu thuẫn giữ vai trò là nguồn gốc, động lực cơ bản của quá trình biến

đổi, phát triển, bởi vì:

+ Biến đổi, phát triển chính là một quá trình sự vật này chuyển thành sự

vật khác, giai đoạn này chuyển sang giai đoạn khác của một sự vật. Mỗi sự

vật đều thường bao hàm trong nó nhiều mâu thuẫn: bên trong và bên ngoài,

cơ bản và không cơ bản, chủ yếu và thứ yếu,... giữa các mặt đối lập đó vừa

có tính thống nhất với nhau vừa diễn ra quá trình đấu tranh với nhau (trong

sự thống nhất có sự đấu tranh và đấu tranh trong tính thống nhất).

+ Tính chất thống nhất giữa các mặt đối lập trong mỗi mâu thuẫn có tác

dụng làm cho sự vật còn ổn định tương đối ở một chất nhất định, chưa biến

đổi thành cái khác.

+ Nhưng giữa chúng không chỉ có sự thống nhất tương đối mà còn luôn

diễn ra sự đấu tranh giữa các mặt đối lập - đấu tranh giữa chúng là tuyệt đối.

Chính sự đấu tranh đó đã dẫn tới sự chuyển hoá giữa các mặt đối lập. Sự

chuyển hoá này trực tiếp làm cho sự vật chuyển hoá thành cái khác (giai đoạn

khác, sự vật khác). Theo ý nghĩa ấy, phát triển được hiểu là cuộc đấu tranh

của (giữa) các mặt đối lập.

Ví dụ, quá trình phát triển của các giống loài (thực vật, động vật) là quá

trình làm phát sinh giống loài mới từ giống loài cũ nhờ kết quả tất yếu của quá

trình thống nhất, đấu tranh và chuyển hoá của các mặt đôi lập: đồng hoá và dị

hoá, di truyền và biến dị; giữa các giống loài vừa nương dựa vào nhau để tồn

tại, vừa đấu tranh sinh tồn khốc liệt với nhau và dẫn đến sự loại bỏ tự nhiên

đối với những nhân tố không phù hợp với hoàn cảnh môi trường.

- Ý nghĩa phương pháp luận:

+ Để nhận thức đúng nguồn gốc và động lực cơ bản của các quá trình

ra đời, vận động, phát triển của một sự vật cần phải phân tích quá trình hình

thành và vận động của mâu thuẫn vốn có của sự vật ấy.

Ví dụ, giải thích nguyên nhân vận động của các hành tinh từ 2 loại lực

hút và đẩy giữa chúng, giải thích quá trình xuất hiện dòng điện từ mối quan hệ

giữa điện tích âm và điện tích âm,...

+ Để tạo động lực cho sự phát triển nào đó cần nhận thức và chủ động

tạo ra các điều kiện cần thiết để thực hiện quá trình vận động của mâu thuẫn

theo chiều hướng tích cực.

Ví dụ, thực hiện chế độ dân chủ trong học thuật chính là tạo ra những

điều kiện thuận lợi cho việc phát huy những trao đổi, tranh luận giữa các ý

kiến không chỉ khác nhau mà còn là đối lập nhau trong việc giải quyết một vấn

đề, nhờ đó có thể làm sáng tỏ chân lý. Hoặc để thực hiện quá trình phát triển

kinh tế thị trường cần phải tạo môi trường pháp lý và văn hoá thuận lợi để các

chủ thể kinh doanh có thể thực hiện sự hợp tác và cạnh tranh,...

Câu hỏi 32: Phủ định là gì? Phủ định biện chứng là gì? Phủ định biện

chứng giữ vai trò gì đối với sự phát triển? Tại sao? Thế nào là “phủ định của

phủ định”? Cho ví dụ minh hoạ.

Trả lời:

- Khái niệm phủ định và phủ định biện chứng

+ Khái niệm phủ định dùng để chỉ sự thay thế sự vật này bằng sự vật

khác, giai đoạn vận động, phát triển này bằng giai đoạn vận động, phát triển

khác. Theo nghĩa đó, không phải bất cứ sự phủ định nào cũng dẫn tới quá

trình phát triển.

+ Khái niệm phủ định biện chứng dùng để chỉ sự phủ định tạo ra những

điều kiện, tiền đề phát triển của sự vật.

Ví dụ, quá trình “hạt giống nẩy mầm”. Trong trường hợp này: cái mầm

ra đời từ cái hạt; sự ra đời của nó là sự phủ định biện chứng đối với cái hạt,

nhờ đó giống loài này tiếp tục quá trình sinh tồn và phát triển.

- Vai trò của phủ định biện chứng đối với sự phát triển

Phủ định biện chứng giữ vai trò tạo ra những điều kiện, tiền đề phát

triển của sự vật bởi vì: phủ định biện chứng là sự tự thân phủ định - xuất phát

từ nhu cầu tất yếu của sự phát triển. Đồng thời quá trình phủ định đó, một mặt

kế thừa được những yếu tố của sự vật cũ, cần thiết cho sự phát triển của nó,

tạo ra khả năng phát huy mới của các nhân tố cũ; mặt khác lại khắc phục, lọc

bỏ, vượt qua được những hạn chế của sự vật cũ, nhờ đó sự vật phát triển ở

trình độ cao hơn.

- Đặc trưng của phủ định biện chứng

Phủ định biện chứng là sự “tự thân phủ định”, tức là sự phủ định xuất

phát từ nhu cầu tồn tại, phát triển của sự vật: sự vật chỉ có thể tồn tại, phát

triển một khi nó tất yếu phải vượt qua hình thái cũ và tồn tại dưới hình thái

mới. Tính chất đó của sự phủ định cũng còn gọi là tính khách quan của sự

phủ định. Mặt khác, quá trình phủ định biện chứng cũng là quá trình bao hàm

trong đó tính chất kế thừa - kế thừa các yếu tố nội dung cũ trong hình thái

mới, nhờ đó chẳng những nội dung cũ được bảo tồn mà còn có thể phát huy

vai trò tích cực của nó cho quá trình phát triển của sự vật.

Ví dụ, quá trình vận động của tư bản (k) từ hình thái tư bản tiền tệ sang

hình thái tư bản hàng hoá (tư liệu sản xuất và sức lao động) là một sự phủ

định trong quá trình vận động, phát triển của tư bản. Quá trình này có sự thay

đổi hình thái tồn tại của tư bản nhưng nội dung giá trị của tư bản được bảo

tồn dưới hình thái mới - hình thái có khả năng khi tiêu dùng trong sản xuất thì

chẳng những có khả năng tái tạo giá trị cũ mà còn có khả năng làm tăng giá

trị mối của tư bản.

- “Phủ định của phủ định”

Khái niệm “phủ định của phủ định” hay “phủ định cái phủ định” hoặc

“phủ định sự phủ định” có 2 nghĩa cơ bản:

+ Một là, dùng để chỉ quá trình phủ định lặp đi lặp lại trong quá trình vận

động, phát triển của sự vật. (A - B - C..., trong đó: A bị B phủ định, nhưng đến

lượt nó lại bị C phủ định,...).

Ví dụ, quá trình vận động, phát triển của xã hội loài người: xã hội chiếm

hữu nô lệ ra đời là sự phủ định đối với xã hội nguyên thuỷ, đến lượt nó lại bị

xã hội phong kiến phủ định,...

+ Hai là, dùng để chỉ quá trình vận động, phát triển diễn ra dưới hình

thức có tính chu kỳ “xoáy ốc”: sự lặp lại hình thái ban đầu của mỗi chu kỳ phát

triển nhưng trên một cơ sở cao hơn qua hai lần phủ định cơ bản.

Ví dụ, tính chu kỳ của quá trình vận động tăng trưởng, phát triển của

một giống loài thực vật:... hạt - cây - những hạt mới...; hoặc sự vận động tăng

trưởng và phát triển của tư bản (k):... T - H (Tlsx + Slđ)... H' - T' (T + t)...

Câu hỏi 33: Lý luận nhận thức duy vật biện chứng được xác lập trên

cơ sở những nguyên lý (nguyên tắc) cơ bản nào?

Trả lời:

Lý luận nhận thức duy vật biện chứng được xác lập trên cơ sở bốn

nguyên lý cơ bản, đó là:

Thứ nhất, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan độc lập với ý

thức của con người.

Hai là, thừa nhận con người có khả năng nhận thức được thế giới

khách quan; coi nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ

óc của con người, là hoạt động tìm hiểu khách thể của chủ thể; thừa nhận

không có cái gì là không thể nhận thức được mà chỉ có những cái con người

chưa nhận thức được.

Ba là, khẳng định sự phản ánh đó là một quá trình biện chứng, tích cực,

tự giác và sáng tạo. Quá trình phản ánh đó diễn ra theo trình tự từ chưa biết

đến biết, từ biết ít đến nhiều, từ chưa sâu sắc, chưa toàn diện đến sâu sắc và

toàn diện hơn,...

Bốn là, coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức;

là động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.

Câu hỏi 34: Thực tiễn là gì? Nhận thức là gì? Theo quan điểm duy vật

biện chứng: thực tiễn có vai trò gì đối với nhận thức?

Trả lời:

- Khái niệm thực tiễn và các hình thức cơ bản của thực tiễn

+ Khái niệm thực tiễn dùng để chỉ toàn bộ hoạt động vật chất có mục

đích, mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã

hội.

+ Các hình thức cơ bản của thực tiễn:

Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên

của thực tiễn. Đây là hoạt động mà trong đó con người sử dụng những công

cụ lao động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra của cải vật chất, các điều

kiện cần thiết nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của mình.

Hoạt động chính trị - xã hội là hoạt động của các cộng đồng người, các

tổ chức khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những quan hệ chính trị - xã hội

để thúc đẩy xã hội phát triển.

Thực nghiệm khoa học là một hình thức đặc biệt của hoạt động thực

tiễn. Đây là hoạt động được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo

ra, gần giống, giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm

xác định những những quy luật biến đổi, phát triển của đối tượng nghiên cứu.

Mỗi hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn có một chức năng quan

trọng khác nhau, không thể thay thế cho nhau, song chúng có mối quan hệ

chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. Trong mối quan hệ đó, hoạt động sản

xuất vật chất là loại hoạt động có vai trò quan trọng nhất, đóng vai trò quyết

định đối với các hoạt động thực tiễn khác.

- Nhận thức và các trình độ nhận thức

+ Nhận thức là một quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế

giới khách quan vào bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm sáng tạo ra

những tri thức về thế giới khách quan.

+ Các trình độ nhận thức:

Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận. Trong đó, nhận thức kinh

nghiệm là trình độ nhận thức hình thành từ sự quan sát trực tiếp các sự vật,

hiện tượng trong giới tự nhiên, xã hội hoặc qua các thí nghiệm khoa học;

nhận thức lý luận là trình độ nhận thức gián tiếp, trừu tượng, có tính hệ thống

trong việc khái quát bản chất, quy luật của các sự vật, hiện tượng.

Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học. Trong đó, nhận thức

thông thường là loại nhận thức được hình thành một cách tự phát, trực tiếp từ

trong hoạt động hàng ngày của con người; nhận thức khoa học là loại nhận

thức được hình thành một cách tự giác và gián tiếp từ sự phản ánh đặc điểm

bản chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng nghiên cứu.

Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận cũng như nhận thức thông

thường và nhận thức khoa học là những trình độ nhận thức khác nhau nhưng

chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau trong quá trình phát triển nhận

thức của con người.

- Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức

+ Thực tiễn là cơ sở của nhận thức: mọi nhận thức, suy đến cùng đều

nảy sinh trên cơ sở nhu cầu giải quyết các vấn đề từ thực tiễn, đồng thời

chính thực tiễn lại cung cấp cho nó những căn cứ hiện thực để nhận thức giải

quyết các vấn đề đó.

+ Thực tiễn là động lực của sự phát triển của nhận thức: sự phát triển

của nhận thức theo hướng nào và phát triển với tốc độ nào, suy đến cùng đều

do sự thúc đẩy của nhu cầu phát triển thực tiễn theo hướng nào và mức độ

cấp bách nào.

+ Thực tiễn là mục đích của nhận thức: mọi nhận thức, dù trực tiếp hay

gián tiếp, suy đến cùng đều là nhằm sáng tạo ra các tri thức để giải đáp các

vấn đề của thực tiễn.

+ Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý (tiêu chuẩn cuối cùng trong việc

xác định tính chính xác của tri thức): quá trình nhận thức nào thì cuối cùng

cũng đều dẫn tới việc sáng tạo ra các tri thức, nhưng những tri thức đó có

chính xác (tức là có phù hợp với thực tế hay không) thì cuối cùng đều chỉ có

thể được kiểm tra, chứng minh bởi thực tiễn.

Câu hỏi 35: V.I.Lênin đã nhận định thế nào về con đường biện chứng

của sự nhận thức chân lý? Hãy phân tích khái quát nhận định đó và rút ra quy

luật chung của quá trình phát triển nhận thức

Trả lời:

- Nhận định của V.I.Lênin về con đường biện chứng của sự nhận thức

chân lý:

Theo V.I.Lênin, con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, nhận

thức hiện thực khách quan là: từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng,

và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn.

- Phân tích khái quát quan điểm đó

Theo sự nhận định nói trên, con đường biện chứng của sự nhận thức

chân lý (tức sự phản ánh đúng đắn đối với hiện thực khách quan) là một quá

trình. Đó là quá trình bắt đầu từ “trực quan sinh động” (còn gọi là nhận thức

cảm tính) tiến đến “tư duy trừu tượng” (còn gọi là nhận thức lý tính). Nhưng tư

duy trừu tượng không phải là điểm cuối cùng của một chu kỳ nhận thức mà

nhận thức phải tiếp tục tiến tới thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà nhận thức

có thể kiểm tra và chứng minh tính đúng đắn của nó và tiếp tục vòng khâu

tiếp theo của quá trình nhận thức. Đây cũng chính là quy luật chung của quá

trình con người nhận thức về hiện thực khách quan.

+ Giai đoạn từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính:

Nhận thức cảm tính là giai đoạn mở đầu của quá trình nhận thức. Đó là

giai đoạn nhận thức mà con người, trong hoạt động thực tiễn, sử dụng các

giác quan để tiến hành phản ánh các sự vật khách quan, mang tính chất cụ

thể, cảm tính với những biểu hiện phong phú của nó trong mối quan hệ với sự

quan sát của con người. Ở giai đoạn này, nhận thức mới chỉ phản ánh được

cái hiện tượng, cái biểu hiện bên ngoài của sự vật cụ thể, cảm tính trong hiện

thực khách quan mà chưa phản ánh được cái bản chất, quy luật, nguyên

nhân của những hiện tượng quan sát được. Do đó, đây chính là giai đoạn

thấp của quá trình nhận thức. Trong giai đoạn này nhận thức được thực hiện

qua ba hình thức cơ bản là: cảm giác, tri giác và biểu tượng.

Nhận thức lý tính là giai đoạn cao hơn của quá trình nhận thức. Đó là

sự phản ánh gián tiếp, trừu tượng và khái quát những thuộc tính, những đặc

điểm bản chất của sự vật khách quan. Đây là giai đoạn nhận thức thực hiện

chức năng quan trọng nhất là tách ra và nắm lấy cái bản chất, có tính quy luật

của các sự vật, hiện tượng. Nhận thức lý tính được thực hiện thông qua ba

hình thức cơ bản là: khái niệm, phán đoán và suy lý (suy luận).

+ Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính với thực tiễn:

Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là những nấc thang hợp thành

chu trình nhận thức. Trên thực tế chúng thường diễn ra đan xen vào nhau

trong một quá trình nhận thức, song chúng có những chức năng và nhiệm vụ

khác nhau. Nếu nhận thức cảm tính gắn liền với thực tiễn, với sự tác động

của khách thể cảm tính, là cơ sở cho nhận thức lý tính thì nhận thức lý tính,

nhờ có tính khái quát cao, lại có thể hiểu biết được bản chất, quy luật vận

động và phát triển sinh động của sự vật, giúp cho nhận thức cảm tính có

được sự định hướng đúng và trở nên sâu sắc hơn.

Tuy nhiên, nếu dừng lại ở nhận thức lý tính thì con người mới chỉ có

được những tri thức về đối tượng, còn bản thân những tri thức đó có thật sự

chính xác hay không thì con người vẫn chưa thể biết được. Trong khi đó,

nhận thức đòi hỏi phải xác định xem những tri thức đó có chân thực hay

không. Để thực hiện điều này thì nhận thức nhất thiết phải trở về với thực

tiễn, dùng thực tiễn làm tiêu chuẩn, làm thước đo tính chân thực của những tri

thức đã đạt được trong quá trình nhận thức. Mặt khác, mọi nhận thức, suy

đến cùng đều là xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và trở lại phục vụ thực tiễn.

+ Quy luật chung của quá trình phát triển nhận thức:

Từ việc phân tích trên đây có thể thấy: quy luật chung của quá trình

phát triển nhận thức là:... từ thực tiễn đến nhận thức - từ nhận thức (đã có) lại

trở về với thực tiễn (mới) - từ thực tiễn này lại tiếp tục quá trình phát triển của

nhận thức (mới), v.v..

Quá trình này lặp đi lặp lại, không có điểm dừng cuối cùng, trong đó,

trình độ của nhận thức và thực tiễn ở chu kỳ sau thường cao hơn chu kỳ

trước, nhờ đó mà quá trình nhận thức đạt dần tới những tri thức ngày càng

đúng đắn hơn, đầy đủ hơn và sâu sắc hơn về thực tại khách quan.

Đây cũng chính là quan điểm về tính tương đối của nhận thức của con

người trong quá trình phản ánh hiện thực khách quan, tiến dần tới chân lý

ngày càng đầy đủ hơn.

Câu hỏi 36: Chân lý là gì? Chân lý có những tính chất chung nào? Thế

nào là chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối? Chân lý có vai trò gì đối với

thực tiễn?

Trả lời:

- Khái niệm chân lý

Trong phạm vi lý luận nhận thức của chủ nghĩa Mác - Lênin, khái niệm

chân lý dùng để chỉ những tri thức có nội dung phù hợp với thực tế khách

quan; sự phù hợp đó đã được kiểm tra và chứng minh bởi thực tiễn.

Ví dụ, hiểu biết sau đây là một chân lý: “không phải mặt trời xoay quanh

trái đất mà là ngược lại, trái đất xoay quanh mặt trời”.

- Các tính chất của chân lý

Mọi chân lý đều có tính khách quan, tính tương đối, tính tuyệt đối và

tính cụ thể.

+ Tính khách quan của chân lý là nói: tính phù hợp nữa tri thức và thực

tại khách quan; không phụ thuộc ý chí chủ quan.

Ví dụ, sự phù hợp giữa quan niệm “quả đất có hình cầu chứ không phải

hình vuông” là phù hợp với thực tế khách quan; nó không phụ thuộc vào quan

niệm truyền thống đã từng có hàng nghìn năm trước thời Phục hưng.

+ Tính cụ thể của chân lý là nói: tính có điều kiện của mỗi tri thức, phản

ánh sự vật trong các điều kiện xác định không gian, thời gian, góc độ phản

ánh,...).

Ví dụ, mọi phát biểu định lý trong các khoa học đều kèm theo các điều

kiện xác định nhằm đảm bảo tính chính xác của nó: “trong giới hạn của mặt

phẳng, tổng các góc trong của một tam giác là 2 vuông; nước sôi ở 100°c với

điều kiện nước nguyên chất và áp suất 1 atmotphe,...

+ Tính tương đối và tính tuyệt đối của chân lý là nói: mỗi chân lý chỉ

tuyệt đối đúng trong một giới hạn nhất định, còn ngoài giới hạn đó thì nó có

thể không đúng; mặt khác, mỗi chân lý, trong điều kiện xác định, nó mới chỉ

phản ánh được một phần thực tại khách quan.

Ví dụ, trong giới hạn mặt phẳng (có độ cong bằng 0) thì tổng các góc

trong của tam giác tuyệt đối bằng 2 vuông (tính tuyệt đối), nhưng nếu điều

kiện đó thay đổi đi (có độ cong khác 0) thì định lý đó không còn đúng nữa

(tính tương đối), nó cần phải được bổ sung bằng định lý mới (sự phát triển

quá trình nhận thức dần tới chân lý đầy đủ hơn - tức chân lý tuyệt đối).

- Chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối

Chân lý tương đối là chân lý chưa phản ánh được đầy đủ đối với thực

tại khách quan; còn chân lý tuyệt đối là chân lý phản ánh được đầy đủ đối với

thực tại khách quan. Theo nghĩa đó, chân lý tuyệt đối chính là tổng số của

chân lý tương đối xét trong quá trình phát triển của nhận thức nhân loại.

Ví dụ, hai khẳng định sau đây đều là chân lý, nhưng chỉ là chân lý

tương đối: (1) Bản chất của ánh sáng có đặc tính sóng; (2) Bản chất của ánh

sáng có đặc tính hạt. Trên cơ sở hai chân lý đó có thể tiến tới một khẳng định

đầy đủ hơn: ánh sáng mang bản chất lưỡng tính là sóng và hạt.

- Vai trò của chân lý đối với thực tiễn

Để sinh tồn và phát triển, con người phải tiến hành những hoạt động

thực tiễn. Đó là các hoạt động cải biến môi trường tự nhiên và xã hội, đồng

thời cũng qua đó con người thực hiện một cách tự giác hay không tự giác quá

trình hoàn thiện và phát triển chính bản thân mình. Chính quá trình này đã

làm phát sinh và phát triển hoạt động nhận thức của con người. Thế nhưng

hoạt động thực tiễn chỉ có thể thành công và có hiệu quả một khi con người

vận dụng được những tri thức đúng đắn về thực tế khách quan trong chính

hoạt động thực tiễn của mình. Vì vậy, chân lý à một trong những điều kiện

tiên quyết bảo đảm sự thành công và tính hiệu quả trong hoạt động thực tiễn.

Mối quan hệ giữa chân lý và hoạt động thực tiễn là mối quan hệ biện

chứng trong quá trình vận động, phát triển của cả chân lý và thực tiễn: chân lý

phát triển nhờ thực tiễn và thực tiễn phát triển nhờ vận dụng đúng đắn những

chân lý mà con người đã đạt được trong hoạt động thực tiễn.

Quan điểm biện chứng về mối quan hệ giữa chân lý và thực tiễn đòi hỏi

trong hoạt động nhận thức con người cần phải xuất phát từ thực tiễn để đạt

được chân lý, phải coi chân lý cũng là một quá trình. Đồng thời, phải thường

xuyên tự giác vận dụng chân lý vào trong hoạt động thực tiễn để phát triển

thực tiễn, nâng cao hiệu quả hoạt động cải biến giới tự nhiên và xã hội.

Coi trọng tri thức khoa học và tích cực vận dụng sáng tạo những tri

thức đó vào trong các hoạt động kinh tế - xã hội, nâng cao hiệu quả của

những hoạt động đó về thực chất cũng chính là phát huy vai trò của chân lý

khoa học trong thực tiễn hiện nay.

CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

Câu hỏi 37: Theo quan điểm duy vật lịch sử, cái gì đóng vai trò là cơ

sở nền tảng của đời sống xã hội? Tại sao? Quan niệm đó của chủ nghĩa duy

vật lịch sử có ý nghĩa phương pháp luận gì?

Trả lời:

Theo quan điểm duy vật lịch sử, cơ sở nền tảng của mọi xã hội và của

toàn bộ lịch sử xã hội loài người chính là quá trình sản xuất ra của cải vật

chất của xã hội đó (gọi tắt là sản xuất vật chất).

- Khái niệm sản xuất vật chất

Theo nghĩa rộng, sản xuất vật chất không chỉ riêng một quá trình cụ thể

riêng biệt nào mà là chỉ toàn bộ quá trình hoạt động vật chất với mục tiêu làm

cải biến môi trường tự nhiên, cải biến các đối tượng vật chất của giới tự nhiên

của con người.

Quá trình sản xuất vật chất được tiến hành thông qua lao động sản

xuất ra của cải vật chất của con người. Đó là hoạt động có tính khách quan,

tính xã hội, tính lịch sử và tính sáng tạo.

- Khẳng định sản xuất vật chất là cơ sở nền tảng của đời sống xã hội,

vì:

+ Một là, sản xuất vật chất là hoạt động giữ vai trò đảm bảo sự sinh tồn,

phát triển của con người, nó đặc trưng cho phương thức sinh tồn, phát triển

của xã hội loài người, khác căn bản với phương thức sinh tồn tự nhiên, bản

năng của loài vật.

Theo C.Mác: “...tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con người, và

do đó là tiền đề của mọi quá trình lịch sử, đó là: người ta phải có khả năng

sống đã rồi mới có thể “làm ra lịch sử”. Nhưng muốn sống được thì trước hết

cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa.

Như vậy, hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra những tư liệu để thỏa

mãn những nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất”.

+ Hai là, sản xuất vật chất là cơ sở làm nảy sinh tất yếu sự liên kết con

người thành xã hội. Quá trình sản xuất là quá trình con người cải biến giới tự

nhiên, quá trình đó tất yếu làm xuất hiện nhu cầu khách quan: con người buộc

phải liên kết lại với nhau theo những cách thức nhất định - tức là tất yếu làm

nảy sinh những quan hệ sản xuất (quan hệ kinh tế). Từ nhu cầu đó làm nảy

sinh hệ thống các quan hệ khác giữa người với người trên các phương diện:

đạo đức, tín ngưỡng, văn hoá, chính trị, pháp luật,...; tức là làm nảy sinh tổ

chức cộng đồng xã hội, như: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, quốc gia, dân tộc,...

Theo C.Mác: “việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất trực tiếp

và do thế, mỗi một giai đoạn phát triển kinh tế nhất định của một dân tộc hay

một thời đại đều tạo ra một cơ sở, từ đó mà người ta phát triển các thể chế

nhà nước, các quan điểm pháp quyền, nghệ thuật và thậm chí cả những quan

niệm tôn giáo của con người ta”.

- Ý nghĩa phương pháp luận

+ Để phân tích cơ sở cuối cùng của mọi hiện tượng xã hội, quan hệ xã

hội, cần phải xuất phát từ thực tế nền sản xuất vật chất đã làm nảy sinh ra

chúng.

+ Để cải tạo xã hội cũ - lạc hậu và xây dựng xã hội mới - văn minh tiến

bộ thì mấu chốt căn bản của quá trình cách mạng ấy cần phải cải tạo căn bản

trình độ lạc hậu của nền sản xuất cũ và xây dựng được trình độ phát triển của

nền sản xuất mới.

Câu hỏi 38: sản xuất vật chất đóng vai trò là cơ sở nền tảng của toàn

bộ đời sống xã hội, vậy trình độ phát triển của nền sản xuất vật chất của xã

hội căn bản phụ thuộc vào nhân tố nào (nhân tố nào giữ vai trò quyết định)?

Quan điểm đó có ý nghĩa phương pháp luận gì? Cho ví dụ minh hoạ.

Trả lời:

- Theo quan điểm duy vật lịch sử, trình độ phát triển của nền sản xuất

xã hội căn bản phụ thuộc vào trình độ phát triển của phương thức sản xuất

vật chất (gọi tắt là: phương thức sản xuất). Tức là, nền sản xuất vật chất phát

triển ở trình độ nào, điều đó phụ thuộc quyết định vào việc nền sản xuất đó

căn bản dựa trên phương thức sản xuất nào, phát triển ở trình độ nào.

Ví dụ, sự khác nhau căn bản giữa nền sản xuất vật chất của xã hội

phong kiến và xã hội tư bản chính là ở chỗ nền sản xuất vật chất của xã hội

phong kiến căn bản dựa trên phương thức kỹ thuật thủ công, còn nền sản

xuất vật chất của xã hội tư bản căn bản dựa trên trình độ công nghiệp.

- Khái niệm phương thức sản xuất dùng để chỉ cách thức tiến hành quá

trình sản xuất của xã hội ở những giai đoạn lịch sử nhất định.

Ví dụ, xét về phương thức kỹ thuật của quá trình lao động sản xuất:

Phương thức sản xuất của xã hội nguyên thủy có đặc trưng là cách thức kỹ

thuật đánh bắt tự nhiên còn ở trình độ hết sức thô sơ, còn phương thức sản

xuất trong xã hội hiện đại lại có đặc trưng ở trình độ kỹ xảo công nghiệp và

công nghệ cao.

- Nội dung của mỗi phương thức sản xuất

Mỗi phương thức sản xuất đều có hai phương diện cơ bản là phương

diện kỹ thuật và phương diện tổ chức kinh tế. Hai phương diện đó gắn bó

chặt chẽ với nhau. Phương diện kỹ thuật của phương thức sản xuất là chỉ

quá trình sản xuất được tiến hành bằng cách thức kỹ thuật, công nghệ nào để

làm biến đổi các đối tượng của quá trình sản xuất; còn phương diện tổ chức

kinh tế của phương thức sản xuất là chỉ quá trình sản xuất được tiến hành với

những cách thức tổ chức kinh tế nào.

Ví dụ, trong các xã hội nông nghiệp truyền thống, phương thức kỹ thuật

chủ yếu của quá trình sản xuất là các công cụ kỹ thuật thủ công với quy mô

nhỏ và khép kín về phương diện kinh tế. Ngược lại, trong các xã hội hiện đại,

quá trình sản xuất lại được tiến hành với phương thức kỹ thuật công nghiệp

và tổ chức kinh tế thị trường với những quy mô ngày càng mở rộng và không

ngừng phát triển theo hướng phân tách và phụ thuộc vào nhau giữa các khâu

kỹ thuật và tổ chức kinh tế của quá trình sản xuất xã hội.

- Ý nghĩa phương pháp luận:

+ Quan điểm trên là cơ sở khoa học để đánh giá trình độ phát triển nền

sản xuất vật chất của các thời đại.

+ Căn cứ vào quan điểm trên cũng có thể nghiên cứu lịch sử xã hội loài

người theo quan điểm, đó là lịch sử phát triển ở trình độ ngày càng cao hơn

của các phương thức sản xuất: phương thức sản xuất châu Á, cổ đại, phong

kiến và tư sản hiện đại,... (cách nghiên cứu của C.Mác).

+ Để phát triển nền sản xuất vật chất của xã hội (trên nền tảng đó thực

hiện sự phát triển các lĩnh vực khác của xã hội) căn bản phải là xây dựng,

phát triển phương thức sản xuất ở trình độ ngày càng cao hơn.

Ví dụ, căn bản đối với nước ta hiện nay là cần phải tập trung sức đẩy

mạnh quá trình thực hiện công nghiệp hoá theo hướng hiện đại hoá và xây

dựng thành công cách thức tổ chức kinh tế theo phương thức thị trường hiện

đại, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa như đã

được xác định trong các Văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Câu hỏi 39: Sự vận động, phát triển của phương thức sản xuất vật

chất có tuân theo quy luật khách quan hay không? Nếu có thì đó là quy luật

cơ bản nào?

Trả lời:

- Theo quan điểm duy vật lịch sử, sự vận động, phát triển của phương

thức sản xuất từ thấp đến cao không diễn ra theo ý muốn, ý chí chủ quan của

con người mà tuân theo quy luật khách quan, trong đó quy luật cơ bản nhất,

quyết định quá trình đó là: quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính

chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

- Phát biểu khái quát nội dung quy luật này:

Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt tất yếu của mọi quá

trình sản xuất; giữa chúng có mối quan hệ thống nhất biện chứng tạo thành

cách thức hiện thực của quá trình sản xuất ra của cải vật chất của xã hội.

Trong mối quan hệ đó, lực lượng sản xuất là nội dung vật chất (kỹ thuật, công

nghệ,...) của quá trình sản xuất - nó là yếu tố “động”, có tính cách mạng; còn

quan hệ sản xuất lại là hình thức kinh tế - xã hội của quá trình đó - nó là yếu

tố tương đối “tĩnh”. Dưới hình thức kinh tế thích hợp, lực lượng sản xuất

không ngừng được tái tạo, phát triển. Khi sự phát triển đó đến một giới hạn

nhất định, tất yếu sẽ xuất hiện nhu cầu khách quan phải cải biến, cách mạng

đối với quan hệ sản xuất hiện thời, xác lập quan hệ sản xuất mới, phù hợp với

lực lượng sản xuất đã phát triển, có tác dụng tiếp tục quá trình phát triển của

lực lượng sản xuất.

Câu hỏi 40: Lực lượng sản xuất là gì? Quan hệ sản xuất là gì? Lực

lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ như thế nào? Từ việc

hiểu biết mối quan hệ đó có thể rút ra ý nghĩa phương pháp luận nào? Cho ví

dụ minh hoạ.

Trả lời:

- Khái niệm lực lượng sản xuất

+ Khái niệm lực lượng sản xuất dùng để chỉ tổng thể các yếu tố cấu

thành nội dung vật chất, kỹ thuật, công nghệ,... của quá trình sản xuất, tạo

thành năng lực thực tiễn cải biến giới tự nhiên của con người. Với nghĩa như

vậy, lực lượng sản xuất cũng đóng vai trò phản ánh căn bản trình độ chinh

phục giới tự nhiên của con người.

+ Các yếu tố (nhân tố) tạo thành lực lượng sản xuất gồm có: tư liệu sản

xuất (trong đó, công cụ sản xuất là yếu tố phản ánh rõ ràng nhất trình độ

chinh phục tự nhiên của con người) và người lao động (trong đó năng lực

sáng tạo của nó là yếu tố đặc biệt quan trọng).

Trong hai nhóm yếu tố nói trên, người lao động là nhân tố quan trọng

nhất (bởi vì, tư liệu sản xuất có nguồn gốc từ lao động của con người và

được sử dụng bởi con người).

- Khái niệm quan hệ sản xuất

+ Khái niệm quan hệ sản xuất dùng để chỉ tổng thể mối quan hệ kinh tế

(quan hệ giữa người với người về mặt thực hiện lợi ích vật chất trong quá

trình sản xuất và tái sản xuất xã hội).

+ Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất,

quan hệ trong tổ chức - quản lý quá trình sản xuất và quan hệ trong phân phối

kết quả của quá trình sản xuất đó.

Những quan hệ sản xuất này tồn tại trong mối quan hệ thống nhất và

chi phối, tác động lẫn nhau trên cơ sở quyết định của quan hệ sở hữu về tư

liệu sản xuất.

- Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan

hệ sản xuất

+ Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối

quan hệ thống nhất biện chứng (phụ thuộc, ràng buộc nhau, tác động lẫn

nhau) tạo thành quá trình sản xuất hiện thực của xã hội.

Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cơ bản, tất yếu của

quá trình sản xuất, trong đó lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của quá

trình sản xuất, còn quan hệ sản xuất là hình thức kinh tế của quá trình đó.

Trong đời sống hiện thực, không thể có sự kết hợp các nhân tố của quá trình

sản xuất để tạo ra năng lực thực tiễn cải biến các đối tượng vật chất tự nhiên

lại có thể diễn ra bên ngoài những hình thức kinh tế nhất định. Ngược lại,

cũng không có một quá trình sản xuất nào có thể diễn ra trong đời sống hiện

thực chỉ với những quan hệ sản xuất không có nội dung vật chất của nó.

Như vậy, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại trong tính quy

định lẫn nhau, thống nhất với nhau. Đây là yêu cầu tất yếu, phổ biến diễn ra

trong mọi quá trình sản xuất hiện thực của xã hội. Tương ứng với thực trạng

phát triển nhất định của lực lượng sản xuất cũng tất yếu đòi hỏi phải có quan

hệ sản xuất phù hợp với thực trạng đó trên cả ba phương diện: sở hữu tư liệu

sản xuất, tổ chức - quản lý và phân phối. Chỉ có như vậy, lực lượng sản xuất

mới có thể được duy trì, khai thác - sử dụng và không ngừng phát triển.

Ngược lại, lực lượng sản xuất của một xã hội chỉ có thể được duy trì, khai

thác - sử dụng và phát triển trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.

+ Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối

quan hệ biện chứng nhưng trong đó, vai trò quyết định thuộc về lực lượng

sản xuất, còn quan hệ sản xuất giữ vai trò tác động trở lại lực lượng sản xuất.

Mối quan hệ thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

tuân theo nguyên tắc khách quan: quan hệ sản xuất phải phụ thuộc vào thực

trạng phát triển của lực lượng sản xuất trong mỗi giai đoạn lịch sử xác định;

bởi vì, quan hệ sản xuất chỉ là hình thức kinh tế của quá trình sản xuất còn

lực lượng sản xuất là nội dung vật chất, kỹ thuật của quá trình đó.

Tuy nhiên, quan hệ sản xuất, với tư cách là hình thức kinh tế của quá

trình sản xuất, nó luôn luôn có khả năng tác động trở lại sự vận động, phát

triển của lực lượng sản xuất. Sự tác động này có thể diễn ra theo chiểu

hướng tích cực hoặc tiêu cực, điều đó phụ thuộc vào tính phù hợp hay không

phù hợp của quan hệ sản xuất với thực trạng và nhu cầu khách quan của sự

vận động, phát triển lực lượng sản xuất. Nếu “phù hợp” sẽ có tác dụng tích

cực và ngược lại, “không phù hợp” sẽ có tác dụng tiêu cực.

+ Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối

quan hệ có bao hàm khả năng chuyển hóa thành các mặt đối lập làm phát

sinh mâu thuẫn cần được giải quyết để thúc đẩy sự tiếp tục phát triển của lực

lượng sản xuất.

Trong phạm vi tương đối ổn định của một hình thức kinh tế xác định,

lực lượng sản xuất của xã hội được bảo tồn, không ngừng được khai thác -

sử dụng và phát triển trong quá trình sản xuất và tái sản xuất của xã hội.

Tính ổn định, phù hớp của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất

càng cao thì lực lượng sản xuất càng có, khả năng phát triển, nhưng chính sự

phát triển của lực lượng sản xuất lại luôn luôn tạo ra khả năng phá vỡ sự

thống nhất của những quan hệ sản xuất từ trước đến nay đóng vai trò là hình

thức kinh tế cho sự phát triển của nó. Những quan hệ sản xuất này, từ chỗ là

những hình thức phù hợp và cần thiết cho sự phát triển của các lực lượng

sản xuất đã trở thành những hình thức kìm hãm sự phát triển đó, nó đã tạo ra

một mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, từ đó xuất hiện

nhu cầu khách quan phải thiết lập lại mối quan hệ thống nhất giữa chúng theo

nguyên tắc quan hệ sản xuất phải phù hợp với nhu cầu phát triển của lực

lượng sản xuất.

Khi phân tích sự vận động của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng

sản xuất và quan hệ sản xuất, C.Mác đã từng chỉ ra rằng: “Tới một giai đoạn

phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu

thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có... trong đó từ trước đến nay các

lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của

lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các

lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội”.

Chính nhờ các cuộc cách mạng xã hội mà những quan hệ sản xuất cũ của xã

hội được thay thế bằng một quan hệ sản xuất mới, phù hợp với nhu cầu phát

triển của lực lượng sản xuất đã phát triển, tiếp tục phát huy tác dụng tích cực

thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất trong một hình thức quan hệ

sản xuất mới.

- Ý nghĩa phương pháp luận

+ Để xác lập, hoàn thiện hệ thống quan hệ sản xuất của xã hội, cần

phải căn cứ vào thực trạng (tình hình thực tế) phát triển của lực lượng sản

xuất hiện có để xác lập nó cho phù hợp chứ không phải căn cứ vào ý muốn

chủ quan. Chỉ có như vậy mới có thể tạo ra được hình thức kinh tế thích hợp

cho việc bảo tồn, khai thác - sử dụng, tái tạo và phát triển lực lượng sản xuất

của xã hội.

+ Khi đã xuất hiện mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển của lực lượng

sản xuất với quan hệ sản xuất đang kìm hãm sự phát triển đó thì cần phải có

những cuộc cải biến (cải cách, đổi mới,...) mà cao hơn là một cuộc cách

mạng chính trị để có thể giải quyết được mâu thuẫn này.

Ví dụ, trong quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa vào trước

những năm 80 của thế kỷ XX, nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã rơi vào bệnh

chủ quan duy ý chí, chưa tuân theo thật đúng yêu cầu của quy luật này. Do đó

đã dẫn đến tình trạng lực lượng sản xuất hiện có không được bào tồn, tái tạo

và phát triển tốt. Thực tế đó là nguyên nhân căn bản và sâu xa dẫn tới sự

khủng hoảng kinh tế lớn, buộc các nước này phải tiến hành những cuộc cải

cách, đổi mới theo hướng tạo lập sự phù hợp của quan hệ sản xuất với thực

tế trình độ phát triển lực lượng sản xuất, nhờ đó lực lượng sản xuất của xã

hội từng bước được phục hồi và phát triển.

Câu hỏi 41: Cơ sở hạ tầng là gì? Kiến trúc thượng tầng là gì? Trong xã

hội có giai cấp, yếu tố nào là yếu tố giữ vai trò trọng yếu của kiến trúc thượng

tầng?

Trả lời:

- Khái niệm cơ sở hạ tầng

+ Khái niệm:

Với tư cách là phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, khái niệm

cơ sở hạ tầng dùng để chỉ toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu

kinh tế của xã hội.

Như vậy, thực chất đây là nói cơ sở kinh tế của xã hội; không phải nói

kết cấu hạ tầng kỹ thuật của xã hội - là cái thuộc về lực lượng sản xuất.

Ví dụ, cơ sở hạ tầng (hay cơ sở kinh tế) của nước ta trong thời kỳ quá

độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay là một kết cấu kinh tế nhiều thành phần (kinh

tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân tư bản,...) trong đó thành phần

kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kết cấu đó được xác lập trên cơ sở hệ

thống ba loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất: sở hữu toàn dân do nhà nước

thống nhất quản lý, sở hữu tập thể của những người lao động, sở hữu tư

nhân với nhiều hình thức cụ thể khác nhau; trên cơ sở đó, hình thành nên

nhiều hình thức tổ chức kinh doanh đan xen hỗn hợp với nhiều loại hình phân

phối đa dạng.

+ Kết cấu chung của cơ sở hạ tầng:

Cơ sở hạ tầng của một xã hội, trong toàn bộ sự vận động của nó, được

tạo nên bởi các quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư và quan

hệ sản xuất mới tồn tại dưới hình thái mầm mống, đại biểu cho sự phát triển

của xã hội tương lai, trong đó quan hệ sản xuất thống trị chiếm địa vị chủ đạo,

chi phối các quan hệ sản xuất khác, định hướng sự phát triển của đời sống

kinh tế - xã hội và giữ vai trò là đặc trưng cho chế độ kinh tế của một xã hội

nhất định.

+ Kết cấu ba bộ phận của cơ sở hạ tầng phản ánh điều gì?

Sự tồn tại của ba loại hình quan hệ sản xuất cấu thành cơ sở hạ tầng

của một xã hội phản ánh tính chất vận động, phát triển liên tục của lực lượng

sản xuất với các tính chất kế thừa, phát huy và phát triển.

- Khái niệm kiến trúc thượng tầng

+ Khái niệm:

Với tư cách là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, khái

niệm kiến trúc thượng tầng dùng để chỉ toàn bộ hệ thống kết cấu các hình thái

ý thức xã hội cùng với các thiết chế chính trị - xã hội tương ứng, được hình

thành trên một cơ sở hạ tầng kinh tế nhất định.

+ Kết cấu chung của kiến trúc thượng tầng:

Kiến trúc thượng tầng của mỗi xã hội là một kết cấu phức tạp, có thể

được phân tích từ những giác độ khác nhau, từ đó cho thấy mối quan hệ đan

xen và chi phối lẫn nhau của chúng. Từ giác độ chung nhất, có thể thấy kiến

trúc thượng tầng của một xã hội bao gồm: hệ thống các hình thái ý thức xã

hội (hình thái ý thức chính trị, pháp quyền, tôn giáo,...) và các thiết chế chính

trị - xã hội tương ứng của chúng (nhà nước, chính đảng, giáo hội,...).

- Yếu tố trọng yếu của kiến trúc thượng tầng trong điều kiện xã hội có

đối kháng giai cấp là yếu tố nào?

Trong xã hội có giai cấp, đặc biệt là trong các xã hội hiện đại, hình thái

ý thức chính trị và pháp quyền cùng hệ thống thiết chế, tổ chức chính đảng và

nhà nước là hai thiết chế, tổ chức quan trọng nhất trong hệ thống kiến trúc

thượng tầng của xã hội.

Nhà nước là một bộ máy tổ chức quyền lực và thực thi quyền lực đặc

biệt của xã hội trong điều kiện xã hội có đối kháng giai cấp. Về danh nghĩa,

nhà nước là hệ thống tổ chức đại biểu cho quyền lực chung của xã hội để

quản lý, điều khiển mọi hoạt động của xã hội và công dân, thực hiện chức

năng chính trị và chức năng xã hội cùng chức năng đối nội và đối ngoại của

quốc gia. Về thực chất, bất cứ nhà nước nào cũng là công cụ quyền lực thực

hiện chuyên chính giai cấp của giai cấp thống trị, tức giai cấp nắm giữ được

những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, nó chính là chủ thể thực sự của

quyền lực nhà nước.

Câu hỏi 42: Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có mối quan hệ

nào? Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ việc nghiên cứu mối quan hệ đó.

Cho ví dụ minh hoạ

Trả lời:

- Khái quát mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai phương diện cơ bản của

đời sống xã hội (phương diện kinh tế và phương diện chính trị - xã hội);

chúng tồn tại trong mối quan hệ thống nhất biện chứng với nhau, tác động lẫn

nhau, trong đó cơ sở hạ tầng đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng

tầng; đồng thời, kiến trúc thượng tầng thường xuyên có sự tác động trở lại

(theo chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực) đối với cơ sở hạ tầng.

- Phân tích vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc

thượng tầng

Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng được

thể hiện trên các phương diện cơ bản sau:

+ Tương ứng với một cơ sở hạ tầng nhất định tất yếu sẽ sản sinh một

kiến trúc thượng tầng phù hợp với nó, có tác dụng bảo vệ cơ sở hạ tầng đó.

Ví dụ, tương ứng với cơ sở hạ tầng căn bản dựa trên chế độ sở hữu tư

nhân tư bản chủ nghĩa thì đương nhiên sẽ tồn tại quyền lực thống trị của giai

cấp tư sản đối với nhà nước trong kiến trúc thượng tầng.

+ Những biến đổi trong cơ sở hạ tầng sẽ tất yếu tạo ra nhu cầu khách

quan phải có sự biến đổi tương ứng trong kiến trúc thượng tầng.

Ví dụ, những biến đổi trong kết cấu và cơ chế vận hành của nền kinh tế

thị trường các nước tư bản chủ nghĩa ở đầu thế kỷ XX đòi hỏi phải có sự thay

đổi chức năng của nhà nước tư sản - xuất hiện chức năng kinh tế của nhà

nước đó so với trước đây (thế kỷ XIX).

+ Tính chất mâu thuẫn trong cơ sở hạ tầng được phản ánh thành mâu

thuẫn trong hệ thống kiến trúc thượng tầng.

Ví dụ, sự đấu tranh trong lĩnh vực ý thức hệ xã hội và những xung đột

lợi ích chính trị - xã hội có nguyên nhân sâu xa từ mâu thuẫn và cuộc đấu

tranh giành lợi ích trong cơ sở kinh tế của xã hội.

+ Giai cấp nắm giữ quyền sở hữu tư liệu sản xuất của xã hội đồng thời

cũng là giai cấp nắm được quyền lực nhà nước trong kiến trúc thượng tầng

còn các giai cấp và tầng lớp xã hội khác ở vào địa vị phụ thuộc đối với quyền

lực nhà nước. Các chính sách và pháp luật của nhà nước, suy đến cùng chỉ

là phản ánh nhu cầu thống trị về kinh tế của giai cấp nắm giữ quyền sở hữu

những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội.

- Tại sao cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng?

+ Tính chất phụ thuộc của kiến trúc thượng tầng vào cơ sở hạ tầng có

nguyên nhân từ tính tất yếu kinh tế đối với toàn bộ các lĩnh vực sinh hoạt của

xã hội, dù đó là lĩnh vực thực tiễn chính trị, pháp luật,... hay lĩnh vực sinh hoạt

tinh thần của xã hội. Tính tất yếu kinh tế lại phụ thuộc vào tính tất yếu của nhu

cầu duy trì và phát triển các lực lượng sản xuất khách quan của xã hội.

+ Mặt khác, bản chất của lĩnh vực cơ sở hạ tầng là lĩnh vực của những

quan hệ kinh tế - tức quan hệ vật chất của xã hội; còn bản chất của kiến trúc

thượng tầng thuộc lĩnh vực ý thức xã hội (các thiết chế chính trị - xã hội được

thiết lập trực tiếp từ những quan điểm chính trị - xã hội).

- Phân tích vai trò của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng

+ Mọi yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều có vai trò tác động, ảnh

hưởng trở lại cơ sở hạ tầng của xã hội theo những phương thức khác nhau,

trực tiếp hoặc gián tiếp, nhiều hay ít, mức độ lớn hay nhỏ,...

Ví dụ, tác động của thiết chế pháp luật thường là trực tiếp và mạnh mẽ

nhất, còn các thiết chế tôn giáo thường biểu hiện gián tiếp và mờ nhạt hơn,...

+ Sự tác động của các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng có thể diễn ra

theo nhiều xu hướng, thậm chí các xu hướng không chỉ khác nhau mà còn có

thể đối lập nhau, điều đó phản ánh tính chất mâu thuẫn lợi ích của các giai

cấp, các tầng lớp xã hội khác nhau và đối lập nhau: có sự tác động nhằm duy

trì cơ sở kinh tế hiện tại, tức xu hướng duy trì chế độ xã hội hiện thời, lại có

sự tác động theo xu hướng xóa bỏ cơ sở kinh tế này và có xu hướng đấu

tranh cho việc xác lập một cơ sở kinh tế khác, xây dựng một chế độ xã hội

khác,...

+ Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng có thể

diễn ra theo xu hướng tích cực hoặc tiêu cực, điều đó phụ thuộc vào sự phù

hợp hay không phù hợp của các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng đối với

nhu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế; nếu phù hợp nó sẽ có tác dụng

tích cực, ngược lại sẽ có tác dụng tiêu cực, kìm hãm và phá hoại sự phát triển

kinh tế trong một phạm vi và mức độ nhất định.

Ví dụ, nếu thiết chế pháp luật phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế thì

nó sẽ có tác dụng thúc đẩy hoạt động kinh tế phát triển; ngược lại, sẽ kìm

hãm sự phát triển kinh tế.

Câu hỏi 43: Tồn tại xã hội là gì? Ý thức xã hội là gì?

Trả lời:

- Khái niệm tồn tại xã hội

+ Khái niệm:

Khái niệm tồn tại xã hội dùng để chỉ toàn bộ sinh hoạt vật chất và điều

kiện sinh hoạt vật chất của mỗi cộng đồng người trong những điều kiện lịch

sử xác định.

+ Các yếu tố cơ bản tạo thành điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội,

gồm có:

Một là, phương thức sản xuất ra của cải vật chất của xã hội đó. Ví dụ,

phương thức kỹ thuật canh nông lúa nước nhân tố cơ bản tạo thành điều kiện

sinh hoạt vật chất truyền thống của người Việt Nam.

Hai là, các yếu tố thuộc về điều kiện tự nhiên - hoàn cảnh địa lý, như:

các điều kiện khí hậu, đất đai, sông hồ,... tạo nên đặc điểm riêng có của

không gian sinh tồn của cộng đồng xã hội.

Ba là, các yếu tố dân cư, bao gồm: cách thức tổ chức dân cư, tính chất

lưu dân cư, mô hình tổ chức dân cư,...

Các yếu tố đó tồn tại trong mối quan hệ thống nhất biện chứng, tác

động lẫn nhau tạo thành điều kiện sinh tồn và phát triển của xã hội, trong đó

phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất.

Ví dụ, trong điều kiện địa lý tự nhiên nhiệt đới, gió mùa, nhiều sông

ngòi,... tất yếu làm hình thành nên phương thức canh tác lúa nước là thích

hợp nhất đối với người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử hàng nghìn năm

qua. Để tiến hành được phương thức đó, người Việt buộc phải co cụm lại

thành tổ chức dân cư làng, xã, có tính ổn định bền vững,...

- Khái niệm ý thức xã hội

+ Khái niệm:

Khái niệm ý thức xã hội dùng để chỉ phương diện sinh hoạt tinh thần

của xã hội, nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những

giai đoạn phát triển nhất định.

+ Kết cấu của ý thức xã hội:

Có thể phân tích từ những góc độ khác nhau:

Một là, theo nội dung và lĩnh vực phản ánh đời sống xã hội, ý thức xã

hội bao gồm các hình thái khác nhau, đó là ý thức chính trị, ý thức pháp

quyền, ý thức đạo đức, ý thức tôn giáo, ý thức thẩm mỹ, ý thức khoa học,...

Hai là, theo trình độ phản ánh của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội có

thể phân biệt ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận. Ý thức xã hội

thông thường là toàn bộ những tri thức, những quan niệm... của những con

người trong một cộng đồng người nhất định, được hình thành một cách trực

tiếp từ hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ thống hóa, khái quát

hóa thành lý luận. Ý thức lý luận là những tư tưởng, quan điểm đã được hệ

thống hóa, khái quát hóa thành các học thuyết xã hội, được trình bày dưới

dạng những khái niệm, phạm trù, quy luật. Ý thức lý luận khoa học có khả

năng phản ánh hiện thực khách quan một cách khái quát, sâu sắc và chính

xác, vạch ra các mối liên hệ bản chất của các sự vật và hiện tượng. Ý thức lý

luận đạt trình độ cao và mang tính hệ thống tạo thành các hệ tư tưởng.

Ba là, cũng có thể phân tích ý thức xã hội theo hai trình độ và hai

phương thức phản ánh đối với tồn tại xã hội, đó là tâm lý xã hội và hệ tư

tưởng xã hội. Tâm lý xã hội là toàn bộ đời sống tình cảm, tâm trạng, khát

vọng, ý chí,... của những cộng đồng người nhất định; là sự phản ánh trực tiếp

và tự phát đối với hoàn cảnh sống của họ. Hệ tư tưởng xã hội là toàn bộ các

hệ thống quan niệm, quan điểm xã hội như: chính trị, triết học, đạo đức, nghệ

thuật, tôn giáo,...; là sự phản ánh gián tiếp và tự giác đối với tồn tại xã hội.

Câu hỏi 44: Phân tích quan điểm duy vật lịch sử về vai trò của tồn tại

xã hội đối với ý thức xã hội và tính độc lập tương đối của ý thức xã hội? Quan

điểm đó có ý nghĩa phương pháp luận gì?

Trả lời:

- Quan điểm duy vật lịch sử về vai trò của tồn tại xã hội đối với ý thức

xã hội

+ Theo quan điểm duy vật lịch sử: tồn tại xã hội giữ cai trò quyết định ý

thức xã hội. Đây là kết luận tất yếu của sự vận dụng nguyên lý vật chất quyết

định ý thức vào việc phân tích lĩnh vực đời sống xã hội.

+ Tính quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội được phân tích

căn bản trên hai phương diện:

Một là, tồn tại xã hội nào thì ý thức xã hội đó (xét theo tính chất, đặc

trưng, kết cấu, trình độ phát triển,... của ý thức xã hội).

Hai là, những biến đổi của ý thức xã hội đều có nguyên nhân sâu xa từ

sự biến đổi của tồn tại xã hội, đặc biệt là sự biến đổi của phương thức sản

xuất.

- Quan điểm duy vật lịch sử về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội

Quan điểm duy vật biện chứng về xã hội không chỉ khẳng định tính

quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội mà còn làm sáng tỏ những

nội dung của tính độc lập tương đối của ý thức xã hội. Nội dung tính độc lập

tương đối của ý thức xã hội được phân tích trên các phương diện chính sau

đây:

+ Thứ nhất, ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội.

Theo nguyên lý tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội thì khi tồn tại xã

hội biến đổi sẽ tất yếu dẫn tới những sự biến đổi của ý thức xã hội. Tuy nhiên,

không phải trong mọi trường hợp, sự biến đổi của tồn tại xã hội đều ngay lập

tức dẫn đến sự biến đổi của ý thức xã hội; trái lại, nhiều yếu tố của ý thức xã

hội (trong đời sống tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội) có thể còn tồn tại rất

lâu dài ngay cả khi cơ sở tồn tại xã hội sản sinh ra nó đã được thay đổi căn

bản, sở dĩ như vậy là vì:

Một là, do bản chất của ý thức xã hội chỉ là sự phản ánh của tồn tại xã

hội cho nên nói chung ý thức xã hội chỉ có thể biến đổi sau khi có sự biến đổi

của tồn tại xã hội. Mặt khác, sự biến đổi của tồn tại xã hội do sự tác động

mạnh mẽ, thường xuyên và trực tiếp của hoạt động thực tiễn, diễn ra với tốc

độ nhanh mà ý thức không thể phản ánh kịp.

Hai là, do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như do

tính lạc hậu, bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội.

Ba là, ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập

đoàn người, những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy, những tư tưởng

cũ, lạc hậu thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ và truyền

bá nhằm chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ.

+ Thứ hai, ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội.

Khi khẳng định tính thường lạc hậu hơn của ý thức xã hội so với tồn tại

xã hội, chủ nghĩa duy vật lịch sử đồng thời thừa nhận rằng, trong những điều

kiện nhất định, tư tưởng của con người, đặc biệt những tư tưởng khoa học

tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, dự báo được tương

lai và có tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người, hướng

hoạt động đó vào việc giải quyết những nhiệm vụ mới do sự phát triển chín

muồi của đời sống vật chất của xã hội đặt ra. Tuy nhiên, suy đến cùng, khả

năng phản ánh vượt trước ý thức xã hội vẫn phụ thuộc vào tồn tại xã hội.

+ Thứ ba, ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển.

Lịch sử phát triển đời sống tinh thần của xã hội cho thấy rằng, những

quan điểm lý luận của mỗi thời đại không xuất hiện trên mảnh đất trống không

mà được tạo ra trên cơ sở kế thừa những tài liệu lý luận của các thời đại

trước.

Do ý thức có tính kế thừa trong sự phát triển, nên không thể giải thích

được một tư tưởng nào đó nếu chỉ dựa vào những quan hệ kinh tế hiện có,

không chú ý đến các giai đoạn phát triển tư tưởng trước đó. Lịch sử phát triển

của tư tưởng đã cho thấy những giai đoạn hưng thịnh hoặc suy tàn của triết

học, văn học, nghệ thuật, v.v. nhiều khi không phù hợp hoàn toàn với những

giai đoạn hưng thịnh hoặc suy tàn của kinh tế.

Trong xã hội có giai cấp, tính chất kế thừa của ý thức xã hội gắn với

tính chất giai cấp của nó. Những giai cấp khác nhau kế thừa những nội dung

ý thức khác nhau của các thời đại trước. Các giai cấp tiên tiến tiếp nhận

những di sản tư tưởng tiến bộ của xã hội cũ để lại.

+ Thứ tư, sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự

phát triển của chúng.

Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội là một nguyên

nhân làm cho trong mỗi hình thái ý thức có những mặt, những tính chất không

thể giải thích được một cách trực tiếp từ tồn tại xã hội.

+ Thứ năm, ý thức xã hội có khả năng tác động trở lại tồn tại xã hội.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những phê phán quan điểm duy tâm

(tuyệt đối hóa vai trò của ý thức xã hội) mà còn bác bỏ quan điểm duy vật tầm

thường hay “chủ nghĩa duy vật kinh tế” (tức quan điểm phủ nhận tác dụng tích

cực của ý thức xã hội trong đời sống xã hội). Theo Ph.Ăngghen: “Sự phát

triển về mặt chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, v.v.

đều dựa vào sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn

nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế”. Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối

với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể, vào tính

chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh, vai trò lịch sử

của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng; vào mức độ phản ánh đúng đắn của tư

tưởng đối với các nhu cầu phát triển xã hội, vào mức độ mở rộng của tư

tưởng trong quần chúng, v.v.. Cũng do đó, ở đây cần phân biệt vai trò của ý

thức tư tưởng tiến bộ và ý thức tư tưởng phản tiến bộ đối với sự phát triển

của xã hội.

- Ý nghĩa phương pháp luận

+ Để nhận thức đúng các hiện tượng thuộc đời sống ý thức xã hội thì

một mặt, cần phải căn cứ vào tồn tại xã hội đã làm nảy sinh ra nó, mặt khác

cũng cần phải giải thích các hiện tượng đó từ những phương diện khác nhau

thuộc nội dung tính độc lập tương đối của chúng.

Ví dụ, chỉ có thể giải thích đúng bản chất và nguồn gốc tâm lý xã hội

của con người Việt Nam truyền thống (như: tâm lý tiểu nông, coi trọng làng,

xã, sinh hoạt lễ hội theo mùa,...) nếu xuất phát từ cơ sở tồn tại xã hội truyền

thống của nó là phương thức canh tác lúa nước trong điều kiện trình độ kỹ

thuật thủ công với hình thức tổ chức dân cư cộng đồng làng xã khép kín, tự

cấp tự túc,... Sẽ là sai lầm nếu xuất phát từ cái gọi là “bản tính cố hữu” của

người Việt để giải thích đời sống tâm lý đó.

+ Trong thực tiễn cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới cần phải được

tiến hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong đó

việc thay đổi tồn tại xã hội cũ là điều kiện cơ bản nhất để thay đổi ý thức xã

hội cũ. Đồng thời, cũng cần thấy rằng không chỉ những biến đổi trong tồn tại

xã hội mới tất yếu dẫn đến những thay đổi to lớn trong đời sống tinh thần của

xã hội mà ngược lại, những tác động của đời sống tinh thần xã hội, với những

điều kiện xác định cũng có thể tạo ra những biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong

tồn tại xã hội.

Ví dụ, Đảng ta trong khi coi trọng chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại

hoá để xác lập phương thức sản xuất mới ở nước ta (coi đó là nhiệm vụ trung

tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội) thì đồng thời cũng hết sức coi

trọng công tác tư tưởng văn hoá. Đó là một chủ trương đúng đắn, khoa học,

xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về vai trò quyết định của

tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội và về tính độc lập tương đối của ý thức xã

hội.

Câu hỏi 46: Hình thái kinh tế - xã hội là gì? Mỗi hình thái kinh tế - xã

hội được cấu thành từ những yếu tố cơ bản nào? Hiểu thế nào về luận điểm

của C.Mác: “sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình

lịch sử - tự nhiên”? Nhân tố chủ quan đóng vai trò gì đối với tiến trình lịch sử?

Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu lý luận hình thái kinh tế - xã

hội?

Trả lời:

- Khái niệm “hình thái kinh tế - xã hội”

Với tư cách là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, khái

niệm hình thái kinh tế - xã hội dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất

định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một

trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng

tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.

- Các yếu tố hợp thành một hình thái kinh tế - xã hội

+ Phương pháp luận của sự phân tích các yếu tố cấu thành một hình

thái kinh tế - xã hội:

Xã hội là tổng thể của nhiều lĩnh vực với những mối quan hệ xã hội hết

sức phức tạp. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã vận dụng

phương pháp luận duy vật biện chứng để phân tích đời sống xã hội, tiến hành

trừu tượng hóa các quan hệ xã hội và phân tách ra những quan hệ sản xuất,

tức là những quan hệ kinh tế tồn tại một cách khách quan, tất yếu không phụ

thuộc vào ý chí con người, tiến hành “giải phẫu” những quan hệ đó. Đồng thời

phân tích những quan hệ đó trong mối quan hệ phụ thuộc của nó với thực

trạng phát triển của lực lượng sản xuất hiện thực. Phân tích những quan hệ

đó trong mối quan hệ với toàn bộ những quan hệ xã hội khác, tức với những

quan hệ thuộc kiến trúc thượng tầng chính trị - xã hội, từ đó cho thấy rõ xã hội

là một hệ thống cấu trúc với các lĩnh vực cơ bản tạo thành. V.I.Lênin từng

nhấn mạnh rằng: “Chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ

sản xuất và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực

lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm

sự phát triển của những hình thái xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”.

+ Các yếu tố cấu thành một hình thái kinh tế - xã hội:

Một là, các lực lượng sản xuất của xã hội ở một trình độ phát triển nhất

định, đóng vai trò là cơ sở vật chất - kỹ thuật của xã hội đó.

Hai là, hệ thống quan hệ sản xuất được hình thành trên cơ sở thực

trạng phát triển của lực lượng sản xuất, đóng vai trò là hình thức kinh tế của

các lực lượng sản xuất đó; những quan hệ sản xuất này hợp thành một cơ

cấu kinh tế của xã hội, đóng vai trò là cơ sở hạ tầng kinh tế của việc xác lập

trên đó một kiến trúc thượng tầng nhất định.

Ba là, hệ thống kiến trúc thượng tầng được xác lập trên cơ sở hạ tầng

kinh tế, đóng vai trò là các hình thức chính trị, pháp luật, đạo đức, văn hoá,...

của các quan hệ sản xuất của xã hội.

- Hiểu thế nào về luận điểm của C.Mác: sự phát triển của các hình thái

kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên?

Theo C.Mác: sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá

trình lịch sử - tự nhiên.

Luận điểm đó được phân tích ở các nội dung chủ yếu sau đây:

Một là, sự vận động và phát triển của xã hội không tuân theo ý chí chủ

quan của con người mà tuân theo các quy luật khách quan, đó là các quy luật

của chính bản thân cấu trúc hình thái kinh tế - xã hội, là hệ thống các quy luật

xã hội thuộc các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học,... trong đó, cơ

bản nhất là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực

lượng sản xuất và quy luật kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng.

Hai là, nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển của xã hội, của lịch

sử nhân loại, của mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa,... của xã hội, suy

đến cùng đều có nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp từ sự phát triển của lực

lượng sản xuất của xã hội đó.

Ba là, quá trình phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội, tức là quá

trình thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử nhân loại

và đó là sự phát triển của lịch sử xã hội loài người, có thể do sự tác động của

nhiều nhân tố chủ quan, nhưng nhân tố giữ vai trò quyết định chính là sự tác

động của các quy luật khách quan. Dưới sự tác động của quy luật khách quan

mà lịch sử nhân loại, xét trong tính chất toàn bộ của nó, là quá trình thay thế

tuần tự của các hình thái kinh tế - xã hội: nguyên thủy, nô lệ, phong kiến, tư

bản chủ nghĩa và tương lai nhất định thuộc về hình thái kinh tế - xã hội cộng

sản chủ nghĩa.

- Nhân tố chủ quan đóng vai trò gì đối với tiến trình phát triển của lịch

sử?

Trong khi khẳng định tính chất lịch sử - tự nhiên, tức tính quy luật khách

quan của sự vận động, phát triển xã hội, chủ nghĩa Mác - Lênin cũng đồng

thời khẳng định vai trò của các nhân tố khác đối với tiến trình phát triển của

lịch sử nhân loại nói chung và lịch sử mỗi cộng đồng người cụ thể nói riêng.

Đó là sự tác động của các nhân tố thuộc về điều kiện địa lý, tương quan lực

lượng chính trị của các giai cấp, tầng lớp xã hội, truyền thống văn hóa của

mỗi cộng đồng người, điều kiện tác động của tình hình quốc tế đối với tiến

trình phát triển của mỗi cộng đồng người trong lịch sử, v.v.. Chính do sự tác

động của các nhân tố này mà tiến trình phát triển của mỗi cộng đồng người

có thể diễn ra với những con đường, hình thức và bước đi khác nhau, tạo nên

tính phong phú đa dạng trong sự phát triển của lịch sử nhân loại. Tính chất

phong phú, đa dạng trong tiến trình phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội

có thể bao hàm những bước phát triển “bỏ qua” một hay một vài hình thái

kinh tế - xã hội nhất định. Tuy nhiên, những sự “bỏ qua” như vậy đều phải có

những điều kiện khách quan và chủ quan nhất định.

Như vậy, lịch sử nhân loại nói chung, lịch sử phát triển của mỗi cộng

đồng người nói riêng vừa tuân theo tính tất yếu quy luật xã hội, vừa chịu sự

tác động đa dạng của các nhân tố khác nhau, trong đó có cả nhân tố hoạt

động chủ quan của con người, nó đóng vai trò là các nhân tố thuộc cơ chế

vận động, phát triển của lịch sử nhân loại. Từ đó lịch sử phát triển của xã hội

được biểu hiện ra là lịch sử thống nhất trong tính đa dạng và đa dạng trong

tính thống nhất của nó.

- Ý nghĩa phương pháp luận của lý luận hình thái kinh tế - xã hội

Trước Mác, chủ nghĩa duy tâm giữ vai trò thống trị trong khoa học xã

hội. Với sự ra đời của chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó hạt nhân là lý luận

hình thái kinh tế - xã hội đã cung cấp một phương pháp luận thực sự khoa

học trong nghiên cứu về lĩnh vực xã hội.

Thứ nhất, theo lý luận hình thái kinh tế - xã hội, sản xuất vật chất chính

là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định trình độ phát

triển của nền sản xuất và do đó cũng là nhân tố quyết định trình độ phát triển

của đời sống xã hội và lịch sử nói chung. Vì vậy, không thể xuất phát từ ý

thức, tư tưởng hoặc từ ý chí chủ quan của con người để giải thích các hiện

tượng trong đời sống xã hội, mà phải xuất phát từ bản thân thực trạng phát

triển của nền sản xuất xã hội, đặc biệt là từ trình độ phát triển của phương

thức sản xuất xã hội với cốt lõi là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất

hiện thực.

Thứ hai, theo lý luận hình thái kinh tế - xã hội, xã hội không phải là sự

kết hợp một cách ngẫu nhiên, máy móc giữa các cá nhân, mà là một cơ thể

sống động. Các phương diện của đời sống xã hội tồn tại trong một hệ thống

cấu trúc thống nhất chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó quan hệ sản

xuất đóng vai trò là quan hệ cơ bản nhất, quyết định các quan hệ xã hội khác,

là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội khác nhau. Vì vậy,

để lý giải chính xác đời sống xã hội cần phải sử dụng phương pháp luận trừu

tượng hóa khoa học - đó là cần phải xuất phát từ quan hệ sản xuất hiện thực

của xã hội để tiến hành phân tích các phương diện khác nhau (chính trị, pháp

luật, văn hóa, khoa học,...) của đời sống xã hội và mối quan hệ lẫn nhau giữa

chúng.

Thứ ba, theo lý luận hình thái kinh tế - xã hội, sự vận động, phát triển

của xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên, tức là quá trình diễn ra theo các

quy luật khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan, do vậy muốn

nhận thức và giải quyết đúng đắn, có hiệu quả những vấn đề của đời sống xã

hội thì phải đi sâu nghiên cứu các quy luật vận động, phát triển của xã hội.

V.I.Lênin từng nhấn mạnh rằng: “Xã hội là một cơ thể sống đang phát triển

không ngừng (chứ không phải là một cái gì được kết thành một cách máy

móc và do đó cho phép có thể tùy ý phối hợp các yếu tố xã hội như thế nào

cũng được), một cơ thể mà muốn nghiên cứu nó thì cần phải phân tích một

cách khách quan những quan hệ sản xuất cấu thành một hình thái xã hội nhất

định và cần phải nghiên cứu những quy luật vận hành và phát triển của hình

thái xã hội đó”.

Những giá trị khoa học trên đây của lý luận hình thái kinh tế - xã hội là

những giá trị về mặt phương pháp luận chung nhất của việc nghiên cứu về xã

hội và lịch sử nhân loại, lịch sử các cộng đồng người, nó không thể thay thế

cho những phương pháp đặc thù trong các quá trình nghiên cứu về từng lĩnh

vực cụ thể của xã hội. V.I.Lênin từng dạy rằng: lý luận đó “không bao giờ có

tham vọng giải thích tất cả, mà chỉ có ý muốn vạch ra một phương pháp...

“duy nhất khoa học” để giải thích lịch sử”.

Câu hỏi 47: Giai cấp là gì? Hiểu thế nào về khái niệm “tầng lớp xã

hội”? Giai cấp có phải là hiện tượng vĩnh viễn trong lịch sử không? Tại sao?

Trả lời:

- Khái niệm giai cấp

+ Khái niệm giai cấp dùng để chỉ những tập đoàn người hết sức đông

đảo trong một xã hội, những tập đoàn này phân biệt với nhau bởi địa vị của

họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử.

Cụ thể, xét trên ba phương diện của hệ thống quan hệ sản xuất, họ có

sự khác nhau về:

(1) Quyền sở hữu đối với những tư liệu sản xuất (thường được quy

định và thừa nhận bởi pháp luật; thường là với những tư liệu sản xuất chủ

yếu);

(2) Địa vị trong hệ thống tổ chức lao động xã hội (làm chủ hay phụ

thuộc);

(3) Do đó, họ có sự khác nhau về cách thức và quy mô hưởng thụ kết

quả của quá trình sản xuất xã hội (bằng cách nào? nhiều hay ít?).

+ Cơ sở khách quan của sự phân hoá giai cấp trong xã hội và thực chất

của nó:

Theo quan niệm trên đây về giai cấp có thể thấy: cơ sở khách quan của

sự phân hóa những con người trong một cộng đồng xã hội thành các giai cấp

khác nhau, đối lập nhau là do có sự khác nhau và đối lập nhau về địa vị của

họ trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định, do đó tất yếu dẫn tới việc “tập

đoàn này có thể chiếm đoạt được lao động của tập đoàn khác”. Vậy, thực

chất của sự phân hóa giai cấp trong xã hội chính là sự phân hóa những con

người trong một cộng đồng xã hội thành những kẻ bóc lột và những người bị

bóc lột. Vậy chừng nào và khi nào trong xã hội còn có sự phân biệt ấy thì

chừng đó, khi đó tất yếu sẽ xuất hiện giai cấp.

+ Ví dụ, thực tiễn lịch sử trên hai nghìn năm qua ở các nước phương

Tây đã từng diễn ra sự phân hoá giai cấp hết sức điển hình, đó là các giai

cấp: chủ nô và nô lệ thời cổ đại, chúa đất và nông nô thời trung cổ, tư sản và

vô sản từ thời cận đại đến nay.

- Khái niệm “tầng lớp xã hội”

Khái niệm tầng lớp xã hội thường được sử dụng để chỉ sự phân tầng,

phân lớp, phân nhóm giữa những con người trong cùng một giai cấp theo địa

vị và sự khác biệt cụ thể của họ trong giai cấp đó như: tầng lớp công nhân

làm thuê lao động giản đơn, lao động phức tạp, lao động chuyên gia, v.v..

Khái niệm này cũng còn được dùng để chỉ những nhóm người ngoài kết cấu

các giai cấp trong một xã hội nhất định như: tầng lớp công chức, trí thức, tiểu

nông, v.v. những tầng lớp này đều có những mối quan hệ nhất định với giai

cấp này hay giai cấp khác trong xã hội.

- Giai cấp có phải là hiện tượng vĩnh viễn của lịch sử không?

Theo quan điểm duy vật lịch sử, giai cấp không phải là hiện tượng vĩnh

viễn của lịch sử, trái lại nó là hiện tượng chỉ gắn liền với những giai đoạn phát

triển nhất định của lịch sử. C.Mác nhận định: “Sự tồn tại của các giai cấp chỉ

gắn liền với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất”.

Để thấy rõ điều này, cần phân tích nguồn gốc dẫn đến sự phân hoá giai

cấp trong xã hội. Nếu xuất phát từ khái niệm về giai cấp nói trên, có thể thấy:

+ Nguồn gốc trực tiếp của sự phân hóa giai cấp trong xã hội chính là do

sự ra đời và tồn tại của chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, đặc

biệt là đối với những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội; bởi vì, chỉ có trong

điều kiện đó mới có khả năng khách quan làm phát sinh và tồn tại sự phân

biệt địa vị của các tập đoàn người trong quá trình sản xuất xã hội. Do đó, dẫn

tới khả năng tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động thặng dư của tập đoàn

khác.

+ Tuy nhiên chỉ có chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất vẫn

chưa đủ để làm phát sinh giai cấp trong xã hội nếu chưa có sự phát triển của

lực lượng sản xuất đến một mức độ làm cho năng suất lao động tăng lên, do

đó làm xuất hiện thời gian lao động thặng dư của xã hội, biểu hiện thành sự

dư thừa của cải tương đối của xã hội. Hơn nữa, sự tồn tại của chế độ chiếm

hữu tư nhân hay cộng đồng xã hội về tư liệu sản xuất không phải theo ý muốn

chủ quan mà là tuân theo quy luật khách quan - quy luật quan hệ sản xuất

phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Vì vậy, nguồn gốc sâu

xa của sự phân hóa giai cấp trong xã hội chính là do tình trạng phát triển

nhưng chưa đạt tới trình độ xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất. Khi lực

lượng sản xuất đã đạt trình độ xã hội hóa cao thì chính nó lại là nguyên nhân

khách quan của việc xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và

do đó dẫn tới sự xóa bỏ giai cấp, đối kháng và đấu tranh giai cấp trong xã hội.

Đó là vấn đề thực tiễn của chủ nghĩa xã hội và đặc biệt là của xã hội cộng sản

chủ nghĩa trong tương lai.

Câu hỏi 48: Theo quan điểm duy vật lịch sử, trong điều kiện xã hội có

sự phân hoá giai cấp và đấu tranh giai cấp thì đấu tranh giai cấp giữ vai trò gì

đối với quá trình phát triển của xã hội?

Trả lời:

- Đấu tranh giai cấp là gì?

+ Khái niệm:

Theo V.I.Lênin, đấu tranh giai cấp là “cuộc đấu tranh của quần chúng bị

tước hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn

áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê

hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản”.

+ Thực chất của đấu tranh giai cấp:

Thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của những người

lao động làm thuê, những người nô lệ, bị áp bức về chính trị - xã hội và bị bóc

lột về kinh tế chống lại sự áp bức và bóc lột nó; tức là nhằm giải quyết vấn đề

mâu thuẫn lợi ích kinh tế và chính trị xã hội giữa giai cấp thống trị và bị thống

trị ở những phạm vi và mức độ khác nhau.

+ Các hình thức thể hiện các cuộc đấu tranh giai cấp:

Tùy theo những điều kiện lịch sử khác nhau, các cuộc đấu tranh giai

cấp trong xã hội có thể được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, với

những phạm vi và trình độ khác nhau như: đấu tranh kinh tế, đấu tranh tư

tưởng, đấu tranh chính trị,... Trong thực tế lịch sử, cuộc đấu tranh giai cấp có

thể còn mang những hình thức đấu tranh dân tộc, tôn giáo, văn hóa và có thể

có nhiều hình thức đa dạng khác.

- Vai trò của đấu tranh giai cấp

+ Theo quan điểm duy vật lịch sử, đấu tranh giai cấp giữ vai trò là một

trong những phương thức, động lực của sự tiến bộ, phát triển xã hội trong

điều kiện xã hội có sự phân hóa thành đối kháng giai cấp.

+ Bằng chứng lịch sử nào chứng minh điều đó?

Lịch sử nhân loại từ khi có sự phần hóa giai cấp đến nay, về thực chất

chỉ là lịch sử của những cuộc đấu tranh giai cấp được biểu hiện dưới nhiều

hình thức đa dạng với những mức độ khác nhau và mang sắc thái khác nhau.

Đó là cuộc đấu tranh của những người nô lệ chống lại ách áp bức của giai

cấp chủ nô; cuộc đấu tranh của những người nông nô, những người nông

dân làm thuê chống lại sự áp bức và bóc lột của bọn chúa đất, địa chủ; cuộc

đấu tranh của những ngưòi công nhân làm thuê chống lại ách áp bức và bóc

lột của giai cấp tư sản. Kết quả cuối cùng của những cuộc đấu tranh đó đều

dẫn tới sự ra đời của phương thức sản xuất mới thông qua đỉnh cao của nó là

những cuộc cách mạng xã hội.

- Vì sao đấu tranh giai cấp giữ vai trò là phương thức, động lực phát

triển của xã hội trong điều kiện xã hội có sự phân hoá đối kháng giai cấp?

Theo lý luận hình thái kinh tế - xã hội, phương thức và động lực cơ bản

nhất của sự tiến bộ, phát triển xã hội là sự vận động của mâu thuẫn trong

phương thức sản xuất, trong bản thân nên sản xuất vật chát của xã hội,

nhưng trong điều kiện xã hội có sự phân hóa giai cấp thì mâu thuẫn đó lại

được bộc lộ và biến thành mâu thuẫn đối kháng giữa các giai cấp trong đời

sống chính trị - xã hội. Trong trường hợp này, mâu thuẫn đối kháng trong đời

sống kinh tế chỉ có thể giải quyết được thông qua việc giải quyết mâu thuẫn

đối kháng giai cấp trên lĩnh vực chính trị - xã hội.

Như vậy, mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp đã trở thành phương

thức, động lực chính trị - xã hội để giải quyết mâu thuẫn trong phương thức

sản xuất, thực hiện nhu cầu khách quan của sự phát triển của lực lượng sản

xuất, thúc đẩy sự phát triển của xã hội.

Câu hỏi 49: Sự ra đời và tồn tại của tổ chức quyền lực nhà nước trong

kiến trúc thượng tầng của xã hội có liên quan gì với những cuộc đấu tranh

giai cấp trong lịch sử? Nếu căn cứ vào cơ sở giai cấp để phân loại các kiểu

nhà nước thì có thể nói tới những kiểu nhà nước nào trong lịch sử trên hai

nghìn năm qua? Nhà nước xã hội chủ nghĩa thuộc kiểu nhà nước nào?

Trả lời:

Theo quan điểm duy vật lịch sử, sự ra đời và tồn tại của tổ chức quyền

lực nhà nước trong thượng tầng kiến trúc của xã hội có nguồn gốc từ sự đối

kháng giai cấp và đấu tranh giai cấp. Cuộc đấu tranh đó là nguồn gốc căn bản

dẫn tới sự ra đời và tồn tại của tổ chức quyền lực nhà nước.

- Vì sao?

Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng trong các tổ chức xã hội thời

nguyên thuỷ (tổ chức xã hội thị tộc, bộ lạc) không có sự phân hoá đối kháng

giai cấp, đồng thời cũng không có nhà nước, ở đó chỉ tồn tại những hình thức

tự quản và tự vũ trang của dân cư.

Nhưng từ khi xã hội xuất hiện sự đối kháng giai cấp và đấu tranh giai

cấp thì nhu cầu ra đời của tổ chức quyền lực đặc biệt (là nhà nước) đã trở

thành cấp bách và tất yếu bởi vì trong xã hội đó, giai cấp bị áp bức và bị bóc

lột đã không ngừng cuộc đấu tranh chống lại sự áp bức, bóc lột đó. Để khống

chế và đàn áp những cuộc đấu tranh giai cấp của những người lao động làm

thuê, những người nô lệ, nhằm duy trì và thực hiện được sự bóc lột của nó,

các giai cấp thống trị trong lịch sử (giai cấp chủ nô, giai cấp chúa đất phong

kiến, giai cấp tư sản) tất yếu phải sử dụng đến sức mạnh bạo lực có tổ chức -

đó là nhà nước với những đội vũ trang đặc biệt và hệ thống pháp luật nhằm

duy trì trật tự của sự thống trị giai cấp. Như vậy, sự ra đời và tồn tại của nhà

nước không phải để giải quyết mâu thuẫn mà là để duy trì trật tự xã hội trong

điều kiện mâu thuẫn không thể giải quyết được - đó là mâu thuẫn đối kháng

giai cấp. Chừng nào mâu thuẫn đối kháng đó không còn thì tổ chức quyền lực

nhà nước trong thượng tầng kiến trúc cũng trở thành không cần thiết và tự

tiêu vong.

- Căn cứ vào cơ sở giai cấp để phân loại nhà nước thì có thể nói tới

những kiểu nhà nước nào trong lịch sử? Nhà nước xã hội chủ nghĩa thuộc

kiểu nhà nước nào?

Trong lịch sử trên hai nghìn năm qua đã từng tồn tại các kiểu nhà

nước: nhà nước chủ nô thời cổ đại, nhà nước phong kiến thời trung cổ và nhà

nước tư sản ở các nước tư bản từ thời cận đại đến nay. Đây là những kiểu

nhà nước đúng với nghĩa đen của nó, tức công cụ bạo lực có tổ chức nhằm

khống chế cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp những người lao động. Cho

dù các hình thức của mỗi kiểu nhà nước đó có khác nhau, tên gọi khác nhau

(hình thức quân chủ tập quyền hoặc phân quyền, quân chủ lập hiến, cộng hòa

quý tộc, cộng hòa đại nghị, cộng hòa tổng thống, v.v.) nhưng bản chất giai

cấp của chúng chỉ là một - đó là công cụ chuyên chính giai cấp của các giai

cấp bóc lột trong lịch sử đối với nô lệ hay lao động làm thuê.

Khác với các kiểu nhà nước nói trên, nhà nước xã hội chủ nghĩa (nhà

nước chuyên chính vô sản) là nhà nước kiểu mới, là “nửa nhà nước”, “nhà

nước không còn nguyên nghĩa đen của nó”, tồn tại trong thời kỳ quá độ lên

chủ nghĩa xã hội, là công cụ bạo lực có tổ chức và công cụ quản lý kinh tế -

xã hội của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

Câu hỏi 50: Cách mạng xã hội là gì? Cách mạng xã hội có nguyên

nhân khách quan nào? Thế nào là cải cách xã hội? Theo quan điểm duy vật

lịch sử, cách mạng xã hội và cải cách xã hội giữ vai trò gì đối với sự tiến bộ

và phát triển của xã hội?

Trả lời:

- Khái niệm cách mạng xã hội:

Theo nghĩa rộng, cách mạng xã hội là sự biến đổi có tính bước ngoặt

và căn bản về chất trong toàn bộ các lĩnh vực của đời sông xã hội, là phương

thức chuyển từ một hình thái kinh tế - xã hội lỗi thời lên một hình thái kinh tế -

xã hội mới ở trình độ phát triển cao hơn.

Theo nghĩa hẹp, cách mạng xã hội là việc lật đổ một chế độ chính trị đã

lỗi thời và thiết lập một chế độ chính trị tiến bộ hơn của giai cấp cách mạng.

Đặc trưng và vấn đề cơ bản của cách mạng xã hội trong điều kiện xã

hội có đối kháng giai cấp:

Đặc trưng của cách mạng xã hội trong điều kiện xã hội có đấu tranh giai

cấp được đặc trưng bằng việc giai cấp cách mạng khởi nghĩa vũ trang giành

chính quyền nhà nước, đồng thời tiến hành tổ chức, xây dựng và sử dụng

chính quyền nhà nước mới của nó để cải tạo căn bản, toàn diện mọi lĩnh vực

của đời sống xã hội, tức là xây dựng một hình thái kinh tế - xã hội mới. Do đó,

có thể thấy vấn đề chính quyền nhà nước là vấn đề cơ bản của mọi cuộc

cách mạng.

- Nguyên nhân khách quan của cách mạng xã hội

Nguyên nhân khách quan, sâu xa của cách mạng xã hội xuất phát từ

mâu thuẫn gay gắt trong bản thân nền sản xuất vật chất của xã hội, tức mâu

thuẫn gay gắt giữa nhu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất

với sự kìm hãm của quan hệ sản xuất đã trở nên lỗi thời mà không một cuộc

cải cách kinh tế hay chính trị nào có thể giải quyết được. Mâu thuẫn đó biểu

hiện về mặt chính trị - xã hội thành cuộc đấu tranh giai cấp và chính sự phát

triển của cuộc đấu tranh giai cấp này đã tất yếu dẫn đến sự bùng nổ cách

mạng.

Ngoài ra, mỗi cuộc cách mạng xã hội còn có nguyên nhân chủ quan

của nó, đó là sự phát triển nhận thức và tổ chức của giai cấp cách mạng, tức

giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn. Từ đó tạo ra sự

phát triển của phong trào đấu tranh giai cấp từ tự phát đến tự giác và khi có

sự kết hợp chín muồi của các nhân tố khách quan và chủ quan, tức tạo được

thời cơ cách mạng, thì khi đó tất yếu cách mạng sẽ bùng nổ và có khả năng

thành công.

- Khái niệm cải cách xã hội

Khái niệm cải cách dùng để chỉ những cuộc cải biến diễn ra trên một

hay một số lĩnh vực của đời sống xã hội, trong phạm vi một hình thái kinh tế -

xã hội, nhằm hoàn thiện hình thái kinh tế - xã hội đó, như: cải cách thể chế

kinh tế, cải cách nền hành chính quốc gia, cải cách nên giáo dục, v.v..

Như vậy, khái niệm cải cách xã hội chẳng những khác với khái niệm

cách mạng xã hội mà còn khác với khái niệm đảo chính. Khái niệm đảo chính

dùng để chỉ những sự biến tranh giành địa vị quyền lực nhà nước giữa các

lực lượng chính trị (thường là trong cùng một giai cấp) và với chủ trương

không thay đổi bản chất chế độ hiện thời, nó có thể được tiến hành dưới hình

thức bạo lực hoặc phi bạo lực vũ trang.

- Quan điểm duy vật lịch sử về vai trò của cách mạng xã hội đối với sự

phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp

+ Quan điểm: Cách mạng xã hội giữ vai trò là một trong những phương

thức, động lực của sự phát triển xã hội. Không có những cuộc cách mạng xã

hội trong lịch sử thì không thể diễn ra quá trình thay thế hình thái kinh tế - xã

hội này bằng một hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn. Với ý nghĩa đó mà

C.Mác nhận định rằng: các cuộc cách mạng xã hội là những “đầu tầu của lịch

sử”, tức vai trò là phương thức thực hiện sự phát triển của các hình thái kinh

tế - xã hội. Mặt khác, chính nhờ những cuộc cách mạng xã hội mà các mâu

thuẫn cơ bản của đời sống xã hội trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn

hóa,... được giải quyết triệt để, từ đó tạo ra động lực cho sự tiến bộ và phát

triển của xã hội.

+ Bằng chứng lịch sử: Lịch sử nhân loại đã chứng minh đầy đủ và rõ

nét vai trò của các cuộc cách mạng xã hội đã từng diễn ra trong lịch sử mấy

nghìn năm qua. Đó là: cuộc cách mạng thực hiện bước chuyển từ hình thái

kinh tế - xã hội nguyên thuỷ lên hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ;

cuộc cách mạng xóa bỏ chế độ nô lệ và thay thế nó bằng chế độ phong kiến;

cuộc cách mạng tư sản lật đổ chế độ phong kiến, xác lập chế độ tư bản chủ

nghĩa; cuộc cách mạng vô sản thực hiện việc xóa bỏ chế độ chuyên chính tư

sản, xác lập chế độ xã hội chủ nghĩa - đây là cuộc cách mạng vĩ đại nhất, sâu

sắc nhât trong lịch sử nhân loại, làm thay đổi hoàn toàn bản chất chế độ chính

trị xã hội cũ, xóa bỏ triệt để nguồn gốc chế độ tư hữu sản sinh đối kháng giai

cấp đã từng tồn tại hàng nghìn năm trong lịch sử nhân loại.

Câu hỏi 51: Quan điểm duy vật lịch sử về khái niệm con người?

Trả lời:

- Quan điểm duy vật lịch sử về khái niệm con người

Con người vừa là một tồn tại mang bản tính tự nhiên vừa là một tồn tại

mang bản tính xã hội. Bản tính tự nhiên và bản tính xã hội tồn tại trong mối

quan hệ chi phối nhau, tác động lẫn nhau và được thể hiện trong mỗi hành vi,

mỗi hoạt động của con người.

- Phân tích nội dung của quan điểm trên

Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự hình thành, tồn tại và phát triển

của con người chính là giới tự nhiên. Vì vậy, bản tính tự nhiên phải là một

trong những phương diện cơ bản của con người, loài người. Cũng do vậy,

việc nghiên cứu, khám phá khoa học về cấu tạo tự nhiên và nguồn gốc tự

nhiên của con người là cơ sở khoa học quan trọng để con người hiểu biết về

chính bản thân mình, tiến đến làm chủ bản thân mình trong mọi hành vi và

hoạt động sáng tạo ra lịch sử của nó, tức lịch sử nhân loại.

+ Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ hai giác độ sau

đây.

Thứ nhất, con người là kết quả tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự

nhiên. Cơ sở khoa học của kết luận này đã được chứng minh bằng toàn bộ

sự phát triển của chủ nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên, đặc biệt là học

thuyết của Đácuyn về sự tiến hóa của các loài.

Thứ hai, con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới

tự nhiên cũng “là thân thể vô cơ của con người”. Do đó, những biến đổi của

giới tự nhiên và tác động của quy luật tự nhiên trực tiếp hoặc gián tiếp thường

xuyên quy định sự tồn tại của con người và xã hội loài người, nó là môi

trường trao đổi vật chất giữa con người và giới tự nhiên; ngược lại, sự biến

đổi và hoạt động của con người, loài người luôn luôn tác động trở lại môi

trường tự nhiên, làm biến đổi môi trường đó. Đây chính là mối quan hệ biện

chứng giữa sự tồn tại của con người, loài người và các tồn tại khác của giới

tự nhiên.

Tuy nhiên, con người không đồng nhất với các tồn tại khác của giới tự

nhiên, nó mang đặc tính xã hội bởi vì mỗi con người với tư cách là “người”

chính là xét trong mối quan hệ của các cộng đồng xã hội, đó là các cộng

đồng: gia đình, giai cấp, quốc gia, dân tộc, nhân loại,... Vì vậy, bản tính xã hội

nhất định phải là một phương diện khác của bản tính con người, hơn nữa đây

là bản tính đặc thù của con người.

+ Bản tính xã hội của con người được phân tích từ các giác độ sau đây:

Một là, xét từ giác độ nguồn gốc hình thành con người, loài người thì

không phải chỉ có nguồn gốc từ sự tiến hóa, phát triển của vật chất tự nhiên

mà còn có nguồn gốc xã hội của nó, mà trước hết và cơ bản nhất là nhân tố

lao động. Chính nhờ lao động mà con người có khả năng vượt qua loài động

vật để tiến hóa và phát triển thành người. Đó là một trong những phát hiện

mới của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhờ đó mà có thể hoàn chỉnh học thuyết về

nguồn gốc loài người mà tất cả các học thuyết trong lịch sử đểu chưa có lời

giải đáp đúng đắn và đầy đủ.

Hai là, xét từ giác độ tồn tại và phát triển của con người, loài người thì

sự tồn tại của nó luôn luôn bị chi phối bởi các nhân tố xã hội và các quy luật

xã hội. Xã hội biến đổi thì mỗi con người cũng do đó mà cũng có sự thay đổi

tương ứng. Ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân lại là tiền đề cho sự phát

triển của xã hội. Ngoài mối quan hệ xã hội thì mỗi con người chỉ tồn tại với tư

cách là một thực thể sinh vật thuần túy mà không thể là “con người” với đầy

đủ ý nghĩa của nó.

Hai phương diện tự nhiên và xã hội của con người tồn tại trong tính

thống nhất của nó, quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau, làm biến đổi lẫn

nhau, nhờ đó tạo nên khả năng hoạt động sáng tạo của con người trong quá

trình làm ra lịch sử của chính nó. Vì thế, nếu lý giải bản tính sáng tạo của con

người đơn thuần chỉ từ giác độ bản tính tự nhiên hoặc chỉ từ bản tính xã hội

của nó thì đều là phiến diện, không triệt để và nhất định cuối cùng sẽ dẫn đến

những kết luận sai lầm trong nhận thức và thực tiễn.

Câu hỏi 52: Quan điểm duy vật lịch sử về bản chất của con người? Ý

nghĩa phương pháp luận của quan điểm đó.

Trả lời:

- Quan điểm duy vật lịch sử về bản chất của con người

Theo C.Mác: “Bản chất con ngưòi không phải là một cái trừu tượng cố

hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người

là tổng hoà những quan hệ xã hội”.

- Phân tích nội dung chính của quan điểm trên

Quan niệm của C.Mác về bản chất của con người đã khắc phục được

hạn chế nào của quan niệm duy vật siêu hình về bản chất của con người và

đem lại quan niệm mới nào?

Hạn chế căn bản của quan niệm duy vật siêu hình, trực quan là đã trừu

tượng hóa, tuyệt đối hóa phương diện tự nhiên của con người, thường xem

nhẹ việc lý giải con ngưòi từ phương diện lịch sử xã hội của nó, do đó về căn

bản chỉ thấy bản tính tự nhiên của con người. Khác với quan niệm đó, quan

niệm duy vật lịch sử về con người trong khi thừa nhận bản tính tự nhiên của

con người còn lý giải con người từ giác độ các quan hệ lịch sử xã hội, từ đó

phát hiện bản tính xã hội của nó. Hơn nữa, chính bản tính xã hội của con

người là phương diện bản chất nhất của con người với tư cách “người”, phân

biệt con người với các tồn tại khác của giới tự nhiên. Với quan niệm đó, có

thể định nghĩa con người là một thực thể tự nhiên nhưng đó là thực thể tự

nhiên mang đặc tính xã hội. Vậy, bản chất của con người, xét trên phương

diện tính hiện thực của nó, chính là “tổng hòa của các quan hệ xã hội”, bởi xã

hội chính là xã hội của con người, được tạo nên từ toàn bộ các quan hệ giữa

người với người trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa,...

- Ý nghĩa phương pháp luận nhận thức và thực tiễn rút ra từ quan niệm

duy vật lịch sử về con người và bản chất của con người

Một là, để lý giải một cách khoa học những vấn đề về con người thì

không thể chỉ đơn thuần từ phương diện bản tính tự nhiên của nó mà điều

căn bản hơn, có tính quyết định phải là từ phương diện bản tính xã hội của

nó, từ những quan hệ kinh tế - xã hội của nó.

Hai là, động lực cơ bản của sự tiến bộ và phát triển của xã hội chính là

năng lực sáng tạo lịch sử của con người. Vì vậy, phát huy năng lực sáng tạo

của mỗi con người, vì con người chính là phát huy nguồn động lực quan trọng

thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của xã hội.

Ba là, sự nghiệp giải phóng con người, nhằm phát huy khả năng sáng

tạo lịch sử của nó phải là hướng vào sự nghiệp giải phóng những quan hệ

kinh tế - xã hội. Trên ý nghĩa phương pháp luận đó có thể thấy một trong

những giá trị căn bản nhất của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa chính là ở

mục tiêu xóa bỏ triệt để các quan hệ kinh tế - xã hội áp bức và bóc lột, ràng

buộc khả năng sáng tạo lịch sử của con người. Thông qua cuộc cách mạng

đó nó cũng thực hiện sự nghiệp giải phóng toàn nhân loại bằng phương thức

xây dựng mối quan hệ kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa

nhằm xác lập và phát triển một xã hội mà tự do, sáng tạo của người này trở

thành điều kiện cho tự do và sáng tạo của người khác. Đó cũng chính là thực

hiện triết lý đạo đức nhân sinh cao đẹp nhất của chủ nghĩa cộng sản: “mỗi

người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”.

Câu hỏi 53: Theo quan điểm duy vật lịch sử, quần chúng nhân dân giữ

vai trò gì đối với tiến trình lịch sử? Tại sao? Từ hiểu biết về vai trò đó của

quần chúng nhân dân có thể rút ra ý nghĩa phương pháp luận nào?

Trả lời:

- Khái niệm quần chúng nhân dân

Trong chủ nghĩa duy vật lịch sử, khái niệm quần chúng nhân dân không

đồng nhất với khái niệm “dân” trong lịch sử tư tưởng triết học phương Đông,

cũng không đồng nhất với khái niệm “công dân” trong luật học,... Với tư cách

là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, khái niệm này dùng để

chỉ cộng đồng xã hội bao gồm những giai cấp, tầng lớp, lực lượng xã hội,...

có cùng lợi ích căn bản, phản ánh nhu cầu phát triển của lịch sử, liên kết nhau

lại, có tổ chức, có lãnh đạo, tạo nên sức mạnh cộng đồng nhằm giải quyết các

nhiệm vụ lịch sử, thúc đẩy sự phát triển xã hội ở mỗi thời đại, mỗi thời kỳ, mỗi

lĩnh vực nhất định.

Với quan niệm đó có thể thấy những lực lượng cơ bản tạo thành cộng

đồng quần chúng nhân dân có thể thay đổi theo những nhiệm vụ của lịch sử,

nhưng về cơ bản thường phân tích từ những lực lượng sau đây:

Thứ nhất, những người lao động sản xuất ra của cải vật chất và các giá

trị tinh thần, đó là hạt nhân cơ bản trong cộng đồng quần chúng nhân dân.

Thứ hai, những bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống trị áp bức, bóc

lột, đối kháng với cộng đồng nhân dân.

Thứ ba, những giai cấp, tầng lớp xã hội thúc đẩy sự tiến bộ xã hội

thông qua hoạt động của mình, trực tiếp hoặc gián tiếp trên các lĩnh vực của

đời sống xã hội.

- Quan điểm duy vật lịch sử về vai trò của quần chúng nhân dân

Theo quan điểm duy vật lịch sử, quần chúng nhân dân đóng vai trò là:

+ Chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử;

+ Lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử.

Sở dĩ quần chúng nhân dân giữ vai trò như vậy là vì:

Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của mọi

xã hội, trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát

triển của con người, của xã hội - đây là nhu cầu quan trọng bậc nhất của mọi

xã hội ở mọi thời đại, mọi giai đoạn lịch sử.

Thứ hai, cùng với quá trình sáng tạo ra của cải vật chất, quần chúng

nhân dân đồng thời cũng là lực lượng trực tiếp hay gián tiếp sáng tạo ra các

giá trị tinh thần của xã hội; là lực lượng trực tiếp hay gián tiếp “kiểm chứng”

các giá trị tinh thần đã được các thể hệ và các cá nhân sáng tạo ra trong lịch

sử. Hoạt động của quần chúng nhân dân là cơ sở hiện thực có ý nghĩa quyết

định và là cội nguồn phát sinh những sáng tạo văn hóa tinh thần của xã hội.

Mọi giá trị sáng tạo tinh thần dù qua phương thức nào thì cuối cùng cũng là

để phục vụ hoạt động của quần chúng nhân dân và nó chỉ có ý nghĩa hiện

thực một khi được vật chất hóa bởi hoạt động thực tiễn của nhân dân.

Thứ ba, quần chúng nhân dân là lực lượng và động lực cơ bản của mọi

cuộc cách mạng và các cuộc cải cách trong lịch sử. Lịch sử nhân loại đã

chứng minh rằng không có một cuộc cách mạng hay cuộc cải cách xã hội nào

có thể thành công nếu nó không xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng của đông

đảo quần chúng nhân dân. Với ý nghĩa như vậy có thể nói: cách mạng là

“ngày hội của quần chúng” và trong những ngày đó quần chúng nhân dân có

thể sáng tạo ra lịch sử “một ngày bằng hai mươi năm”. Như vậy, những cuộc

cách mạng và cải cách xã hội cần đến lực lượng quần chúng nhân dân và

sức sáng tạo của quần chúng nhân dân cũng cần có những cuộc cách mạng

và cải cách xã hội. Đó chính là biện chứng của quá trình phát triển xã hội.

- Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân phụ thuộc vào các

điều kiện khách quan và chủ quan nào?

Theo quan điểm duy vật lịch sử, vai trò của quần chúng nhân dân đối

với tiến trình lịch sử phụ thuộc vào những điều kiện nhất định như: trình độ

phát triển của phương thức sản xuất, trình độ nhận thức của mỗi cá nhân,

mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp hay lực lượng xã hội, trình độ tổ chức xã hội, bản

chất của chế độ xã hội, v.v.. Do vậy, việc phân tích vai trò sáng tạo lịch sử

của quần chúng nhân dân cần phải đứng trên quan điểm toàn diện, phát triển

và lịch sử, cụ thể.

- Ý nghĩa phương pháp luận

Lý luận duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần

chúng nhân dân đã cung cấp một phương pháp luận khoa học quan trọng cho

hoạt động nhận thức và thực tiễn:

Thứ nhất, việc lý giải một cách khoa học về vai trò quyết định lịch sử

của quần chúng nhân dân đã xóa bỏ được sai lầm của chủ nghĩa duy tâm đã

từng thống trị lâu dài trong lịch sử nhận thức về động lực và lực lượng sáng

tạo ra lịch sử xã hội loài người. Đồng thời, đem lại một phương pháp luận

khoa học trong việc nghiên cứu và nhận định lịch sử cũng như việc nghiên

cứu và đánh giá vai trò của mỗi cá nhân, thủ lĩnh, vĩ nhân, lãnh tụ trong cộng

đồng xã hội.

Thứ hai, lý luận về vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân đã

cung cấp một phương pháp luận khoa học để các Đảng Cộng sản phân tích

các lực lượng xã hội, tổ chức xây dựng lực lượng quần chúng nhân dân trong

công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đó là, sự liên minh giai cấp công

nhân với giai cấp nông nhân và đội ngũ trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của

Đảng Cộng sản, trên cơ sở đó tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp nhằm

tạo ra động lực to lớn trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa đi tới

thắng lợi cuối cùng.

Câu hỏi 54: Theo quan điểm duy vật lịch sử, các cá nhân, đặc biệt là

các vĩ nhân, lãnh tụ đóng vai trò gì đối với sự phát triển của lịch sử?

Trả lời:

- Khái niệm cá nhân và vĩ nhân, lãnh tụ

Khái niệm cá nhân dùng để chỉ mỗi con người cụ thể sống trong một

cộng đồng xã hội nhất định và được phân biệt với những con người khác

thông qua tính đơn nhât và tính phổ biến của nó. Theo quan niệm đó, mỗi cá

nhân là một chỉnh thể thống nhất, vừa mang tính cá biệt vừa mang tính phổ

biến; là chủ thể của lao động, của mọi quan hệ xã hội và của nhận thức nhằm

thực hiện chức năng cá nhân và chức năng xã hội trong một giai đoạn phát

triển nhất định của lịch sử.

Khái niệm vĩ nhân thường được dùng để chỉ những cá nhân kiệt xuất

trong các lĩnh vực hoạt động chính trị, kinh tế, khoa học, nghệ thuật... của xã

hội. Ví dụ, I.Niutơn, Anbe Anhxtanh,... là những vĩ nhân trên các lĩnh vực hoạt

động nghiên cứu khoa học vật lý,...

Khái niệm lãnh tụ thường được dùng để chỉ những cá nhân kiệt xuất do

phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân tạo nên, gắn bó mật thiết

với quần chúng nhân dân. Ví dụ, C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí

Minh,... là những lãnh tụ tiêu biểu nhất của phong trào cách mạng vô sản thế

giới,...

- Vai trò của cá nhân, vĩ nhân, lãnh tụ đối với sự phát triển của lịch sử

Theo quan điểm duy vật lịch sử, vai trò sáng tạo ra lịch sử, quyết định

tiến trình phát triển lịch sử của quần chúng nhân dân không bao giờ có thể

tách rời vai trò cụ thể của mỗi cá nhân mà đặc biệt là vai trò của các cá nhân

ở vị trí thủ lĩnh, lãnh tụ, vĩ nhân của cộng đồng nhân dân.

Theo V.I.Lênin: “Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được

quyền thống trị, nếu nó không đào tạo được trong hàng ngũ của mình những

lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh

đạo phong trào”.

Trong quá trình quần chúng nhân dân sáng tạo ra lịch sử, mỗi cá nhân

tùy theo vị trí, chức năng, vai trò và năng lực sáng tạo cụ thể mà họ có thể

tham gia vào quá trình sáng tạo lịch sử của cộng đồng nhân dân. Theo ý

nghĩa ấy, mỗi cá nhân của cộng đồng nhân dân đều “in dấu ấn” của nó vào

quá trình sáng tạo lịch sử, mặc dù mức độ và phạm vi có thể khác nhau. Thế

nhưng, để lại những dấu ấn sâu sắc nhất trong tiến trình lịch sử thường là

những thủ lĩnh mà đặc biệt là những thủ lĩnh ở tầm vĩ nhân.

Bất cứ một thòi kỳ nào, một cộng đồng xã hội nào, nếu lịch sử đặt ra

những nhiệm vụ cần giải quyết thì từ trong phong trào quần chúng nhân dân,

tất yếu sẽ xuất hiện những lãnh tụ đáp ứng nhiệm vụ đó.

Như vậy, tuyệt đối hóa vai trò của quần chúng nhân dân mà bỏ qua vai

trò của cá nhân, hoặc tuyệt đối hóa vai trò của cá nhân, thủ lĩnh, lãnh tụ, vĩ

nhân mà xem thường vai trò của quần chúng nhân dân đều là không biện

chứng trong nghiên cứu về lịch sử và do đó không thể lý giải chính xác tiến

trình vận động, phát triển của lịch sử nhân loại nói chung cũng như mỗi cộng

đồng xã hội nói riêng.

Phần 2. HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT TƯ BẢN CHỦ NGHĨA

HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ

Câu hỏi 55: Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa?

Trả lời

- Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội đã và đang trải qua hai kiểu

tổ chức kinh tế, đó là sản xuất tự cấp tự túc và sản xuất hàng hoá.

+ Sản xuất tự cấp tự túc là kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm do lao

động tạo ra là nhằm để thoả mãn trực tiếp nhu cầu của người sản xuất.

+ Sản xuất hàng hoá là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm được

sản xuất ra để trao đổi hoặc mua bán trên thị trường.

- Sản xuất hàng hoá chỉ ra đời, khi có đủ hai điều kiện sau đây:

+ Thứ nhất, phân công lao động xã hội.

Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động xã hội một cách tự

phát thành các ngành, nghề khác nhau.

Phân công lao động xã hội tạo ra sự chuyên môn hoá lao động, do đó

dẫn đến chuyên môn hoá sản xuất. Do phân công lao động xã hội nên mỗi

người sản xuất sẽ làm một công việc cụ thể, vì vậy họ chỉ tạo ra một hoặc một

vài loại sản phẩm nhất định. Song cuộc sống của mỗi người lại cần đến rất

nhiều loại sản phẩm khác nhau. Để thoả mãn nhu cầu, đòi hỏi họ phải có mối

liên hệ phụ thuộc vào nhau, phải trao đổi sản phẩm cho nhau. Như vậy, phân

công lao động xã hội là cơ sở, là tiền đề của sản xuất hàng hoá.

Tuy nhiên, phân công lao động xã hội mới chỉ là điều kiện thứ nhất

chưa đủ để sản xuất hàng hoá ra đời và tồn tại. C.Mác đã chứng minh rằng,

trong công xã thị tộc Ấn Độ thời cổ đã có sự phân công lao động khá chi tiết,

nhưng sản phẩm của lao động chưa trở thành hàng hoá bởi vì tư liệu sản

xuất là của chung nên sản phẩm của từng nhóm sản xuất chuyên môn hoá

cũng là của chung, công xã phân phối trực tiếp cho từng thành viên để thoả

mãn nhu cầu. Ở đây không hình thành quan hệ trao đổi, do đó chưa đủ điều

kiện để ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa.

Vì vậy, phân công lao động xã hội mới chỉ là điều kiện cần, muốn sản

xuất hàng hoá ra đời và tồn tại phải có điều kiện thứ hai.

- Thứ hai, sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản

xuất.

Sự tách biệt này do sự tồn tại các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu

sản xuất, mà khởi thuỷ là chế độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, đã xác định

người sở hữu tư liệu sản xuất là người sở hữu sản phẩm lao động.

Quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất đã làm cho những

người sản xuất độc lập, đối lập với nhau, nhưng tất cả họ lại nằm trong hệ

thống phân công lao động xã hội nên họ phụ thuộc lẫn nhau về sản xuât và

tiêu dùng. Trong điều kiện đó, các chủ thể kinh tế muốn tiêu dùng sản phẩm

của nhau họ phải thông qua trao đổi, mua bán.

Đây là điều kiện đủ cho sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa.

Sản xuất hàng hóa chỉ ra đời khi có đồng thời hai điều kiện nói trên,

nếu thiếu một trong hai điều kiện ấy thì không có sản xuất hàng hóa và sản

phẩm lao động không mang hình thái hàng hóa.

Câu hỏi 56: Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hóa so với sản

xuất tự cung tự cấp?

Trả lời:

Sản xuất hàng hóa ra đời là bước ngoặt căn bản trong lịch sử phát triển

của xã hội loài người. So với sản xuất tự cung tự cấp, sản xuất hàng hóa có

những đặc trưng và ưu thế cơ bản sau đây:

- Sản xuất hàng hóa là sản xuất cho người khác, cho xã hội, sản xuất

để bán, vì mục tiêu lợi nhuận, do đó nó tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy

sản xuất hàng hóa phát triển. Còn sản xuất tự cung tự cấp với mục đích sản

xuất ra những giá trị sử dụng để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của chính người

sản xuất, nên không tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất phát triển.

- Sản xuất hàng hóa đã tạo ra sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, buộc

mỗi người sản xuất hàng hoá phải năng động trong sản xuất - kinh doanh,

phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất để tăng năng suất

lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, nhằm tiêu thụ được hàng hoá và

thu được lợi nhuận ngày càng nhiều hơn. Cạnh tranh đã thúc đẩy lực lượng

sản xuất phát triển mạnh mẽ.

Trong sản xuất tự cung tự cấp, quy mô nhỏ chủ yếu dựa vào nguồn lực

sẵn có của tự nhiên, nhu cầu thấp, trình độ dân trí thấp nên không có cạnh

tranh, không tạo ra động lực mạnh mẽ phát triển khoa học - công nghệ để

phát triển kinh tế có hiệu quả.

- Sản xuất hàng hóa với năng suất lao động cao, chất lượng hàng hóa

tốt và khối lượng ngày càng nhiều, chủng loại đa dạng và phong phú làm cho

thị trường được mở rộng, giao lưu kinh tế - xã hội giữa các vùng, các miền,

các địa phương và quốc tế phát triển, tạo điều kiện thỏa mãn các nhu cầu vật

chất và tinh thần ngày càng cao cũng như sự phát triển tự do và toàn diện

của mỗi thành viên trong xã hội. Ngược lại với sản xuất tự cung tự cấp, sản

xuất kém phát triển, mang tính khép kín, sản phẩm sản xuất ra không đủ tiêu

dùng vì thế đời sống vật chất và tinh thần của người lao động thấp, không có

điều kiện để mở rộng hoạt động giao lưu kinh tế - xã hội giữa các vùng miền...

Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực như đã nêu trên, sản xuất hàng hoá

cũng có những mặt trái của nó như phân hoá giàu - nghèo giữa những người

sản xuất hàng hoá, tiềm ẩn những khả năng khủng hoảng kinh tế - xã hội, phá

hoại môi trường sinh thái, v.v..

Câu hỏi 57: Thế nào là hàng hóa? Hàng hóa có những thuộc tính gì?

Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa?

Trả lời:

- Khái niệm hàng hoá:

Hàng hoá là sản phẩm của lao động, nó có thể thoả mãn những nhu

cầu nhất định nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán.

- Hai thuộc tính của hàng hóa: giá trị sử dụng và giá trị.

Giá trị sử dụng:

+ Khái niệm: Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của hàng hóa

có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người, không kể nhu cầu đó được

thỏa mãn trực tiếp hay gián tiếp.

+ Đặc trưng giá trị sử dụng của hàng hóa:

* Hàng hóa có thể có một hay nhiều giá trị sử dụng hay công dụng khác

nhau. Số lượng giá trị sử dụng của một vật không phải ngay một lúc đã phát

hiện ra được hết, mà nó được phát hiện dần dần trong quá trình phát triển

của khoa học - kỹ thuật.

* Giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn vì giá trị sử dụng hay công

dụng của hàng hóa là do thuộc tính tự nhiên của vật thể hàng hóa quyết định.

* Giá trị sử dụng của hàng hóa chỉ thể hiện khi con người sử dụng hay

tiêu dùng (tiêu dùng cho sản xuất, tiêu dùng cho cá nhân), nó là nội dung vật

chất của của cải, không kể hình thức xã hội của của cải đó như thế nào.

* Hàng hóa ngày càng phong phú, đa dạng, hiện đại thì giá trị sử dụng

càng cao.

Giá trị hàng hóa:

Một vật, khi đã là hàng hoá thì nhất thiết nó phải có giá trị sử dụng.

Nhưng không phải bất cứ vật gì có giá trị sử dụng cũng đều là hàng hoá. Như

vậy, một vật muốn trở thành hàng hóa thì giá trị sử dụng của nó phải là vật

được sản xuất ra để bán, để trao đổi, cũng có nghĩa là vật đó phải có giá trị

trao đổi. Trong kinh tế hàng hoá, giá trị sử dụng là cái mang giá trị trao đổi.

Muốn hiểu được giá trị hàng hóa phải đi từ giá trị trao đổi.

+ Giá trị trao đổi:

* Khái niệm: Giá trị trao đổi là một quan hệ về số lượng, là một tỷ lệ

theo đó những giá trị sử dụng loại này được trao đổi với những giá trị sử dụng

loại khác.

* Ví dụ: 1 m vải = 10 kg thóc

* Hai vật thể khác nhau có thể trao đổi được với nhau thì giữa chúng

phải có cơ sở chung nào đó. Vì các hàng hóa khác nhau về giá trị sử dụng

nên không thể lấy giá trị sử dụng để đo lường các hàng hóa. Các hàng hóa

khác nhau chỉ có một thuộc tính chung làm cho chúng có thể so sánh được

với nhau trong khi trao đổi: các hàng hóa đều là sản phẩm của lao động, sản

phẩm của lao động là do lao động xã hội hao phí để sản xuất ra hàng hóa đó.

Thực chất các chủ thể khi trao đổi hàng hóa với nhau là trao đổi lao động

chứa đựng trong hàng hóa. Trong ví dụ trên, giả sử người thợ dệt làm ra

được 1 m vải mất 5 giờ, người nông dân làm ra 10 kg thóc cũng mất 5 giờ.

Trao đổi 1 m vải lấy 10 kg thóc thực chất là trao đổi 5 giờ lao động sản xuất ra

1 m vải với 5 giờ lao động sản xuất ra 10 kg thóc.

Như vậy, hao phí để sản xuất ra hàng hóa là cơ sở chung của trao đổi

gọi là giá trị hàng hóa.

+ Khái niệm: Giá trị của hàng hoá là lao động xã hội của người sản xuất

kết tinh trong hàng hoá.

+ Đặc trưng của giá trị hàng hóa:

* Giá trị là thuộc tính xã hội của hàng hóa.

* Giá trị là một phạm trù lịch sử, nghĩa là nó chỉ tồn tại ở những phương

thức sản xuất có sản xuất và trao đổi hàng hóa.

* Giá trị hàng hóa biểu hiện quan hệ sản xuất xã hội, tức là quan hệ

kinh tế giữa những người sản xuất hàng hóa. Trong nền kinh tế dựa trên chế

độ tư hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ kinh tế giữa người với người biểu hiện

thành quan hệ giữa vật với vật. Hiện tượng vật thống trị ngưòi gọi là sự sùng

bái hàng hóa, khi tiền tệ xuất hiện thì đỉnh cao của sự sùng bái hàng hóa là

sự sùng bái tiền tệ.

* Giá trị trao đổi chỉ là hình thức biểu hiện của giá trị; giá trị là nội dung,

là cơ sở của giá trị trao đổi. Giá trị thay đổi thì giá trị trao đổi cũng thay đổi

theo.

- Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa

+ Hàng hoá là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị.

Hai thuộc tính trên đều do cùng một lao động sản xuất ra hàng hóa.

+ Hai thuộc tính của hàng hóa là sự thống nhất của các mặt đối lập. Sự

đối lập và mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị thể hiện ở chỗ: người làm

ra hàng hóa đem bán chỉ quan tâm đến giá trị hàng hóa do mình làm ra, nếu

họ có chú ý đến giá trị sử dụng cũng chính là để có được giá trị. Ngược lại,

người mua hàng hóa lại chỉ chú ý đến giá trị sử dụng của hàng hóa, nhưng

muốn tiêu dùng giá trị sử dụng đó người mua phải trả giá trị của nó cho người

bán. Nghĩa là quá trình thực hiện giá trị tách rời quá trình thực hiện giá trị sử

dụng: giá trị được thực hiện trước, sau đó giá trị sử dụng mới được thực hiện.

Câu hỏi 58: Phân tích tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng

hóa?

Trả lời:

Hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị. Hai thuộc tính đó

do tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa quyết định. Chính tính

hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá quyết định tính hai mặt của bản thân

hàng hoá.

C.Mác là người đầu tiên đã phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động

sản xuất hàng hoá. Đó là lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Đây không

phải là hai thứ lao động khác nhau mà chỉ là lao động của người sản xuất

hàng hoá, nhưng lao động đó mang tính hai mặt: vừa là lao động cụ thể, vừa

là lao động trừu tượng.

- Lao động cụ thể

+ Khái niệm: Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ

thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định. Mỗi lao động cụ thể có

mục đích riêng, đối tượng riêng, phương tiện riêng, phương pháp riêng, và

kết quả riêng.

Ví dụ: lao động cụ thể của người thợ mộc, mục đích là sản xuất cái

bàn, cái ghế, đối tượng lao động là gỗ, phương pháp của anh ta là các thao

tác về cưa, về bào, khoan, đục; phương tiện được sử dụng là cái cưa, cái

đục, cái bào, cái khoan; kết quả lao động là tạo ra cái bàn, cái ghế.

+ Đặc trưng của lao động cụ thể:

* Mỗi lao động cụ thể tạo ra một loại giá trị sử dụng nhất định. Lao động

cụ thể càng nhiều loại thì càng tạo ra nhiều loại giá trị sử dụng khác nhau.

* Các lao động cụ thể hợp thành hệ thống phân công lao động xã hội.

Cùng với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật, các hình thức lao động cụ thể

ngày càng đa dạng, phong phú, nó phản ánh trình độ phát triển của phân

công lao động xã hội.

* Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa. Giá trị sử dụng là

phạm trù vĩnh viễn, vì vậy lao động cụ thể cũng là phạm trù vĩnh viễn tồn tại

gắn liền với vật phẩm, nó là một điều kiện không thể thiếu trong bất kỳ hình

thái kinh tế - xã hội nào.

* Các hình thức phong phú và đa dạng của lao động cụ thể phụ thuộc

vào trình độ phát triển và sự áp dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất,

đồng thời cũng là tấm gương phản chiếu trình độ phát triển kinh tế và khoa

học - công nghệ ở mỗi thời đại.

* Lao động cụ thể không phải là nguồn gốc duy nhất của giá trị sử dụng

do nó sản xuất ra. Giá trị sử dụng của các vật thể hàng hoá bao giờ cũng do

hai nhân tố hợp thành: vật chất và lao động. Lao động cụ thể của con người

chỉ thay đổi hình thức tồn tại của các vật chất, làm cho nó thích hợp với nhu

cầu của con người.

- Lao động trừu tượng

+ Khái niệm: Lao động của người sản xuất hàng hoá, nếu coi đó là sự

hao phí óc, sức thần kinh và sức cơ bắp nói chung của con người, chứ không

kể đến hình thức cụ thể của nó như thế nào, thì gọi là lao động trừu tượng.

Ví dụ: lao động của người thợ mộc và lao động của người thợ may, nếu

xét vê mặt lao động cụ thể thì hoàn toàn khác nhau, nhưng nếu gạt bỏ tất cả

những sự khác nhau ấy sang một bên thì chúng chỉ còn có một cái chung,

đều phải hao phí sức óc, sức bắp thịt và sức thần kinh của con người.

+ Đặc trưng của lao động trừu tượng:

* Lao động trừu tượng tạo ra giá trị hàng hóa, làm cơ sở cho sự ngang

bằng trao đổi.

* Giá trị của hàng hóa là một phạm trù lịch sử, do đó lao động trừu

tượng tạo ra giá trị hàng hóa cũng là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong

nền sản xuất hàng hóa.

Chú ý: Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa có quan hệ

với tính chất tư nhân và tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hóa. Tính

chất tư nhân và tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hóa có mâu

thuẫn với nhau, đó là mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hóa giản đơn biểu

hiện ở chỗ sản phẩm của người sản xuất hàng hóa riêng biệt có thể không ăn

khớp hoặc không phù hợp với nhu cầu của xã hội hoặc hao phí lao động cá

biệt của ngươi sản xuất hàng hoá có thể cao hơn hay thấp hơn hao phí lao

động mà xã hội có thể chấp nhận. Chính vì những mâu thuẫn đó mà sản xuất

hàng hoá vừa vận động phát triển, lại vừa tiềm ẩn khả năng khủng hoảng

“sản xuất thừa”.

Câu hỏi 59: Lượng giá trị của hàng hóa được xác định như thế nào?

Trả lời

Xét về mặt chất, giá trị hàng hóa là do lao động trừu tượng của người

sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Xét về mặt lượng thì lượng giá trị

của hàng hoá là do lượng lao động hao phí để sản xuất ra hàng hoá đó quyết

định.

Muốn đo lượng lao động hao phí để tạo ra hàng hoá, người ta dùng

thước đo thời gian như: một giờ lao động, một ngày, lao động, một tuần lao

động, v.v.. Do đó, lượng giá trị của hàng hoá cũng do thời gian lao động quyết

định.

Trong thực tế, một loại hàng hoá đưa ra thị trường là do rất nhiều

người sản xuất ra, nhưng mỗi người sản xuất do điều kiện sản xuất, trình độ

tay nghề là không giống nhau, nên thời gian lao động cá biệt để sản xuất ra

hàng hoá của họ khác nhau. Thời gian lao động cá biệt quyết định lượng giá

trị cá biệt của hàng hoá mà từng người sản xuất ra. Vậy phải chăng lao động

cá biệt nào càng lười biếng, vụng về, phải dùng nhiều thời gian hơn để làm ra

hàng hóa, thì hàng hóa đó càng có nhiều giá trị? Hoàn toàn không phải như

vậy, trong thực tế đó chỉ là những hao phí lao động cá biệt của những người

sản xuất hàng hóa. Giá trị hàng hóa không phải được xác định bằng hao phí

lao động cá biệt mà được tính bằng thời gian lao động xã hội cần thiết.

Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra

một hàng hoá trong điều kiện bình thường của xã hội, tức là với một trình độ

kỹ thuật trung bình, trình độ khéo léo trung bình và cường độ lao động trung

bình so với hoàn cảnh xã hội nhất định.

Trên thực tế, thông thường thời gian lao động xã hội cần thiết trùng hợp

với thời gian lao động cá biệt của những người sản xuất và cung cấp đại bộ

phận một loại hàng hoá nào đó trên thị trường.

Câu hỏi 60: Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa?

Trả lời:

Do thời gian lao động xã hội cần thiết luôn thay đổi, nên lượng giá trị

của hàng hoá cũng là một đại lượng không cố định. Sự thay đổi lượng giá trị

của hàng hoá tùy thuộc vào những nhân tố sau:

- Năng suất lao động

+ Khái niệm: Năng suất lao động là năng lực sản xuất của lao động, nó

được tính bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian

hoặc số lượng thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.

+ Có hai loại năng suất lao động: năng suất lao động cá biệt và năng

suất lao động xã hội nhưng chỉ có năng suất lao động xã hội có ảnh hưởng

đến giá trị xã hội của hàng hóa vì trên thị trường, hàng hóa được trao đổi

không phải theo giá trị cá biệt mà theo giá trị xã hội.

+ Năng suất lao động lại tuỳ thuộc vào nhiều nhân tố như: trình độ khéo

léo của người lao động, sự phát triển của khoa học - kỹ thuật và trình độ ứng

dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, sự kết hợp xã hội của sản xuất, hiệu quả

của tư liệu sản xuất và các điều kiện tự nhiên.

+ Ảnh hưởng của năng suất lao động tới lượng giá trị của hàng hóa:

năng suất lao động xã hội càng tăng, thời gian lao động xã hội cần thiết để

sản xuất ra hàng hoá càng giảm, lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng

ít. Ngược lại năng suất lao động xã hội càng giảm, thì thời gian lao động xã

hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá càng tăng và lượng giá trị của một đơn

vị sản phẩm càng nhiều. Lượng giá trị của một đơn vị hàng hoá tỷ lệ thuận

với số lượng lao động kết tinh và tỷ lệ nghịch với năng suất lao động xã hội.

Như vậy, muốn giảm giá trị của mỗi đơn vị hàng hoá xuống, thì ta phải tăng

năng suất lao động xã hội.

* Phân biệt giữa tăng năng suất lao động với tăng cường độ lao động:

+ Khái niệm: Cường độ lao động là khái niệm nói lên mức độ khẩn

trương, là sự căng thẳng mệt nhọc của người lao động.

+ Ảnh hưởng của cường độ lao động đến lượng giá trị hàng hóa: khi

cường độ lao động tăng lên, thì lượng lao động hao phí trong cùng một đơn vị

thời gian cũng tăng lên và lượng sản phẩm được tạo ra cũng tăng lên tương

ứng còn lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm thì không đổi. Xét về bản chất,

tăng cường độ lao động cũng giống như kéo dài thời gian lao động.

- Mức độ phức tạp của lao động

+ Mức độ phức tạp của lao động cũng ảnh hưởng nhất định đến lượng

giá trị của hàng hoá. Theo mức độ phức tạp của lao động có thể chia lao

động thành lao động giản đơn và lao động phức tạp.

+ Lao động giản đơn là sự hao phí lao động một cách giản đơn mà bất

kỳ một người bình thường nào có khả năng lao động cũng có thể thực hiện

được. Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện

thành lao động lành nghề. Trong cùng một đơn vị thời gian lao động như

nhau, lao động phức tạp tạo ra được nhiều giá trị hơn so với lao động giản

đơn.

+ Trong nền sản xuất hàng hóa, hoạt động trao đổi diễn ra liên tục,

phức tạp, để thuận tiện cho trao đổi, người ta lấy lao động giản đơn trung

bình làm đơn vị trao đổi và quy tất cả lao động phức tạp thành lao động giản

đơn trung bình.

Như vậy, lượng giá trị của hàng hoá được đo bằng thời gian lao động

xã hội cần thiết, giản đơn trung bình.

Câu hỏi 61: Giá trị cũ và giá trị mới của H?

Trả lời:

- Cơ cấu lượng giá trị của hàng hóa gồm ba bộ phận: c + v + m.

+ c: giá trị tư liệu sản xuất đã tiêu dùng, bao gồm c1 khấu hao giá trị nhà

xưởng, máy móc thiết bị; c2: giá trị nguyên, nhiên, vật liệu đã tiêu dùng;

+ v: giá trị sức lao động, hay tiền lương;

+ m: giá trị thặng dư.

- Để sản xuát ra hàng hoá cần phải chi phí lao động, bao gồm lao động

quá khứ tồn tại trong các yếu tố tư liệu sản xuất như máy móc, công cụ,

nguyên vật liệu và lao động sống hao phí trong quá trình chế biến tư liệu sản

xuất thành sản phẩm mới. Trong quá trình sản xuất, lao động cụ thể của

người sản xuất có vai trò bảo tồn và di chuyển giá trị của tư liệu sản xuất vào

sản phẩm, đây là bộ phận giá trị cũ trong sản phẩm (ký hiệu là c), còn lao

động trừu tượng (biểu hiện ở sự hao phí lao động sống trong quá trình sản

xuất ra sản phẩm) có vai trò làm tăng thêm giá trị cho sản phẩm, đây là bộ

phận giá trị mới trong sản phẩm (ký hiệu là v + m).

- Vì vậy, cấu thành lượng giá trị hàng hoá bao gồm hai bộ phận: giá trị

cũ tái hiện (c) và giá trị mới (v + m). Ký hiệu w = c + v + m.

Câu hỏi 62: Lịch sử ra đời và bản chất của tiền tệ?

Trả lời:

Hàng hoá là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị.

Về mặt giá trị sử dụng, ta có thể nhận biết trực tiếp được bằng các giác quan.

Nhưng về mặt giá trị, chúng ta thấy được trong hành vi trao đổi, nghĩa là trong

mối quan hệ giữa các hàng hóa với nhau. Chính vì vậy, thông qua sự nghiên

cứu các hình thái biểu hiện của giá trị, qua các giai đoạn phát triển lịch sử,

chúng ta sẽ tìm ra nguồn gốc phát sinh của tiền tệ, hình thái giá trị nổi bật và

tiêu biểu nhất.

- Sự phát triển các hình thái giá trị

+ Hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên:

* Ví dụ: 1 m vải = 10 kg thóc

* Gọi là giản đơn hay ngẫu nhiên, vì khi chế độ cộng sản nguyên thủy

tan rã, trong thời kỳ ban đầu của trao đổi, hàng hóa bất kỳ, tỷ lệ trao đổi bất

kỳ, miễn là hai chủ thể của hàng hóa đồng ý trao đổi.

* Vế trái của phương trình (1 m vải) tự nó không nói lên được giá trị của

nó, giá trị của nó chỉ được biểu hiện và phải nhờ hàng hóa đứng đối diện với

nó (10 kg thóc) nói hộ giá trị của nó, vì thế nó được gọi là hình thái tương đối.

Vế phải của phương trình (10 kg thóc) là hình thái vật ngang giá, vì giá

trị sử dụng của nó được dùng để biểu hiện giá trị của hàng hóa khác (1 m

vải). Hình thái vật ngang giá là mầm mống phôi thai của tiền tệ.

* Nhược điểm của hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên: trao đổi vật

lấy vật, tỷ lệ trao đổi ngẫu nhiên, vật ngang giá chưa cố định, giá trị của một

hàng hóa chỉ được phát hiện ở một hàng hóa nhất định khác với nó, chứ

không biểu hiện ở mọi hàng hóa khác. Khi trao đổi hàng hóa phát triển cao

hơn, có nhiều mặt hàng hơn, đòi hỏi giá trị của một hàng hóa phải được biểu

hiện ở nhiều hàng hóa khác với nó. Do đó, hình thái giá trị giản đơn tự nó

chuyển sang hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng.

+ Hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng:

* Khi lực lượng sản xuất phát triển hơn, sau khi có phân công lao động

xã hội lần thứ nhất, chăn nuôi tách khỏi trồng trọt, trao đổi trở nên thường

xuyên hơn, một hàng hoá này có thể quan hệ với nhiều hàng hoá khác.

Tương ứng với giai đoạn này là hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng.

Ví dụ:

1m vải = 10 kg thóc

hoặc = 2 con gà

hoặc = 0,1 chỉ vàng hoặc.

* Đây là sự mở rộng hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên. Trong ví

dụ trên, giá trị của 1 m vải được biểu hiện ở 10 kg thóc hoặc 2 con gà hoặc

0,1 chỉ vàng. Như vậy, hình thái vật ngang giá đã được mở rộng ra ở nhiều

hàng hoá khác nhau.

* Nhược điểm: trao đổi vật lấy vật, vật ngang giá chưa cố định... 

+ Hình thái chung của giá trị:

* Với sự phát triển cao hơn nữa của lực lượng sản xuất và phân công

lao động xã hội, hàng hoá được đưa ra trao đổi thường xuyên, đa dạng và

nhiều hơn. Nhu cầu trao đổi do đó trở nên phức tạp hơn, người có vải muốn

đổi thóc, nhưng người có thóc lại không cần vải mà lại cần thứ khác. Vì thế,

việc trao đổi trực tiếp không còn thích hợp và gây trở ngại cho trao đổi. Trong

tình hình đó, người ta phải đi con đường vòng, mang hàng hoá của mình đổi

lấy thứ hàng hoá mà nó được nhiều người ưa chuộng, rồi đem hàng hoá đó

đổi lấy thứ hàng hoá mà mình cần. Khi vật trung gian trong trao đổi được cố

định lại ở thứ hàng hoá được nhiều người ưa chuộng, thì hình thái chung của

giá trị xuất hiện.

* Ví dụ:

10 kg thóc hoặc 2 con gà hoặc 0,1 chỉ vàng v.v.. = 1 m vải

* Đến đây, tất cả các hàng hoá đều biểu hiện giá trị của mình ở cùng

một thứ hàng hoá đóng vai trò là vật ngang giá chung.

* Nhược điểm: vật ngang giá chung chưa ổn định ở một thứ hàng hoá.

Các địa phương khác nhau thì hàng hoá dùng làm vật ngang giá chung cũng

khác nhau.

+ Hình thái tiền tệ:

* Khi lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội phát triển hơn

nữa, sản xuất hàng hoá và thị trưòng ngày càng mở rộng, thì tình trạng có

nhiều vật ngang giá chung làm cho trao đổi giữa các địa phương vấp phải khó

khăn, do đó dẫn đến đòi hỏi khách quan phải hình thành vật ngang giá chung

thống nhất. Khi vật ngang giá chung được cố định lại ở một vật độc tôn và

phổ biến thì xuất hiện hình thái tiền tệ của giá trị.

* Ví dụ:

10 kg thóc hoặc 1 m vải hoặc 2 con gà v.v.. = 0,1 chỉ vàng (vàng trở

thành tiền tệ)

* Trong lịch sử, lúc đầu có nhiều kim loại đóng vai trò tiền tệ, nhưng về

sau được cố định lại ở kim loại quý: vàng, bạc và cuối cùng là vàng.

Sở dĩ bạc và vàng đóng vai trò tiền tệ là do những ưu điểm của nó như:

thuần nhất về chất, dễ chia nhỏ, không hư hỏng, với một lượng và thể tích

nhỏ nhưng chứa đựng một lượng giá trị lớn.

* Tiền tệ xuất hiện là kết quả phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi

hàng hoá, khi tiền tệ ra đời thì thế giới hàng hoá được phân thành hai cực:

một cực là các hàng hoá thông thường; còn một cực là hàng hoá (vàng) đóng

vai trò tiền tệ, đại biểu cho giá trị. Đến đây giá trị các hàng hoá đã có một

phương tiện biểu hiện thống nhất. Tỷ lệ trao đổi được cố định lại.

- Bản chất của tiền tệ

Tiền tệ là một hình thái giá trị của hàng hoá, là sản phẩm của quá trình

phát triển sản xuất và trao đổi hàng hoá. Các nhà kinh tế trước C.Mác giải

thích tiền tệ từ hình thái phát triển cao nhất của nó, bởi vậy đã không làm rõ

được bản chất của tiền tệ. Trái lại, C.Mác nghiên cứu tiền tệ từ lịch sử phát

triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá, từ sự phát triển của các hình thái giá

trị hàng hoá, do đó đã tìm thấy nguồn gốc và bản chất của tiền tệ.

Vậy, tiền tệ là hàng hoá đặc biệt được tách ra từ trong thế giới hàng

hoá làm vật ngang giá chung thống nhất cho các hàng hoá khác, nó thể hiện

lao động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá.

Tiền tệ là một hàng hóa đặc biệt vì:

+ Tiền tệ cũng có hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị của

tiền tệ cũng do thời gian lao động xã hội cần thiết sản xuất ra vàng (bạc)

quyết định. Giá trị sử dụng của tiền tệ làm môi giới trong mua bán và làm

chức năng tư bản.

+ Là hàng hóa, tiền tệ cũng có người mua, người bán, cũng có giá cả

(lợi tức). Giá cả của hàng hóa tiền tệ cũng lên xuống xoay quanh quan hệ

cung cầu.

+ Đóng vai trò làm vật ngang giá chung.

Câu hỏi 63: Các chức năng của tiền tệ?

Trả lời:

Theo C.Mác, tiền tệ có năm chức năng sau đây:

Thước đo giá trị

- Tiền tệ dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của các hàng hoá. Muốn

đo lường giá trị của các hàng hoá, bản thân tiền tệ cũng phải có giá trị. Vì vậy,

tiền tệ làm chức năng thước đo giá trị phải là tiền vàng.

- Để đo lường giá trị hàng hoá không cần thiết phải là tiền mặt mà chỉ

cần so sánh với lượng vàng nào đó trong ý tưởng, sở dĩ có thể làm được như

vậy, vì giữa giá trị của vàng và giá trị của hàng hoá trong thực tế đã có một tỷ

lệ nhất định. Cơ sở của tỷ lệ đó là thời gian lao động xã hội cần thiết hao phí

để sản xuất ra hàng hoá đó.

- Giá trị hàng hoá được biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả hàng hoá. Hay

nói cách khác, giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá.

Giá cả hàng hoá chịu ảnh hưởng của các nhân tố sau đây:

+ Giá trị hàng hoá.

+ Giá trị của tiền.

+ Quan hệ cung - cầu về hàng hoá.

Nhưng vì giá trị hàng hóa là nội dung của giá cả, nên trong ba nhân tố

nêu trên thì giá trị vẫn là nhân tố quyết định giá cả.

- Để tiền làm được chức năng thước đo giá trị thì bản thân tiền tệ cũng

phải được quy định một đơn vị tiền tệ nhất định làm tiêu chuẩn đo lường giá

cả của hàng hoá. Đơn vị đó là một trọng lượng nhất định của kim loại dùng

làm tiền tệ. Ở mỗi nước, đơn vị tiền tệ này có tên gọi khác nhau. Đơn vị tiền

tệ và các phần chia nhỏ của nó là tiêu chuẩn giá cả. Tác dụng của tiền khi

dùng làm tiêu chuẩn giá cả không giống với tác dụng của nó khi dùng làm

thước đo giá trị. Là thước đo giá trị, tiền tệ đo lường giá trị của các hàng hoá

khác; là tiêu chuẩn giá cả, tiền tệ đo lường bản thân kim loại dùng làm tiền tệ.

Phương tiện lưu thông

- Tiền làm môi giới trong quá trình trao đổi hàng hoá. Để làm chức năng

lưu thông hàng hoá đòi hỏi phải có tiền mặt. Trao đổi hàng hoá lấy tiền làm

môi giới gọi là lưu thông hàng hoá.

Công thức lưu thông hàng hoá là: H - T - H, khi tiền làm môi giới trong

trao đổi hàng hoá đã làm cho hành vi bán và hành vi mua có thể tách rời nhau

cả về thời gian và không gian. Sự không nhất trí giữa mua và bán chứa đựng

mầm mống của khủng hoảng kinh tế.

- Ở mỗi thời kỳ nhất định, lưu thông hàng hoá bao giờ cũng đòi hỏi một

lượng tiền cần thiết cho sự lưu thông, số lượng tiền này được xác định bởi

quy luật chung của lưu thông tiền tệ.

Theo C.Mác, nếu xem xét trong cùng một thời gian và trên cùng một

không gian thì khối lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông được xác định qua

công thức:

T = (Gh*H)/N =G/N

Trong đó: T là số lượng tiền tệ cần cho lưu thông, H là số lượng hàng

hóa lưu thông trên thị trường, Gh là giá cả trung bình của 1 hàng hóa, G là

tổng số giá cả của hàng hóa, N là số vòng lưu thông của các đồng tiền cùng

loại.

- Quá trình hình thành tiền giấy: lúc đầu tiền tệ xuất hiện dưới hình thức

vàng thỏi, bạc nén. Dần dần nó được thay thế bằng tiền đúc. Trong quá trình

lưu thông, tiền đúc bị hao mòn dần và mất một phần giá trị của nó. Nhưng nó

vẫn được xã hội chấp nhận như tiền đúc đủ giá trị.

Như vậy, giá trị thực của tiền tách rời giá trị danh nghĩa của nó. Sở dĩ

có tình trạng này vì tiền làm phương tiện lưu thông chỉ đóng vai trò trong chốc

lát. Người ta đổi hàng lấy tiền rồi lại dùng nó để mua hàng mà mình cần. Làm

phương tiện lưu thông, tiền không nhất thiết phải có đủ giá trị.

Lợi dụng tình hình đó, khi đúc tiền nhà nưóc tìm cách giảm bớt hàm

lượng kim loại của đơn vị tiền tệ. Giá trị thực của tiền đúc ngày càng thấp so

với giá trị danh nghĩa của nó. Thực tiễn đó dẫn đến sự ra đời của tiền giấy.

Bản thân tiền giấy không có giá trị mà chỉ là ký hiệu của giá trị, do đó việc in

tiền giấy phải tuân theo quy luật lưu thông tiền giấy.

Phương tiện cất trữ

- Làm phương tiện cất trữ, tức là tiền được rút khỏi lưu thông đi vào cất

trữ.

- Sở dĩ tiền làm được chức năng này là vì: tiền là đại biểu cho của cải

xã hội dưới hình thái giá trị, nên cất trữ tiền là một hình thức cất trữ của cải.

- Để làm chức năng phương tiện cất trữ, tiền phải có đủ giá trị, tức là

tiền vàng, bạc. Chức năng cất trữ làm cho tiền trong lưu thông thích ứng một

cách tự phát với nhu cầu tiền cần thiết cho lưu thông. Nếu sản xuất tăng,

lượng hàng hoá nhiều thì tiền cất trữ được đưa vào lưu thông. Ngược lại, nếu

sản xuất giảm lượng hàng hoá lại ít thì một phần tiền rút khỏi lưu thông đi vào

cất trữ.

Phương tiện thanh toán

- Làm phương tiện thanh toán, tiền được dùng để trả nợ, nộp thuế, trả

tiền mua chịu hàng...

- Làm phương tiện thanh toán có thể bằng tiền mặt, séc, chuyển khoản,

thẻ tín dụng... Khi sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển đến một trình độ

nào đó tất yếu nảy sinh việc mua bán chịu. Trong việc mua bán chịu người

mua trở thành con nợ, người bán trở thành chủ nợ. Khi hệ thống chủ nợ và

con nợ phát triển rộng rãi, đến kỳ thanh toán, nếu một khâu nào đó không

thanh toán được sẽ gây khó khăn cho các khâu khác, phá vỡ hệ thống, khả

năng khủng hoảng kinh tế tăng lên.

- Trong điều kiện tiền thực hiện chức năng phương tiện thanh toán thì

công thức số lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông sẽ được triển khai như

sau:

Nếu ký hiệu:

T là số lượng tiền tệ cần cho lưu thông.

G là tổng số giá cả của hàng hóa.

Gc là tổng số giá cả hàng bán chịu.

Tk là tổng số tiền khấu trừ cho nhau.

Ttt là tổng số tiền thanh toán đến kỳ hạn trả.

N là số vòng lưu thông của các đồng tiền cùng loại.

Ta có:

T = (G - Gc - Tk + Ttt)/N

Tiền tệ thế giới

Khi quan hệ buôn bán giữa các quốc gia với nhau xuất hiện, thì tiền tệ

làm chức năng tiền tệ thế giới, nghĩa là thanh toán quốc tế. Làm chức năng

tiền tệ thế giới phải là tiền vàng hoặc tiền tín dụng được thừa nhận thanh toán

quốc tế. Việc đổi tiền của một quốc gia này thành tiền của một quốc gia khác

được tiến hành theo tỷ giá hối đoái - đó là giá cả đồng tiền của một quốc gia

này so với đồng tiền của quốc gia khác.

Câu hỏi 64: Nội dung và tác động của quy luật giá trị?

Trả lời:

Nội dung yêu cầu của quy luật giá trị

- Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và lưu thông

hàng hóa, ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự tồn tại và

phát huy tác dụng của quy luật giá trị.

- Yêu cầu của quy luật giá trị:

+ Thứ nhất, theo quy luật này, sản xuất hàng hóa được thực hiện theo

hao phí lao động xã hội cần thiết, nghĩa là cần tiết kiệm lao động (cả lao động

quá khứ và lao động sống) nhằm: đối với một hàng hóa thì giá trị của nó phải

nhỏ hơn hoặc bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng

hóa đó, tức là giá cả thị trường của hàng hóa

+ Thứ hai, trong trao đổi phải tuân theo nguyên tắc ngang giá, nghĩa là

phải đảm bảo bù đắp được chi phí cho người sản xuất (tất nhiên chi phí đó

phải dựa trên cơ sở thời gian lao động xã hội cần thiết, chứ không phải bất kỳ

chi phí cá biệt nào) và đảm bảo có lãi để tái sản xuất mở rộng.

- Sự tác động, hay biểu hiện sự hoạt động của quy luật giá trị được thể

hiện thông qua sự vận động của giá cả hàng hoá. Vì giá trị là cơ sở của giá

cả, còn giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị, nên trước hết giá cả phụ

thuộc vào giá trị.

Trên thị trường, ngoài giá trị, giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố

khác như: cạnh tranh, cung - cầu, sức mua của đồng tiền. Sự tác động của

các nhân tố này làm cho giá cả hàng hoá trên thị trường tách rời giá trị và lên

xuống xoay quanh trục giá trị của nó. Sự vận động giá cả thị trường của hàng

hoá xoay quanh trục giá trị của nó chính là cơ chế hoạt động của quy luật giá

trị. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường mà quy luật giá trị phát huy

tác dụng.

Tác động của quy luật giá trị

- Thứ nhất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá.

- Điều tiết sản xuất tức là điều hoà, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa

các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Tác dộng này của quy luật giá trị

thông qua sự biến động của giá cả hàng hoá trên thị trường dưới tác động

của quy luật cung - cầu.

* Nếu cung nhỏ hơn cầu, thì giá cả lớn hơn giá trị, nghĩa là hàng hóa

sản xuất ra có lãi, bán chạy. Giá cả cao hơn giá trị sẽ kích thích mở rộng và

đẩy mạnh sản xuất để táng cung; ngược lại cầu giảm vì giá tăng.

* Nếu cung lớn hơn cầu, sản phẩm sản xuất ra quá nhiều so với nhu

cầu, giá cả thấp hơn giá trị, hàng hóa khó bán, sản xuất không có lãi. Thực tế

đó, tự người sản xuất ra quyết định ngừng hoặc giảm sản xuất; ngược lại, giá

giảm sẽ kích thích tăng cầu, tự nó là nhân tố làm cho cung tăng.

* Cung cầu tạm thời cân bằng; giá cả trùng hợp với giá trị. Bề mặt nền

kinh tế người ta thường gọi là “bão hòa”. Tuy nhiên nền kinh tế luôn luôn vận

động, do đó quan hệ giá cả và cung cầu cũng thường xuyên biến động liên

tục.

Như vậy, sự tác động trên của quy luật giá trị đã dẫn đến sự di chuyển

sức lao động và tư liệu sản xuất giữa các ngành sản xuất khác nhau. Đây là

vai trò điều tiết sản xuất của quy luật giá trị.

+ Điều tiết lưu thông của quy luật giá trị cũng thông qua diễn biến giá cả

trên thị trường. Sự biến động của giá cả thị trường cũng có tác dụng thu hút

luồng hàng từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao, do đó làm cho lưu thông

hàng hoá thông suốt.

Như vậy, sự biến động của giá cả trên thị trường không những chỉ rõ

sự biến động về kinh tế, mà còn có tác động điều tiết nền kinh tế hàng hoá.

- Thứ hai, kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng

suất lao động, thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển.

Trong nền kinh tế hàng hoá, mỗi ngưòi sản xuất hàng hoá là một chủ

thể kinh tế độc lập, tự quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.

Nhưng do điều kiện sản xuất khác nhau nên hao phí lao động cá biệt của mỗi

người khác nhau, người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn

hao phí lao động xã hội của hàng hoá ở thế có lợi sẽ thu được lãi cao. Người

sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt lớn hơn hao phí lao động xã hội cần

thiết sẽ ở thế bất lợi, lỗ vốn. Để giành lợi thế trong cạnh tranh và tránh nguy

cơ vỡ nợ, phá sản, họ phải hạ thấp hao phí lao động cá biệt của mình sao

cho bằng hao phí lao động xã hội cần thiết. Muốn vậy, họ phải luôn tìm cách

cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm chặt chẽ, tăng

năng suất lao động. Sự cạnh tranh quyết liệt càng thúc đẩy quá trình này diễn

ra mạnh mẽ hơn, mang tính xã hội. Kết quả là lực lượng sản xuất xã hội được

thúc đẩy phát triển mạnh mẽ.

- Thứ ba, thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá người sản xuất

hàng hoá thành người giàu, người nghèo.

Quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị tất yếu dẫn đến kết quả là: những

người có điều kiện sản xuất thuận lợi, có trình độ, kiến thức cao, trang bị kỹ

thuật tốt nên có hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần

thiết, nhờ đó phát tài, giàu lên nhanh chóng. Họ mua sắm thêm tư liệu sản

xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh. Ngược lại những người không có điều

kiện thuận lợi, làm ăn kém cỏi, hoặc gặp rủi ro trong kinh doanh nên bị thua lỗ

dẫn đến phá sản trở thành nghèo khó.

HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ

Câu hỏi 65: Công thức chung của tư bản?

Trả lời:

- Tiền là sản vật cuối cùng của lưu thông hàng hoá, đồng thời cũng là

hình thức biểu hiện đầu tiên của tư bản. Mọi tư bản lúc đầu đều biểu hiện

dưới hình thái một số tiền nhất định. Nhưng bản thân tiền không phải là tư

bản. Tiền chỉ biến thành tư bản trong những điều kiện nhất định, khi chúng

được sử dụng để bóc lột lao động của người khác.

- Sự vận động của đồng tiền thông thường và đồng tiền là tư bản có sự

khác nhau hết sức cơ bản. Tiền được coi là tiền thông thường, vận động theo

công thức: H - T - H (hàng tiền - hàng), nghĩa là sự chuyển hoá của hàng hoá

thành tiền, rồi tiền lại chuyển hoá thành hàng hoá. Còn tiền được coi là tư

bản, thì vận động theo công thức: T - H - T (tiền - hàng tiền), tức là sự chuyển

hoá của tiền thành hàng hoá, rồi hàng hoá lại chuyển hoá ngược lại thành

tiền.

- So sánh giữa hai công thức H-T-H với công thức T-H-T

+ Điêm giống nhau: cả hai sự vận động, đều do hai giai đoạn đối lập

nhau là mua và bán hợp thành, trong mỗi giai đoạn đều có hai nhân tố vật

chất đối diện nhau là tiền và hàng, và hai người có quan hệ kinh tế với nhau

là người mua và người bán.

+ Điểm khác nhau:

H-T-H T-H-T

Điểm mở đầu,

kết thúc

Hàng hóa, tiền đóng vai

trò trung gian.

Tiền tệ, hàng hóa đóng vai trò

trung gian.

Trật tự hành vi Bán trước, mua sau. Mua trước, bán sau

Mục đích vận

động

Mục đích của lưu thông

hàng hoá giản đơn là giá

trị sử dụng để thoả mãn

nhu cầu, nên các hàng

hoá trao đổi phải có giá trị

sử dụng khác nhau.

Mục đích của lưu thông tư bản

không phải là giá trị sử dụng,

mà là giá trị, hơn nữa là giá trị

tăng thêm. Vì vậy, nếu số tiền

thu về bằng số tiền ứng ra, thì

quá trình vận động trở nên vô

nghĩa. Do đó, số tiền thu về

phải lớn hơn số tiền ứng ra,

nên công thức vận động đầy đủ

của tư bản là T - H - T, trong đó

T' = T + AT. Số tiền trội hơn so

với số tiền đã ứng ra (AT) được

C.Mác gọi là giá trị thặng dư.

Số tiền ứng ra ban đầu đã

chuyển hoá thành tư bản.

Giới hạn vận

động

Sự vận động sẽ kết thúc

ở giai đoạn thứ hai, khi

Sự vận động của tư bản là

không có giới hạn, vì sự lớn lên

những người trao đổi có

được giá trị sử dụng mà

người đó cần đến. Do đó

sự vận động là có giới

hạn.

của giá trị là không có giới hạn.

Vậy, tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư.

Công thức T - H - T' được gọi là công thức chung của tư bản, vì sự vận

động của mọi tư bản đều biểu hiện trong lưu thông dưới dạng khái quát đó,

dù đó là tư bản thương nghiệp, tư bản công nghiệp hay tư bản cho vay.

Điều này rất dễ dàng nhận thấy trong thực tiễn, bởi vì hình thức vận

động của tư bản thương nghiệp là mua vào để bán ra đắt hơn, rất thích hợp

với công thức trên. Tư bản công nghiệp vận động phức tạp hơn, nhưng dù

sao cũng không thể tránh khỏi những giai đoạn T - H và H - T". Còn sự vận

động của tư bản cho vay để lấy lãi chẳng qua chỉ là công thức trên được rút

ngắn lại thành T - T’.

Câu hỏi 66: Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản?

Trả lời:

Trong công thức T - H – T’ trong đó T' = T + AT. Vậy, giá trị thặng dư

(AT) do đâu mà có? 

Các nhà kinh tế học tư sản đã cố tình chứng minh rằng quá trình lưu

thông đẻ ra giá trị thặng dư, nhằm mục đích che giấu nguồn gốc làm giàu của

các nhà tư bản. Tuy nhiên trong lưu thông, dù người ta trao đổi ngang giá hay

không ngang giá thì cũng không tạo ra giá trị mới, do đó cũng không tạo ra

giá trị thặng dư.

- Xét trường hơp trao đổi ngang giá

Nếu hàng hoá được trao đổi ngang giá, thì chỉ có sự thay đổi hình thái

của giá trị, từ tiền thành hàng và từ hàng thành tiền, còn tổng giá trị cũng như

phần giá trị nằm trong tay mỗi bên tham gia trao đổi trước sau vẫn không thay

đổi. Tuy nhiên, về mặt giá trị sử dụng, thì cả hai bên trao đổi đều có lợi vì có

được những hàng hoá thích hợp với nhu cầu của mình.

Như vậy, trao đổi theo nguyên tắc ngang giá không tạo ra giá trị thặng

dư.

- Xét trường hợp trao đổi không ngang giá:

Xảy ra ba trường hợp:

+ Trường hợp thứ nhất, nếu giả định mọi người đều bán hàng hóa cao

hơn giá trị. Trong thực tế không có nhà tư bản nào lại chỉ đóng vai trò là

người bán hàng hóa, mà lại không là người đi mua các yếu tố sản xuất để

sản xuất ra các hàng hóa đó. Do đó khi là người mua, họ lại phải mua cao

hơn giá trị. Do đó, số lời mà họ thu được khi là người bán thì sẽ mất đi khi là

người mua. Hành vi bán hàng hóa cao hơn giá trị đã không hề mang lại một

chút giá trị thặng dư nào.

+ Trường hợp thứ hai, nếu giả định mọi người đều mua hàng hóa thấp

hơn giá trị. Trong trường hợp này cũng tương tự như trường hợp ở trên, cái

mà anh ta thu được do mua rẻ, sẽ bị mất đi khi anh ta là người bán vì cũng

phải bán thấp hơn giá trị thì các nhà tư bản khác mới mua. Rút cục giá trị

thặng dư vẫn không được đẻ ra từ hành vi mua rẻ.

+ Trường hợp thứ ba, giả định trong xã hội tư bản lại có một số kẻ giỏi

bịp bợm, lừa lọc, bao giờ họ cũng mua được rẻ và bán được đắt. Nếu xét

riêng bản thân thì họ là những người được lợi.

Nhưng nếu xét chung cả xã hội, thì giá trị thặng dư mà họ thu được lại

chính là cái mà người khác mất đi, do đó tổng số giá trị hàng hóa trong xã hội

không vì hành vi cướp đoạt, lừa gạt của họ mà tăng lên. Ăn cắp lẫn nhau

trong cùng giai cấp không thể là cách làm giàu phổ biến của giai cấp tư sản

được. Giai cấp tư sản không thể làm giàu trên lưng bản thân mình.

Sau khi xem xét, lật đi lật lại vấn đề thì lưu thông vẫn không thể đẻ ra

giá trị, không thể làm tăng thêm giá trị được, dù trao đổi ngang giá hay trao

đổi không ngang giá.

Như vậy lưu thông đã không đẻ ra giá trị thặng dư. Vậy phải chăng giá

trị thặng dư có thể đẻ ra ở ngoài lưu thông?

- Ở ngoài lưu thông chúng ta xem xét hai trường hợp:

+ Ở ngoài lưu thông, nếu người trao đổi vẫn đứng một mình với hàng

hóa của anh ta, thì giá trị của những hàng hóa ấy không hề tăng lên một chút

nào.

+ Ở ngoài lưu thông, nếu người sản xuất muốn sáng tạo thêm giá trị

mới cho hàng hoá, thì phải bằng lao động của mình.

Đến đây, C.Mác đã khẳng định "Vậy là tư bản không thể xuất hiện từ

lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất

hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thông".

Đây chính là mâu thuẫn chứa đựng trong công thức chung của tư bản.

Vấn đề ở đây là người có tiền cần phải tìm thấy trên thị trường một thứ hàng

hoá mà khi tiêu dùng nó, thì sáng tạo ra được giá trị, hơn nữa lại sáng tạo ra

một giá trị lớn hơn giá trị bản thân nó. Nói cách khác, người có tiền phải tìm

thấy trên thị trường một thứ hàng hoá đặc biệt mà giá trị sử dụng của nó có

thuộc tính là nguồn gốc của giá trị. Hàng hoá đặc biệt đó chính là sức lao

động.

Câu hỏi 67: Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa?

Trả lời:

- Sức lao động

Khái niệm: Sức lao động là toàn bộ các thể lực và trí lực ở trong thân

thể một con người, trong nhân cách sinh động của con người, thể lực và trí

lực mà con người phải làm cho hoạt động để sản xuất ra những vật có ích.

Trong bất cứ xã hội nào, sức lao động cũng là điều kiện cơ bản của sản

xuất. Nhưng không phải trong bất kỳ điều kiện nào, sức lao động cũng là

hàng hóa. Thực tiễn lịch sử cho thấy, sức lao động của người nô lệ không

phải là hàng hóa vì bản thân người nô lệ thuộc sở hữu của chủ nô nên anh ta

không có quyền bán sức lao động của mình. Người thợ thủ công tự do tuy

được tuỳ ý sử dụng sức lao động của mình, nhưng sức lao động của anh ta

cũng không phải là hàng hóa, vì anh ta có tư liệu sản xuất để làm ra sản

phẩm nuôi sống mình, chứ chưa buộc phải bán sức lao động để sống. Sức

lao động để trở thành hàng hoá cần phải có những điều kiện nhất định.

- Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hoá

Thứ nhất, người có sức lao động phải được tự do về thân thể, làm chủ

được sức lao động của mình và có quyền bán sức lao động của mình như

một hàng hóa.

Thứ hai, người có sức lao động phải bị tước đoạt hết mọi tư liệu sản

xuât và tư liệu sinh hoạt. Họ trở thành người “vô sản”. Để tồn tại buộc họ phải

bán sức lao động của mình để sống.

Sức lao động biến thành hàng hoá là điều kiện quyết định để tiền biến

thành tư bản. Tuy nhiên, để tiền biến thành tư bản thì lưu thông hàng hoá và

lưu thông tiền tệ phải phát triển tới một mức độ nhất định.

Trong các hình thái xã hội trước chủ nghĩa tư bản chỉ có sản phẩm của

lao động mới là hàng hóa. Chỉ đến khi sản xuất hàng hóa phát triển đến một

mức độ nhất định nào đó, các hình thái sản xuất xã hội cũ (sản xuất nhỏ,

phường hội, phong kiến) bị phá vỡ, thì mới xuất hiện những điều kiện để cho

sức lao động trở thành hàng hóa, chính sự xuất hiện của hàng hóa sức lao

động đã làm cho sản xuất hàng hóa trở nên có tính chất phổ biến và đã báo

hiệu sự ra đời của một thời đại mới trong lịch sử xã hội – thời đại của chủ

nghĩa tư bản.

Câu hỏi 68: Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động?

Trả lời:

Cũng giống như mọi hàng hóa khác, hàng hóa sức lao động cũng có

hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng.

- Giá trị hàng hoá sức lao động

+ Giống như các hàng hoá khác, giá trị hàng hoá sức lao động cũng do

thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động

quyết định.

+ Sức lao động chỉ tồn tại như năng lực sống của con người. Muốn tái

sản xuất ra năng lực đó, người công nhân phải tiêu dùng một lượng tư liệu

sinh hoạt nhất định để ăn, mặc, ở, học nghề, v.v.. Ngoài ra người lao động

còn phải thoả mãn những nhu cầu của gia đình và con cái anh ta nữa. Chỉ có

như vậy, thì sức lao động mới được sản xuất và tái sản xuất ra một cách liên

tục.

Như vậy thời gian lao động xã hội cần thiết để tái sản xuất ra sức lao

động sẽ được quy thành thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra

những tư liệu sinh hoạt nuôi sống bản thân người công nhân và gia đình anh

ta; hay nói cách khác, giá trị hàng hoá sức lao động được đo gián tiếp bằng

giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động.

+ Là hàng hoá đặc biệt, giá trị hàng hoá sức lao động khác với hàng

hoá thông thường ở chỗ nó còn bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử.

Yếu tố tinh thần: ngoài những nhu cầu về vật chất, người công nhân

còn có những nhu cầu về tinh thần, văn hoá...

Yếu tố lịch sử: nhu cầu của con người phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử

của mỗi nước ở từng thời kỳ, đồng thời nó còn phụ thuộc cả vào điều kiện địa

lý, khí hậu của nước đó.

+ Mặc dù bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử, nhưng đối với mỗi một

nước nhất định và trong một thời kỳ nhất định, thì quy mô những tư liệu sinh

hoạt cần thiết cho người lao động là một đại lượng nhất định, do đó có thể

xác định được lượng giá trị hàng hoá sức lao động do những bộ phận sau

đây hợp thành:

Một là, giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất vì tinh thần cần thiết

để tái sản xuất sức lao động, duy trì đời sống của bản thân người công nhân;

Hai là, phí tổn đào tạo người công nhân;

Ba là, giá trị những tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết cho

con cái và gia đình người công nhân.

- Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động

+ Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động thể hiện ra trong quá trình

tiêu dùng sức lao động, tức là quá trình lao động của người công nhân.

+ Quá trình sử dụng hay tiêu dùng hàng hoá sức lao động khác với quá

trình tiêu dùng hàng hoá thông thường ở chỗ:

* Đối với các hàng hóa thông thường, sau quá trình tiêu dùng hay sử

dụng thì cả giá trị lẫn giá trị sử dụng của nó đều tiêu biến mất theo thời gian.

* Đối với "hàng hoá sức lao động, quá trình tiêu dùng chính là quá trình

sản xuất ra một loại hàng hoá nào đó, đồng thời là quá trình tạo ra một giá trị

mới lớn hơn giá trị của bản thân hàng hoá sức lao động. Phần lớn hơn đó

hình là giá trị thặng dư mà nhà tư bản sẽ chiếm đoạt.

Như vậy, giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động có tính chất đặc

biệt, nó là nguồn gốc sinh ra giá trị, tức là nó có thể tạo ra giá trị mới lớn hơn

giá trị của bản thân nó. Đây chính là chìa khoá để giải thích mâu thuẫn của

công thức chung của tư bản. Chính đặc tính này đã làm cho sự xuất hiện của

hàng hóa sức lao động trở thành điều kiện để tiền tệ chuyển hóa thành tư

bản.

Câu hỏi 69: Phân tích sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị

sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư?

Trả lời:

- Quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa trước hết là quá trình sản xuất ra

giá trị sử dụng. Nhưng mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là

giá trị sử dụng mà là giá trị, hơn nữa là giá trị thặng dư. Vì vậy, quá trình sản

xuất tư bản chủ nghĩa là một quá trình hai mặt: quá trình sản xuất ra giá trị sử

dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. Vấn đề ở đây là xét mặt thứ hai

của quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa.

- Để hiểu rõ quá trình sản xuất giá trị thặng dư, chúng ta lấy việc sản

xuất sợi của một nhà tư bản làm ví dụ. Đây là sự thống nhất giữa quá trình

sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình lớn lên của giá trị hay là quá trình sản

xuất giá thị thặng dư.

Giả định để sản xuất 10 kg sợi, cần 10 kg bông và giá 10 kg bông là 10

$. Để biến số bông đó thành sợi, một công nhân phải lao động trong 6 giờ và

hao mòn máy móc là 2 $; giá trị sức lao động trong một ngày là 3 $ và ngày

lao động là 12 giờ; trong 1 giờ lao động, người công nhân tạo ra một lượng

giá trị là 0,5 $; cuối cùng giả định trong quá trình sản xuất sợi đã hao phí theo

thời gian lao động xã hội cần thiết.

Với giả định như vậy, nếu nhà tư bản chỉ bắt công nhân lao động trong

6 giờ, thì nhà tư bản phải ứng ra là 15 $ và giá trị của sản phẩm mới (10 kg

sợi) mà nhà tư bản thu được cũng là 15 $. Như vậy, nếu quá trình lao động

chỉ kéo dài đến cái điểm đủ bù đắp lại giá trị sức lao động (6 giờ), tức là bằng

thời gian lao động tất yếu, thì chưa có sản xuất ra giá trị thặng dư, do đó tiền

chưa biến thành tư bản.

Trong thực tế, quá trình lao động không dừng lại ở điểm đó. Giá trị sức

lao động mà nhà tư bản phải trả khi mua và giá trị mà sức lao động đó có thể

tạo ra cho nhà tư bản là hai đại lượng khác nhau, mà nhà tư bản đã tính đến

trước khi mua sức lao động. Nhà tư bản đã trả tiền mua sức lao động trong

một ngày (12 giờ). Việc sử dụng sức lao động trong ngày đó là thuộc quyền

của nhà tư bản.

Nếu nhà tư bản bắt công nhân lao động 12 giờ trong ngày như đã thoả

thuận thì:

Chi phí sản xuấtGiá trị sản phẩm mới

(20 kg sợi)

- Tiền mua bông (20 kg): 20 $

- Tiền hao mòn máy móc: 4 $

- Giá trị của bông được chuyển vào sợi:

20 $

- Giá trị của máy móc được chuyển vào

- Tiền mua sức lao động trong

1 ngày: 3 $

sợi: 4 $

- Giá trị mới do lao động của công nhân

tạo ra trong 12 giờ lao động: 6 $

Tổng cộng: 27 $ Tổng cộng: 30 $

Như vậy, toàn bộ chi phí sản xuất mà nhà tư bản bỏ ra là 27 $, còn giá

trị của sản phẩm mới (20 kg sợi) do công nhân sản xuất ra trong 12 giờ lao

động là 30 $. Vậy 27 $ ứng trước đã chuyển hoá thành 30 $, đã đem lại một

giá trị thặng dư là 3 $. Do đó tiền tệ ứng ra ban đầu đã chuyển hoá thành tư

bản.

- Từ sự nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư, có thể rút ra

những kết luận sau đây:

Một là, phân tích giá trị sản phẩm được sản xuất ra (20 kg sợi), chúng

ta thấy có hai phần:

* Giá trị những tư liệu sản xuất nhờ lao động cụ thể của công nhân mà

được bảo toàn và di chuyển vào sản phẩm mới gọi là giá trị cũ (trong ví dụ là

24 $).

* Giá trị do lao động trừu tượng của công nhân tạo ra trong quá trình

sản xuất gọi là giá trị mới (trong ví dụ là 6 $). Phần giá trị mới này lớn hơn giá

trị sức lao động, nó bằng giá trị sức lao động cộng với giá trị thặng dư.

Vậy, giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị

sức lao động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không.

Hai là, ngày lao động của công nhân bao giờ cũng được chia thành hai

phần: phần ngày lao động mà người công nhân tạo ra một lượng giá trị ngang

với giá trị sức lao động của mình gọi là thời gian lao động cần thiết và lao

động trong khoảng thời gian đó là lao động cần thiết. Phần còn lại của ngày

lao động gọi là thời gian lao động thặng dư và lao động trong khoảng thời

gian đó gọi là lao động thặng dư.

Ba là, sau khi nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư, chúng ta

nhận thấy mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản đã được giải quyết.

Việc chuyển hoá của tiền thành tư bản diễn ra trong lưu thông, mà đồng thời

không diễn ra trong lĩnh vực đó. Chỉ có trong lưu thông nhà tư bản mới mua

được một thứ hàng hoá đặc biệt, đó là hàng hoá sức lao động. Sau đó nhà tư

bản sử dụng hàng hoá đặc biệt đó trong sản xuất, tức là ngoài lĩnh vực lưu

thông để sản xuất ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Do đó tiền của nhà tư

bản mới chuyển thành tư bản.

Câu hỏi 70: Bản chất của tư bản?

Trả lời:

- Các nhà kinh tế học tư sản thường cho rằng mọi công cụ lao động,

mọi tư liệu sản xuất đều là tư bản. Thực ra bản thân tư liệu sản xuất không

phải là tư bản, nó chỉ là yếu tố cơ bản của sản xuất trong bất cứ xã hội nào.

Tư liệu sản xuất chỉ trở thành tư bản khi nó trở thành tài sản của các nhà tư

bản và được dùng để bóc lột lao động làm thuê. Khi chế độ tư bản bị xoá bỏ

thì tư liệu sản xuất không còn là tư bản nữa.

Như vậy, tư bản không phải là một vật, mà là một quan hệ sản xuất xã

hội nhất định giữa người với người trong quá trình sản xuất, nó có tính chất

tạm thời trong lịch sử.

- Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao động

không công của công nhân làm thuê. Như vậy, bản chất của tư bản là thể

hiện quan hệ sản xuất xã hội mà trong đó giai cấp tư sản chiếm đoạt giá trị

thặng dư do giai cấp công nhân sáng tạo ra.

Câu hỏi 71: Thế nào là tư bản bất biến? Tư bản khả biến? Ý nghĩa của

việc phân chia cặp phạm trù trên?

Trả lời:

Tư bản bất biến, tư bản khả biến

Muốn tiến hành sản xuất, nhà tư bản phải ứng tư bản (bỏ vốn) ra để

mua tư liệu sản xuất và sức lao động, tức là biến tư bản tiền tệ thành các yếu

tố của quá trình sản xuất, thành các hình thức tồn tại khác nhau của tư bản

sản xuất. Các bộ phận khác nhau đó của tư bản có vai trò khác nhau trong

quá trình sản xuất giá trị thặng dư.

- Trước hết, xét bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức tư liệu sản xuất.

Tư liệu sản xuất có nhiều loại:

+ Có loại được sử dụng toàn bộ trong quá trình sản xuất, nhưng chỉ

hao mòn dần, do đó chuyển dần từng phần giá trị của nó vào sản phẩm như

máy móc, thiết bị, nhà xưởng...

+ Có loại khi đưa vào sản xuất thì chuyển toàn bộ giá trị của nó trong

một chu kỳ sản xuất như nguyên liệu, nhiên liệu. Song, giá trị của bất kỳ tư

liệu sản xuất nào cũng đều nhờ có lao động cụ thể của công nhân mà được

bảo toàn và di chuyển vào sản phẩm, nên giá trị đó không thể lớn hơn giá trị

tư liệu sản xuất đã bị tiêu dùng để sản xuất ra sản phẩm. Cái bị tiêu dùng của

tư liệu sản xuất là giá trị sử dụng, kết quả của việc tiêu dùng đó là tạo ra một

giá trị sử dụng mới. Giá trị tư liệu sản xuất được bảo toàn dưới dạng giá trị sử

dụng mới chứ không phải là được sản xuất ra.

Khái niệm: bộ phận tư bản biến thành tư liệu sản xuất mà giá trị được

bảo toàn và chuyển vào sản phẩm, không thay đổi về lượng giá trị của nó,

được C.Mác gọi là tư bản bất biến, và ký hiệu là c.

- Xét bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động:

+ Một mặt, giá trị của nó biến thành các tư liệu sinh hoạt của người

công nhân và mất đi trong tiêu dùng của công nhân.

+ Mặt khác, trong quá trình lao động, bằng lao động trừu tượng, công

nhân tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân sức lao động, nó bằng giá

trị sức lao động cộng với giá trị thặng dư.

Như vậy, bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động đã không ngừng

chuyển hoá từ đại lượng bất biến thành một đại lượng khả biến, tức là đã

tăng lên về lượng trong quá trình sản xuất.

Khái niệm: bộ phận tư bản biến thành sức lao động không tái hiện ra,

nhưng thông qua lao động trừu tượng của công nhân làm thuê mà tăng lên,

tức là biến đổi về lượng, được C.Mác gọi là tư bản khả biến, và ký hiệu là V.

Ý nghĩa của việc phản chia cặp phạm trù trên.

Việc phản chia cặp phạm trù trên sẽ vạch rõ bản chất bóc lột của chủ

nghĩa tư bản, chỉ có lao động của công nhân làm thuê mới tạo ra giá trị thặng

dư cho nhà tư bản.

Câu hỏi 72: Tỷ suất, khối lượng giá trị thặng dư và ý nghĩa của nó?

Trả lời:

- Tỷ suất giá trị thặng dư

+ Khái niệm: Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ số tính theo phần trăm giữa

giá trị thặng dư và tư bản khả biến cần thiết để sản xuất ra giá trị thặng dư đó.

+ Công thức: nếu ký hiệu m’ là tỷ suất giá trị thặng dư, m là giá trị thặng

dư, V là tư bản khả biến, thì m’ được xác định bằng công thức:

m' = (m/v)*100%

+ Ý nghĩa:

* Tỷ suất giá trị thặng dư chỉ rõ trong tổng số giá trị mới do sức lao

động tạo ra, thì công nhân được hưởng bao nhiêu, nhà tư bản chiếm đoạt

bao nhiêu.

* Tỷ suất giá trị thặng dư còn chỉ rõ, trong một ngày lao động, phần thời

gian lao động thặng dư mà người công nhân làm cho nhà tư bản chiếm bao

nhiêu phần trăm so với thời gian lao động tất yếu làm cho mình.

Do đó, có thể biểu thị tỷ suất giá trị thặng dư theo một công thức khác:

m = [t’ (thời gian lao đông thăng dư)/t (thời gian lao động tất yếu)] *

100 %

* Tỷ suất giá trị thặng dư nói lên trình độ bóc lột của nhà tư bản đối với

công nhân làm thuê, nó chưa nói rõ quy mô bóc lột. Để phản ánh quy mô bóc

lột, C.Mác sử dụng phạm trù khối lượng giá trị thặng dư.

- Khối lượng giá trị thặng dư

+ Khái niệm: Khối lượng giá trị thặng dư là tích số giữa tỷ suất giá trị

thặng dư và tổng tư bản khả biến đã được sử dụng.

+ Công thức: nếu ký hiệu M là khối lượng giá trị thặng dư, V là tổng tư

bản khả biến, thì M được xác định bằng công thức:

M = m’.V

+ Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì khối lượng giá trị thặng dư càng

tăng, vì trình độ bóc lột sức lao động càng tăng. Khối lượng giá trị thặng dư

phán ánh quy mô của sự bóc lột.

Câu hỏi 73: Phân tích quá trình sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối?

Trả lời:

Trên thực tế nhà tư bản luôn luôn tìm cách nâng cao trình độ bóc lột để

thu được thật nhiều giá trị thặng dư. Trong giai đoạn phát triển đầu tiên của

sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi kỹ thuật còn thấp, tiến bộ chậm chạp thì

phương pháp chủ yếu để tăng giá trị thặng dư là kéo dài ngày lao động của

công nhân.

- Khái niệm: Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư được tạo ra do

kéo dài thời gian lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng

suất lao động xã hội, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu không

thay đổi.

Ví dụ: Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao

động tất yếu và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư. Điều đó có thể biểu diễn

bằng sơ đồ sau đây:

m' = (4/4) * 100% = 100%

Nếu nhà tư bản kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ, trong khi thời gian

tất yếu không thay đổi, vẫn là 4 giờ. Khi đó ngày lao động được chia như sau:

Do đó tỷ suất giá trị thặng dư là:

m' = (6/4) * 100% = 150%

Như vậy, khi kéo dài tuyệt đối ngày lao động trong điều kiện thời gian

lao động tất yếu không thay đổi, thì thời gian lao động thặng dư tăng lên, nên

tỷ suất giá trị thặng dư tăng lên. Trước đây tỷ suất giá trị thặng dư là 100%,

thì bây giờ là 150%.

- Xu hướng của các nhà tư bản là ra sức kéo dài ngày lao động đến

cực độ. Nếu có thể thì họ bắt công nhân làm 24 giờ một ngày. Họ đã bỏ tiền

ra mua sức lao động trong một ngày thì họ muốn sử dụng hàng hoá mua

được suốt cả ngày đó. Nhưng ngày lao động không thể kéo dài quá 24 giờ và

không có một ai có thể làm việc được suốt 24 giờ. Vì người công nhân cần

phải có thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí,... để phục hồi sức khoẻ. Việc kéo

dài ngày lao động còn vấp phải sự phản kháng của giai cấp công nhân.

- Giai cấp tư sản muốn kéo dài ngày lao động, còn giai cấp công nhân

lại muốn rút ngắn thời gian lao động. Do đó, độ dài ngày lao động có thể co

giãn và việc xác định độ dài ấy tuỳ thuộc vào so sánh lực lượng trong cuộc

đấu tranh giữa hai giai cấp nói trên. Điểm dừng của độ dài ngày lao động là

điểm mà ở đó lợi ích kinh tế của nhà tư bản và lợi ích kinh tế của người lao

động được thực hiện theo một thoả hiệp tạm thời.

- Khi độ dài ngày lao động đã được xác định, nhà tư bản lại tìm cách

tăng cường độ lao động của công nhân. Tăng cường độ lao động có nghĩa là

chi phí nhiều sức lao động hơn trong một khoảng thời gian nhất định, nên về

thực chất cũng tương tự như kéo dài ngày lao động. Vì vậy, kéo dài thời gian

lao động và tăng cường độ lao động là hai biện pháp để sản xuất giá trị thặng

dư tuyệt đối.

Câu hỏi 74: Phân tích quá trình sản xuất giá trị thặng dư tương đối?

Trả lời:

- Việc kéo dài ngày lao động bị giới hạn về thể chất và tinh thần của

người lao động và vấp phải cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của giai cấp

công nhân. Mặt khác, khi sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển đến giai đoạn

đại công nghiệp cơ khí, kỹ thuật tiến bộ làm cho năng suất lao động tăng lên

nhanh chóng, thì các nhà tư bản chuyển sang phương thức bóc lột dựa trên

cơ sở tăng năng suất lao động, bóc lột giá trị thặng dư tương đối.

- Khái niệm: Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư được tạo ra

do rút ngắn thời gian lao động tất yếu bằng cách nâng cao năng suất lao động

xã hội, nhờ đó tăng thời gian lao động thặng dư lên ngay trong điều kiện độ

dài ngày lao động vẫn như cũ.

- Ví dụ: Giả sử ngày lao động là 8 giờ và nó được chia thành 4 giờ là

thời gian lao động tất yếu và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư. Điều đó có

thể biểu diễn như sau:

Do đó tỷ suất giá trị thặng dư là:

m’ = (4/4) * 100% = 100%

Giả định rằng ngày lao động không thay đổi, nhưng bây giờ công nhân

chỉ cần 3 giờ lao động đã tạo ra được một lượng giá trị mới bằng với giá trị

sức lao động của mình. Do đó, tỷ lệ phân chia ngày lao động sẽ thay đổi: 3

giờ là thời gian lao động tất yếu và 5 giờ là thời gian lao động thặng dư. Điều

đó được biểu diễn như sau:

Do đó bây giờ tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là:

m' = (5/3) * 100% = 166%

Như vậy, tỷ suất giá trị thặng dư đã tăng từ 100% lên 166%.

- Làm thế nào để có thể rút ngắn được thời gian lao động tất yếu

Thời gian lao động tất yếu có quan hệ với giá trị sức lao động. Muốn rút

ngắn thời gian lao động tất yếu phải giảm giá trị sức lao động. Muốn hạ thấp

giá trị sức lao động phải giảm giá trị những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi

tiêu dùng của công nhân. Điều đó chỉ có thể thực hiện được bằng cách tăng

năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt thuộc

phạm vi tiêu dùng của công nhân hay tăng năng suất lao động trong các

ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt đó.

Chỉ có nâng cao năng suất lao động xã hội trong các ngành sản xuất tư

liệu sinh hoạt cho công nhân, cũng như trong các ngành sản xuất tư liệu sản

xuất trực tiếp liên quan đến các ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt thì mới đạt

được kết quả đó. Ví dụ nếu như trước kia, trong ngày lao động 8 giờ, người

công nhân phải tốn 4 giờ để tạo ra một giá trị bằng giá trị những tư liệu sinh

hoạt cho mình, thì nay do tư liệu sinh hoạt giảm xuống, giả dụ một nửa, người

công nhân chỉ cần 2 giờ cũng đủ để sản xuất ra giá trị bằng giá trị những tư

liệu sinh hoạt cần thiết đó.

Câu hỏi 75: Giá trị thặng dư siêu ngạch?

Trả lời:

- Quá trình cạnh tranh giữa các nhà tư bản buộc họ phải áp dụng

phương pháp sản xuất tốt nhất để tăng năng suất lao động trong xí nghiệp

của mình nhằm giảm giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị xã hội của

hàng hoá, nhờ đó thu được giá trị thặng dư siêu ngạch.

- Khái niệm: Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu

được do tăng năng suất lao động cá biệt, làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá

thấp hơn giá trị thị trường của nó.

- Xét từng trường hợp, thì giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm

thời, nhanh chóng xuất hiện rồi cũng lại nhanh chóng mất đi. Nhưng xét toàn

bộ xã hội tư bản thì giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tồn tại thường

xuyên. Theo đuổi giá trị thặng dư siêu ngạch là khát vọng của nhà tư bản và

là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá

sản xuất, tăng năng suất lao động, làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên

nhanh chóng.

- Giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối cùng có một

cơ sở chung đó là dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động để rút ngắn thời

gian lao động cần thiết.

- Điểm khác nhau giữa giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư

tương đối:

+ Giá trị thặng dư siêu ngạch dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động

cá biệt, còn giá trị thặng dư tương đối dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động

xã hội. Giá trị thặng dư siêu ngạch sẽ được thay thế bằng giá trị thặng dư

tương đối khi trình độ kỹ thuật mới được áp dụng ở các tư bản cá biệt trở

thành phổ biến trong xã hội. Vì thế, C.Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là

hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối.

+ Giá trị thặng dư tương đối do toàn bộ giai cấp các nhà tư bản thu

được. Nó biểu hiện sự tiến bộ kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản được áp dụng

rộng rãi. Xét về mặt đó thì nó thể hiện quan hệ giữa giai cấp công nhân và

toàn bộ giai cấp các nhà tư bản. Giá trị thặng dư siêu ngạch là mục đích trực

tiếp mà mỗi nhà tư bản cố gắng đạt tới trong cuộc cạnh tranh với các nhà tư

bản khác. Xét về mặt này, giá trị thặng dư siêu ngạch không chỉ biểu hiện mối

quan hệ giữa công nhân làm thuê và nhà tư bản, mà còn biểu hiện mối quan

hệ giữa các nhà tư bản với nhau.

Từ đó, ta thấy rằng giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực trực tiếp,

mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới

vào sản xuất, hoàn thiện tổ chức lao động và tổ chức sản xuất để tăng năng

suất lao động giảm giá trị của hàng hoá.

Câu hỏi 76: Tại sao nói quy luật sản xuất giá trị thặng dư là quy luật

kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản? Đặc điểm của sản xuất giá trị thặng dư

trong giai đoạn hiện nay?

Trả lời:

- Sản xuất giá trị thặng dư - Quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư

bản

Mỗi một phương thức sản xuất có một quy luật kinh tế tuyệt đối, quy

luật phản ánh mối quan hệ kinh tế bản chất nhất của phương thức sản xuất

đó. Đối với sản xuất hàng hóa giản đơn, thì quy luật kinh tế cơ bản là quy luật

giá trị, còn quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản là quy luật giá trị

thặng dư.

Thể hiện:

+ Giá trị thặng dư là phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do

công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không, phản ánh mối quan

hệ kinh tế bản chất nhất của chủ nghĩa tư bản - quan hệ tư bản bóc lột lao

động làm thuê. Giá trị thặng dư do lao động không công của công nhân tạo ra

là nguồn gốc làm giàu của các nhà tư bản.

+ Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng

mà là sản xuất ra giá trị thặng dư, là nhân giá trị lên. Theo đuổi giá trị thặng

dư tối đa là mục đích và động cơ thúc đẩy sự hoạt động của mỗi nhà tư bản,

cũng như của toàn bộ xã hội tư bản. Nhà tư bản cố gắng sản xuất ra hàng

hoá với chất lượng tốt đi chăng nữa, thì đó cũng chỉ vì nhà tư bản muốn thu

được nhiều giá trị thặng dư.

+ Sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa không chỉ phản ánh mục đích của

nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, mà còn vạch rõ phương tiện, thủ đoạn mà các

nhà tư bản sử dụng để đạt được mục đích như tăng cường bóc lột công nhân

làm thuê bằng cách tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động, tăng

năng suất lao động và mở rộng sản xuất.

Như vậy, quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ

nghĩa tư bản. Thực chất của quy luật này là tạo ra ngày càng nhiều giá trị

thặng dư cho nhà tư bản bằng cách tăng cường bóc lột lao động làm thuê.

Quy luật giá trị thặng dư ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của chủ

nghĩa tư bản. Quy luật này quyết định toàn bộ sự vận động của chủ nghĩa tư

bản, một mặt nó là động lục thúc đẩy sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển

nhanh chóng, mặt khác lại làm tăng mâu thuẫn cơ bản của nền kinh tế tư bản

chủ nghĩa.

- Đặc điểm của sản xuất giá trị thặng dư trong giai đoạn hiện nay

+ Chế độ người bóc lột người chỉ tồn tại trong những điều kiện kinh tế

nhất định. Chủ nghĩa tư bản ngày nay tuy có những điều chỉnh nhất định về

hình thức sở hữu, quản lý và phân phối để thích nghi ở mức độ nào đó với

điều kiện mới, nhưng sự thống trị của chủ nghĩa tư bản tư nhân vẫn tồn tại

nguyên vẹn, bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản vẫn không thay đổi. Nhà

nước tư sản hiện nay tuy có tăng cường can thiệp vào đời sống kinh tế và xã

hội, nhưng về cơ bản nó vẫn là bộ máy thống trị của giai cấp tư sản.

+ Hiện nay do trình độ đã đạt được của văn minh nhân loại và do cuộc

đấu tranh của giai cấp công nhân, mà một bộ phận không nhỏ công nhân ở

các nước tư bản phát triển có mức sống tương đối sung túc, nhưng về cơ

bản, họ vẫn phải bán sức lao động và vẫn bị nhà tư bản bóc lột.

Tuy nhiên, ngày nay sự tiến bộ của khoa học - công nghệ đã đưa đến

sự biến đổi sâu sắc các yếu tố sản xuất và bản thân quá trình sản xuất làm

cho việc sản xuất ra giá trị thặng dư có những đặc điểm mới:

Một là, do kỹ thuật và công nghệ hiện đại được áp dụng rộng rãi nên

khối lượng giá trị thặng dư được tạo ra chủ yếu nhờ tăng năng suất lao động,

ở đây, việc tăng năng suất lao động có đặc điểm là chi phí lao động sống

trong một đơn vị sản phẩm giảm nhanh, vì máy móc hiện đại thay thế được

nhiều lao động sống hơn. Đồng thời, do việc sử dụng máy móc hiện đại nên

chi phí lao động quá khứ trong một đơn vị sản phẩm cũng giảm xuống một

cách tuyệt đối.

Hai là, cơ cấu lao động xã hội ở các nước tư bản phát triển hiện nay có

sự biến đổi lớn. Do áp dụng rộng rãi kỹ thuật và công nghệ hiện đại nên lao

động phức tạp, lao động trí tuệ tăng lên và thay thế lao động giản đơn, lao

động cơ bắp. Chính nhờ sử dụng lực lượng lao động có trình độ kỹ thuật cao

mà ngày nay tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư đã tăng lên rất nhiều.

Ba là, sự bóc lột của các nước tư bản phát triển trên phạm vi quốc tế

ngày càng được mở rộng dưới nhiều hình thức: xuất khẩu tư bản và hàng

hoá, trao đổi không ngang giá... lợi nhuận siêu ngạch mà các nước tư bản

phát triển bòn rút từ các nước kém phát triển trong mấy chục năm qua đã

tăng lên gấp nhiều lần. Sự cách biệt giữa những nước giàu và những nước

nghèo ngày càng tăng và đang trở thành mâu thuẫn nổi bật trong thời đại

ngày nay.

Câu hỏi 77: Phân tích bản chất kinh tế của tiền công trong chủ nghĩa tư

bản?

Trả lời:

Trong xã hội tư bản, người công nhân làm việc cho nhà tư bản một thời

gian nhất định, tạo ra số sản phẩm nhất định và được nhà tư bản trả cho một

số tiền nhất định gọi là tiền công. Hiện tượng đó làm cho người ta lầm tưởng

rằng tiền công là giá cả của lao động. Sự thật thì tiền công không phải là giá

trị hay giá cả của lao động, vì lao động không phải là hàng hoá.

Sở dĩ như vậy là vì:

- Nếu lao động là hàng hoá, thì nó phải có trước, phải được vật hoá

trong một hình thức cụ thể nào đó. Tiền đề để cho lao động vật hoá được là

phải có tư liệu sản xuất. Nhưng nếu người lao động có tư liệu sản xuất, thì họ

sẽ tự tiến hành sản xuất ra sản phẩm và mang bán hàng hoá do mình sản

xuất ra, chứ không bán "lao động".

- Việc thừa nhận lao động là hàng hoá dẫn tới một trong hai mâu thuẫn

về lý luận sau đây:

Thứ nhất, nếu lao động là hàng hoá và nó được trao đổi ngang giá, thì

nhà tư bản không thu được lợi nhuận (giá trị thặng dư); điều này phủ nhận sự

tồn tại thực tế của quy luật giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản.

Thứ hai, còn nếu "hàng hoá lao động" được trao đổi không ngang giá

để có giá trị thặng dư cho nhà tư bản, thì phải phủ nhận quy luật giá trị.

- Nếu lao động là hàng hoá, thì hàng hoá đó cũng phải có giá trị. Nhưng

lao động là thực thể và là thước đo nội tại của giá trị, nhưng bản thân lao

động thì không có giá trị. Người ta không thể dùng lao động để đo lao động.

Vì thế, lao động không phải là hàng hoá, cái mà công nhân bán cho nhà tư

bản chính là sức lao động. Do đó, tiền công mà nhà tư bản trả cho công nhân

là giá cả của sức lao động.

Vậy, bản chất của tiền công trong chủ nghĩa tư bản là hình thức biểu

hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, hay giá cả của sức lao động, nhưng

lại biểu hiện ra bề ngoài thành giá cả của lao động.

Hình thức biểu hiện đó đã gây ra sự nhầm lẫn. Điều đó là do những

nguyên nhân sau đây:

Thứ nhất, đặc điểm của hàng hoá sức lao động là không bao giờ tách

khỏi người bán, nó chỉ nhận được giá cả khi đã cung cấp giá trị sử dụng cho

người mua, tức là sau khi lao động cho nhà tư bản, do đó nhìn bề ngoài

chúng ta chỉ thấy nhà tư bản trả giá trị cho lao động.

Thứ hai, đối với công nhân, toàn bộ lao động trong cả ngày là phương

tiện để có tiền sinh sống, do đó bản thân công nhân cũng tưởng rằng mình

bán lao động. Còn đối với nhà tư bản bỏ tiền ra là để có lao động, nên cũng

nghĩ rằng cái mà họ mua là lao động.

Thứ ba, lượng của tiền công phụ thuộc vào thời gian lao động hoặc số

lượng sản phẩm sản xuất ra, điều đó làm cho người ta lầm tưởng rằng tiền

công là giá cả lao động.

Như vậy, tiền công đã che đậy mọi dấu vết của sự phân chia ngày lao

động thành thời gian lao động tất yếu và thời gian lao động thặng dư, thành

lao động được trả công và lao động không được trả công, do đó tiền công che

đậy mất bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản.

Câu hỏi 78: Hai hình thức cơ bản của tiền công?

Trả lời:

Có hai hình thức tiền công cơ bản: tiền công tính theo thời gian và tiền

công tính theo sản phẩm.

- Tiền công tính theo thời gian

+ Khái niệm: Tiền công tính theo thời gian là hình thức tiền công mà số

lượng của nó ít hay nhiều tuỳ theo thời gian lao động của công nhân (giờ,

ngày, tháng) dài hay ngắn.

+ Cần phân biệt tiền công giờ, tiền công ngày, tiền công tuần, tiền công

tháng. Tiền công ngày và tiền công tuần chưa nói rõ được mức tiền công đó

cao hay là thấp, vì nó còn tuỳ theo ngày lao động dài hay ngắn. Do đó, muốn

đánh giá chính xác mức tiền công không chỉ căn cứ vào tiền công ngày, mà

phải căn cứ vào độ dài của ngày lao động và cường độ lao động. Giá cả của

một giờ lao động là thước đo chính xác mức tiền công tính theo thời gian.

Ví dụ: một công nhân một ngày làm việc 8 giờ, lĩnh 40 xu, như vậy mỗi

giờ được trả 5 xu. Nhưng nếu nhà tư bản bắt công nhân làm 10 giờ và trả 45

xu, thì như vậy giá cả một giờ lao động đã giảm từ 5 xu xuống còn 4,5 xu.

- Tiền công tính theo sản phẩm

+ Khái niệm: Tiền công tính theo sản phâm là hình thức tiền công mà

số lượng của nó phụ thuộc vào số lượng sản phẩm hay số lượng những bộ

phận của sản phẩm mà công nhân đã sản xuất ra hoặc là số lượng công việc

đã hoàn thành.

+ Tiền công tính theo thời gian là cơ sở để định tiền công tính theo sản

phẩm. Mỗi sản phẩm được trả công theo một đơn giá nhất định. Đơn giá tiền

công được xác định bằng thương số giữa tiền công trung bình của công nhân

trong một ngày với số lượng sản phẩm trung bình mà một công nhân sản xuất

ra trong một ngày, do đó về thực chất, đơn giá tiền công là tiền công trả cho

thời gian cần thiết sản xuất ra một sản phẩm.

+ Tiền công tính theo sản phẩm đã làm cho quan hệ bóc lột tư bản chủ

nghĩa càng bị che giấu, công nhân làm được nhiều sản phẩm thì càng được

lĩnh nhiều tiền, tình hình đó khiến người ta lầm tưởng là lao động được trả

công đầy đủ.

+ Thực hiện tiền công tính theo sản phẩm, một mặt, giúp cho nhà tư

bản trong việc quản lý, giám sát quá trình lao động của công nhân dễ dàng

hơn; mặt khác, kích thích công nhân lao động tích cực, khẩn trương tạo ra

nhiều sản phẩm để nhận được tiền công cao hơn.

Câu hỏi 79: Phân tích tiền công danh nghĩa, tiền công thực tế?

Trả lời:

- Tiền công danh nghĩa là số tiền mà người công nhân nhận được do

bán sức lao động của mình cho nhà tư bản. Tiền công được sử dụng để tái

sản xuất sức lao động, nên tiền công danh nghĩa phải được chuyển hoá

thành tiền công thực tế.

- Tiền công thực tế là tiền công được biểu hiện bằng số lượng hàng

hoá tiêu dùng và dịch vụ mà công nhân mua được bằng tiền công danh nghĩa

của mình.

- Tiền công danh nghĩa không vạch rõ được đầy đủ mức sống của công

nhân. Tiền công danh nghĩa là giá cả sức lao động, nên nó có thể tăng lên

hay giảm xuống tuỳ theo sự biến động của quan hệ cung - cầu về hàng hoá

sức lao động trên thị trường. Trong một thời gian nào đó, nếu tiền công danh

nghĩa không thay đổi, nhưng giá cả tư liệu tiêu dùng và dịch vụ tăng lên hoặc

giảm xuống, thì tiền công thực tế sẽ giảm xuống hay tăng lên.

- Xu hướng hạ thấp của tiền công thực tế dưới chế độ tư bản chủ

nghĩa: C.Mác đã chỉ rõ tính quy luật của sự vận động tiền công trong chủ

nghĩa tư bản như sau: trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, tiền

công danh nghĩa có xu hướng tăng lên, nhưng mức tăng của nó nhiều khi

không theo kịp với mức tăng giá cả tư liệu tiêu dùng và dịch vụ, khi đó tiền

công thực tế của công nhân có xu hướng hạ thấp.

- Sự hạ thấp của tiền công thực tế chỉ diễn ra như một xu hướng, vì có

những nhân tố chống lại sự hạ thấp tiền công. Một mặt, đó là cuộc đấu tranh

của giai cấp công nhân đòi tăng tiền công. Mặt khác, trong điểu kiện của chủ

nghĩa tư bản ngày nay, do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học - công

nghệ nên nhu cầu về sức lao động có chất lượng cao ngày càng tăng đã buộc

giai cấp tư sản phải cải tiến tổ chức lao động cũng như kích thích người lao

động bằng lợi ích vật chất. Đó cũng là một nhân tố cản trở xu hướng hạ thấp

tiền công.

Câu hỏi 80: Phân tích thực chất và động cơ của tích lũy tư bản?

Trả lời:

- Tái sản xuất nói chung được hiểu là quá trình sản xuất được lặp đi lặp

lại và tiếp diễn một cách liên tục không ngừng. Căn cứ vào quy mô, có thể

chia tái sản xuất thành hai loại: tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng.

+ Tái sản xuất giản đơn là quá trình tái sản xuất được ặp lại với quy mô

như cũ. Loại hình tái sản xuất này thường gắn với nền sản xuất nhỏ và là đặc

trưng của nền sản xuất nhỏ.

+ Tái sản xuất mở rộng là quá trình sản xuất được lặp lại với quy mô

lớn hơn trước. Loại hình tái sản xuất này thường gắn với nền sản xuất lớn và

là đặc trưng của nền sản xuất lớn. Đây là nét điển hình của chủ nghĩa tư bản.

+ Tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa là sự lặp lại quá trình sản xuất

với quy mô lớn hơn trước, với một tư bản lớn hơn trước. Muốn vậy, phải biến

một bộ phận giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm. Việc sử dụng giá trị

thặng dư làm tư bản hay sự chuyển hoá giá trị thặng dư trở lại thành tư bản

gọi là tích luỹ tư bản.

- Thực chất của tích luỹ tư bản là sự chuyển hoá một phần giá trị thặng

dư thành tư bản, hay là quá trình tư bản hoá giá trị thặng dư.

Nói một cách cụ thể, tích luỹ tư bản là tái sản xuất ra tư bản với quy mô

ngày càng mở rộng. Có thể minh hoạ tích luỹ và tái sản xuất mở rộng tư bản

chủ nghĩa bằng ví dụ:

Năm thứ nhất quy mô sản xuất là 80c + 20v + 20m. Giả định 20m

không bị nhà tư bản tiêu dùng tất cả cho cá nhân, mà được phân thành 10m

dùng để tích luỹ và 10m dành cho tiêu dùng cá nhân của nhà tư bản. Phần

10m dùng để tích luỹ được phân thành 8c + 2v, khi đó quy mô sản xuất của

năm sau sẽ là 88c + 22v + 22m (nếu m’ vẫn như cũ).

Như vậy, vào năm thứ hai, quy mô tư bản bất biến và tư bản khả biến

đều tăng lên, giá trị thặng dư cũng tăng lên tương ứng.

- Động cơ thúc đẩy tích luỹ và tái sản xuất mở rộng là quy luật kinh tế

tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản - quy luật giá trị thặng dư. Để thực hiện mục

đích đó, các nhà tư bản không ngừng tích luỹ để mở rộng sản xuất, xem đó là

phương tiện căn bản để tăng cường bóc lột công nhân làm thuê. Mặt khác,

cạnh tranh buộc các nhà tư bản phải không ngừng làm cho tư bản của mình

tăng lên bằng cách tăng nhanh tư bản tích luỹ.

Câu hỏi 81: Phân tích bản chất bóc lột của quan hệ sản xuất tư bản

chủ nghĩa thể hiện qua tích lũy tư bản?

Trả lời:

Việc nghiên cứu tích luỹ tư bản chủ nghĩa rút ra những kết luận vạch rõ

bản chất bóc lột của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa:

- Một là, nguồn gốc duy nhất của tư bản tích lũy là giá trị thặng dư và tư

bản tích luỹ chiếm tỷ lệ ngày càng lớn trong toàn bộ tư bản. C.Mác nói rằng,

tư bản ứng trước chỉ là một giọt nước trong dòng sông của tích luỹ mà thôi.

Trong quá tình tái sản xuất, lãi (m) cứ đập vào vốn, vốn càng lớn thì lãi càng

lớn, do đó lao động của công nhân trong quá khứ lại trở thành phương tiện để

bóc lột chính người công nhân.

- Hai là, quá trình tích luỹ đã làm cho quyền sở hữu trong nền kinh tế

hàng hoá biến thành quyền chiếm đoạt tư bản chủ nghĩa. Trong sản xuất

hàng hoá giản đơn, sự trao đổi giữa những người sản xuất hàng hoá theo

nguyên tắc ngang giá về cơ bản không dẫn tới người này chiếm đoạt lao

động không công của người kia. Trái lại, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa dẫn

đến kết quả là nhà tư bản chẳng những chiếm đoạt một phần lao động của

công nhân, mà còn là người sở hữu hợp pháp lao động không công đó.

Nhưng điều đó không vi phạm quy luật giá trị.

Câu hỏi 82: Những nhân tố quyết định quy mô tích luỹ tư bản?

Trả lời:

- Quá trình tái sản xuất tư bản chủ nghĩa diễn ra liên tục, do đó quy mô

tích lũy tư bản cũng không ngừng tăng lên. Việc xem xét những nhân tố ảnh

hưởng đến quy mô tích lũy tư bản phải được chia làm hai trường hợp:

Một là, trường hợp khối lượng giá trị thặng dư không đổi thì quy mô của

tích luỹ tư bản phụ thuộc vào tỷ lệ phân chia khối lượng giá trị thặng dư đó

thành hai quỹ: quỹ tích luỹ và quỹ tiêu dùng của nhà tư bản. Đương nhiên tỷ

lệ quỹ này tăng lên thì tỷ lệ dành cho quỹ kia sẽ giảm đi.

Hai là, nếu tỷ lệ phân chia đó đã được xác định, thì quy mô của tích luỹ

tư bản phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư.

- Khối lượng giá trị thặng dư phụ thuộc vào những nhân tố sau đây:

+ Trình độ bóc lột sức lao động bằng những biện pháp, tăng cường độ

lao động, kéo dài ngày lao động, cắt xén tiền công của công nhân. Điều đó có

nghĩa là thời gian công nhân sáng tạo ra giá trị càng được kéo dài ra nhưng

chi phí càng được cắt giảm, do vậy khối lượng giá trị thặng dư càng lớn và

quy mô của tích lũy tư bản càng lớn.

+ Trình độ năng suất lao động xã hội: nếu năng suất lao động xã hội

tăng lên thì giá cả tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt giảm xuống. Sự giảm

này đem lại hai hệ quả:

Thứ nhất, với khối lượng giá trị thặng dư nhất định, phần dành cho tích

luỹ có thể tăng lên, nhưng tiêu dùng của các nhà tư bản không giảm, thậm chí

có thể cao hơn trước.

Thứ hai, một giá trị thặng dư nhất định dành cho tích luỹ có thể chuyển

hoá thành một khối lượng tư liệu sản xuất và sức lao động phụ thêm lớn hơn

trước.

Như vậy, năng suất lao động tăng lên sẽ có thêm những yếu tố vật chất

để biến giá trị thặng dư thành tư bản mới, nên làm tăng quy mô của tích luỹ.

+ Sự chênh lệch giữa tư bản được sử dụng và tư bản đã tiêu dùng:

Trong quá trình sản xuất, tư liệu lao động (máy móc, thiết bị) tham gia

toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng giá trị của chúng lại chỉ bị khấu hao

từng phần. Như vậy là mặc dù đã mất dần giá trị, nhưng trong suốt thời gian

hoạt động, máy móc vẫn có tác dụng như khi còn đủ giá trị. Sự hoạt động này

của máy móc được xem như là sự phục vụ không công. Máy móc, thiết bị

càng hiện đại, thì sự chênh lệch giữa tư bản được sử dụng và tư bản đã tiêu

dùng càng lớn, do đó sự phục vụ không công càng lớn, tư bản lợi dụng được

những thành tựu của lao động quá khứ càng nhiều, nhờ vậy quy mô của tích

lũy tư bản càng lớn.

+ Quy mô của tư bản ứng trước:

Với trình độ bóc lột không thay đổi thì khối lượng giá trị thặng dư do

khối lượng tư bản khả biến quyết định. Do đó quy mô của tư bản ứng trước

càng lớn, nhất là bộ phận tư bản khả biến thì khối lượng giá trị thặng dư bóc

lột được càng nhiều, tạo điều kiện tăng thêm quy mô của tích luỹ tư bản.

Từ sự nghiên cứu bốn nhân tố quyết định quy mô của tích luỹ tư bản có

thể rút ra nhận xét chung là để tăng quy mô tích luỹ tư bản, cần khai thác tốt

nhất lực lượng lao động xã hội, tăng năng suất lao động, sử dụng triệt để

công suất của máy móc, thiết bị và tăng quy mô vốn đầu tư ban đầu.

Câu hỏi 83: Tích tụ và tập trung tư bản? Vai trò của tập trung tư bản

trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản?

Trả lời:

- Tích tụ tư bản

+ Khái niệm: Tích tụ tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt

bằng cách tư bản hoá giá trị thặng dư trong một xí nghiệp nào đó, nó là kết

quả trực tiếp của tích luỹ tư bản.

+ Tích lũy tư bản xét về mặt làm tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt là

tích tụ tư bản.

+ Tích tụ tư bản, một mặt, là yêu cầu của tái sản xuất mở rộng, của sự

ứng dụng tiến bộ kỹ thuật; mặt khác, sự tăng lên của khối lượng giá trị thặng

dư trong quá trình phát triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa tạo khả năng hiện

thực cho tích tụ tư bản.

- Tập trung tư bản

+ Khái niệm. Tập trung tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá

biệt bằng cách hợp nhất những tư bản cá biệt có sẵn trong xã hội thành một

tư bản cá biệt khác lớn hơn.

+ Nguyên nhân: do cạnh tranh và tín dụng. Do cạnh tranh mà dẫn tới

sự liên kết tự nguyện hay sáp nhập các tư bản cá biệt. Tín dụng tư bản chủ

nghĩa là phương tiện để tập trung các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội vào tay

các nhà tư bản.

- So sánh giữa tích tụ và tập trung tư bản:

+ Điểm giống nhau: đều làm tăng quy mô của tư bản cá biệt.

+ Điểm khác nhau:

Một là, nguồn để tích tụ tư bản là giá trị thặng dư, do đó tích tụ tư bản

làm tăng quy mô của tư bản cá biệt, đồng thời làm tăng quy mô của tư bản xã

hội. Còn nguồn để tập trung tư bản là những tư bản cá biệt có sẵn trong xã

hội, do đó tập trung tư bản chỉ làm tăng quy mô của tư bản cá biệt, mà không

làm tăng quy mô của tư bản xã hội.

Hai là, nguồn để tích tụ tư bản là giá trị thặng dư, xét về mặt đó, nó

phản ánh trực tiếp mối quan hệ giữa tư bản và lao động: nhà tư bản tăng

cường bóc lột lao động làm thuê để tăng quy mô của tích tụ tư bản. Còn

nguồn để tập trung tư bản là nhũng tư bản cá biệt có sẵn trong xã hội do cạnh

tranh mà dẫn đến sự liên kết hay sáp nhập, xét về mặt đó, nó phản ánh trực

tiếp quan hệ cạnh tranh trong nội bộ giai cấp các nhà tư bản; đồng thời nó

cũng tác động đến mối quan hệ giữa tư bản và lao động.

- Mối quan hệ:

Tích tụ và tập trung tư bản có quan hệ mật thiết với nhau. Tích tụ tư

bản làm tăng thêm quy mô và sức mạnh của tư bản cá biệt, do đó cạnh tranh

sẽ gay gắt hơn, dẫn đến tập trung nhanh hơn. Ngược lại, tập trung tư bản tạo

điều kiện thuận lợi để tăng cường bóc lột giá trị thặng dư, nên đẩy nhanh tích

tụ tư bản. Ảnh hưởng qua lại nói trên của tích tụ và tập trung tư bản làm cho

tích luỹ tư bản ngày càng mạnh. Tập trung tư bản có vai trò rất lớn đối với sự

phát triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nhờ tập trung tư bản mà xây dựng

được những xí nghiệp lớn, sử dụng được kỹ thuật và công nghệ hiện đại.

- Vai trò của tập trung tư bản

+ Nhờ có tập trung tư bản mà có thể tổ chức được một cách rộng lớn

lao động hợp tác, biến quá trình sản xuất rời rạc, thủ công thành quá trình sản

xuất phối hợp theo quy mô lớn và được xếp đặt một cách khoa học, xây dựng

được những công trình công nghiệp lớn, sử dụng kỹ thuật và công nghệ hiện

đại.

+ Tập trung tư bản không những dẫn đến sự thay đổi về lượng của tư

bản, mà còn làm cho tư bản có một chất lượng mới, làm cho cấu tạo hữu cơ

của tư bản tăng lên, nhờ đó năng suất lao động tăng lên nhanh chóng. Chính

vì vậy, tập trung tư bản trở thành đòn bẩy mạnh mẽ của tích luỹ tư bản.

Câu hỏi 84: Phân tích cấu tạo hữu cơ của tư bản?

Trả lời:

Trong quá trình tích lũy tư bản, tư bản chẳng những tăng lên về quy

mô, mà còn không ngừng biến đổi trong cấu tạo của nó. C.Mác phân biệt cấu

tạo kỹ thuật, cấu tạo giá trị và cấu tạo hữu cơ của tư bản.

- Về mặt hình thái hiện vật, mỗi tư bản đều bao gồm tư liệu sản xuất và

sức lao động để sử dụng những tư liệu sản xuất đó. Tỷ lệ giữa số lượng tư

liệu sản xuất và số lượng sức lao động sử dụng những tư liệu sản xuất đó

trong quá trình sản xuất gọi là cấu tạo kỹ thuật của tư bản.

Ví dụ: để biểu thị cấu tạo kỹ thuật của tư bản, người ta thường dùng

các chỉ tiêu như số năng lượng hoặc số lượng máy móc do một công nhân sử

dụng trong sản xuất, ví dụ 100 kW điện/1 công nhân, 10 máy dệt/1 công

nhân.

- Về mặt giá trị, mỗi tư bản đều chia thành hai phần: tư bản bất biến (c)

và tư bản khả biến (v). Tỷ lệ giữa số lượng giá trị của tư bản bất biến và số

lượng giá trị của tư bản khả biến cần thiết để tiến hành sản xuất gọi là cấu tạo

giá trị của tư bản.

Ví dụ: một tư bản mà đại lượng của nó là 12.000 $, trong đó giá trị tư

liệu sản xuất là 10.000 $, còn giá trị sức lao động là 2.000 $, thì cấu tạo giá trị

của tư bản đó là 10.000 $ : 2.000 $ = 5:1.

- Cấu tạo kỹ thuật và cấu tạo giá trị của tư bản có quan hệ chặt chẽ với

nhau, những sự thay đổi trong cấu tạo kỹ thuật của tư bản sẽ dẫn đến những

sự thay đổi trong cấu tạo giá trị của tư bản. Để biểu hiện mối quan hệ đó,

C.Mác dùng phạm trù cấu tạo hữu cơ của tư bản.

Cấu tạo hữu cơ của tư bản là cấu tao giá trị của tư bản do cấu tạo kỹ

thuật của tư bản quyết định và phản ánh những sự biến đổi của cấu tạo kỹ

thuật của tư bản.

+ Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, do tác động thường

xuyên của tiến bộ khoa học - công nghệ, cấu tạo kỹ thuật của tư bản ngày

càng tăng, kéo theo sự tăng lên của cấu tạo giá trị của tư bản, nên cấu tạo

hữu cơ của tư bản cũng ngày càng tăng lên. Sự tăng lên của cấu tạo hữu cơ

của tư bản biểu hiện ở chỗ tư bản bất biến tăng tuyệt đối và tương đối, còn tư

bản khả biến có thể tăng tuyệt đối, nhưng lại giảm xuống một cách tương đối.

Sự giảm xuống một cách tương đối của tư bản khả biến cũng sẽ làm

cho cầu về sức lao động giảm một cách tương đối. Vì vậy, một số công nhân

lâm vào tình trạng bị thất nghiệp.

+ Sự tăng lên của cấu tạo hữu cơ của tư bản làm cho khối lượng tư liệu

sản xuất tăng lên, trong đó sự tăng lên của máy móc, thiết bị là điều kiện để

tăng năng suất lao động, còn nguyên liệu tăng theo năng suất lao động.

Như vậy, cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng lên trong quá trình tích lũy

chính là nguyên nhân trực tiếp gây ra nạn thất nghiệp trong chủ nghĩa tư bản.

Còn nguyên nhân sâu xa của nạn thất nghiệp lại chính là ở quan hệ sản xuất

tư bản chủ nghĩa.

Câu hỏi 85: Thế nào là tuần hoàn và các hình thái tuần hoàn của tư

bản công nghiệp?

Trả lời:

Sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất biện chứng giữa quá trình

sản xuất và quá trình lưu thông. Lưu thông của tư bản, theo nghĩa rộng, là sự

vận động của tư bản, nhờ đó mà tư bản lớn lên và thu được giá trị thặng dư,

cũng tức là sự tuần hoàn và chu chuyển của tư bản.

- Tuần hoàn của tư bản

Tư bản công nghiệp (với nghĩa các ngành sản xuất vật chất), trong quá

trình tuần hoàn đều vận động theo công thức:

T – H –> SLĐ và TLSX … SX… H’ – T’

Sự vận động này trải qua ba giai đoạn: hai giai đoạn lưu thông và một

giai đoạn sản xuất.

+ Giai đoạn thứ nhất - giai đoạn lưu thông:

Nhà tư bản xuất hiện trên thị trường các yếu tố sản xuất, để mua tư liệu

sản xuất và sức lao động. Quá trình lưu thông đó được biểu thị như sau:

T – H –> SLĐ và TLSX

Giai đoạn này tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản tiền tệ, chức năng

của giai đoạn này là mua các yếu tố cho quá trình sản xuất, tức là biến tư bản

tiền tệ thành tư bản sản xuất.

+ Giai đoạn thứ hai - giai đoạn sản xuất:

H –> SLĐ và TLSX ... sx… H’

Trong giai đoạn này tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản sản xuất

(TBSX), có chức năng thực hiện sự kết hợp hai yếu tố tư liệu sản xuất và sức

lao động để sản xuất ra hàng hoá mà trong giá trị của nó có giá trị thặng dư.

Trong các giai đoạn tuần hoàn của tư bản thì giai đoạn sản xuất có ý nghĩa

quyết định nhất, vì nó gắn trực tiếp với mục đích của nền sản xuất tư bản chủ

nghĩa.

Kết thúc của giai đoạn thứ hai là tư bản sản xuất chuyển hóa thành tư

bản hàng hóa.

+ Giai đoạn thứ ba - giai đoạn lưu thông.

H’ - T

Trong giai đoạn này, tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản hàng hoá,

chức năng là thực hiện giá trị của khối lượng hàng hoá đã sản xuất ra. Trong

giai đoạn này, nhà tư bản trở lại thị trường với tư cách là ngưòi bán hàng.

Hàng hóa của nhà tư bản được chuyển hóa thành tiền.

Kết thúc giai đoạn thứ ba, tư bản hàng hóa chuyển hóa thành tư bản

tiền tệ. Đến đây mục đích của nhà tư bản đã được thực hiện, tư bản quay trở

lại hình thái ban đầu trong tay chủ của nó, nhưng với số lượng lớn hơn trước.

Sự vận động của tư bản qua ba giai đoạn nói trên là sự vận động có

tính tuần hoàn: tư bản ứng ra dưới hình thái tiền và rồi đến khi quay trở về

cũng dưới hình thái tiền có kèm theo giá trị thặng dư. Quá trình đó tiếp tục

được lặp đi, lặp lại không ngừng gọi là sự vận động tuần hoàn của tư bản.

Vậy, tuần hoàn của tư bản là sự vận động liên tục của tư bản trải qua

ba giai đoạn, lần lượt mang ba hình thái khác nhau, thực hiện ba chức năng

khác nhau để rồi lại quay trơ về hình thái ban đầu có kèm theo giá trị thặng

dư. 

Tuần hoàn của tư bản chỉ có thể tiến hành bình thường khi hai điều

kiện sau đây được thoả mãn: một là, các giai đoạn của chúng diễn ra liên tục;

hai là, các hình thái tư bản cùng tồn tại và được chuyển hoá một cách đểu

đặn. Vì vậy, sự vận động tuần hoàn của tư bản là sự vận động liên tục không

ngừng; đồng thời là sự vận động không đứt quãng.

- Các hình thái tuần hoàn của tư bản công nghiệp

Trong các loại tư bản, chỉ có tư bản công nghiệp (với nghĩa là các

ngành sản xuất vật chất) mới có hình thái tuần hoàn đầy đủ gồm 3 giai đoạn

và mới lần lượt mang vào và trút bỏ ba hình thái tư bản.

+ Tuần hoàn của tư bản tiền tệ:

T – H –> SLĐ và TLSX ... sx ... H’-T’

Ở đây mở đầu và kết thúc đều là T, sự vận động của tư bản biểu hiện

ra là sự vận động của tiền, còn H hay sản xuất chỉ là trung gian để T lại đẻ ra

T. Hình thái này phản ánh rõ rệt nhất mục đích, động cơ vận động của tư bản

là làm tăng giá trị - tức giá trị thặng dư.

+ Tuần hoàn của tư bản sản xuất:

... sx ... H*- T - H ... sx'

Ở đây mở đầu và kết thúc đều là sản xuất, H và T là yếu tố trung gian.

Tuần hoàn của tư bản sản xuất không chỉ ra được mục đích và động cơ vận

động của tư bản, nhưng lại phản ánh rõ nét nguồn gốc của tư bản, của tích

luỹ tư bản. Vì giá trị thặng dư được rút ra trong quá trình này. 

+ Tuần hoàn của tư bản hàng hoá:

H’ - T’ - H ... sx... H”

Ở đây mở đầu và kết thúc đều là H còn sản xuất và tiền chỉ là những

yếu tố trung gian, chỉ là điều kiện cho sự vận động của H. Hình thái này phản

ánh rõ vai trò của lưu thông hàng hoá và tính liên tục của lưu thông hàng hoá.

Tóm lại, tuần hoàn của tư bản công nghiệp là sự thống nhất của ba

hình thái tuần hoàn của tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất và tư bản hàng hoá.

Trong sự vận động liên tục của tư bản công nghiệp, mỗi hình thái của tư bản

đều có thể làm điểm mở đầu và làm điểm kết thúc của tuần hoàn, tạo nên ba

hình thái tuần hoàn khác nhau của tư bản công nghiệp: tuần hoàn của tư bản

tiền tệ, tuần hoàn của tư bản sản xuất, tuần hoàn của tư bản hàng hoá.

Câu hỏi 86: Thế nào là chu chuyển, thời gian chu chuyển và tốc độ chu

chuyển của tư bản?

Trả lời:

Nghiên cứu tuần hoàn của tư bản là nghiên cứu mặt chất của sự vận

động tư bản, còn nghiên cứu chu chuyển tư bản là nghiên cứu mặt lượng hay

nghiên cứu tốc độ vận động của tư bản.

- Chu chuyển tư bản là sự tuần hoàn của tư bản nếu xét nó là một quá

trình định kỳ đổi mới, diễn ra liên tục va lặp đi lặp lại không ngừng. Chu

chuyển tư bản phản ánh tốc độ vận động nhanh hay chậm của tư bản.

- Thời gian chu chuyển của tư bản là thời gian tính từ khi tư bản ứng ra

dưới một hình thái nhất định cho đến khi thu về cũng dưới hình thái ban đầu,

có kèm theo giá trị thặng dư.

Thời gian chu chuyển của tư bản cũng là thời gian tư bản thực hiện

được một vòng tuần hoàn. Tuần hoàn tư bản bao gồm quá trình sản xuất và

quá trình lưu thông, nên thời gian chu chuyển tư bản cũng bao gồm thời gian

sản xuất và thời gian lưu thông.

+ Thời gian sản xuất là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực sản xuất.

Thời gian sản xuất = thời gian lao động + thời gian gián đoạn lao động + thời

gian dự trữ sản suất.

Thời gian lao động là thời gian người lao động tác động vào đối tượng

lao động để tạo ra sản phẩm. Đây là thời kỳ hữu ích nhất vì nó tạo ra giá trị

hàng hoá.

Thời gian gián đoạn lao động là thời gian đối tượng lao động tồn tại

dưới dạng bán thành phẩm nằm trong lĩnh vực sản xuất, nhưng không chịu

tác động trực tiếp của lao động mà chịu sự tác động của tự nhiên như thời

gian để cây lúa tự lớn lên, rượu ủ lên men... Thời kỳ này có thể xen kẽ với

thời kỳ lao động hoặc tách ra thành một thời kỳ riêng biệt, có thể dài ngắn

khác nhau tuỳ thuộc vào ngành sản xuất, các sản phẩm chế tạo và phụ thuộc

vào công nghệ sản xuất.

Thời gian dự trữ sản xuất là thời gian các yếu tố sản xuất đã được mua

về, sẵn sàng tham gia quá trình sản xuất nhưng chưa thực sự được sử dụng

vào quá trình sản xuất, còn ở dạng dự trữ tạo điều kiện cho sản xuất diễn ra

liên tục. Quy mô dự trữ phụ thuộc nhiều vào các yêu tố như: đặc điểm của

ngành, tình hình thị trường, năng lực tổ chức quản lý sản xuất...

Lưu ý: cả thời gian gián đoạn lao động và thời gian dự trữ sản xuất đều

không tạo ra giá trị sản phẩm. Sự tồn tại của hai thời kỳ này là không tránh

khỏi nhưng nói chung thời gian của chúng càng dài hay sự chênh lệch giữa

thời gian sản xuất với thời gian lao động càng lớn thì hiệu quả hoạt động của

tư bản càng thấp.

+ Thời gian lưu thông là thời kỳ tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông.

Thời gian này bao gồm thời gian mua và thời gian bán.

- Tốc độ chu chuyển của tư bản là khái niệm dùng để chỉ sự vận động

nhanh hay chậm của tư bản ứng trước.

Đơn vị tính tốc độ chu chuyển tư bản bằng số vòng hoặc số lần chu

chuyển tư bản thực hiện được trong một khoảng thời gian nhất định, chẳng

hạn một năm.

Ta có công thức tính số vòng chu chuyển của tư bản như sau:

n = CH/ch

Trong đó: (n) là số vòng (hay lần) chu chuyển của tư bản; (CH) là thời

gian trong năm; (ch) là thời gian cho 1 vòng chu chuyển của tư bản.

Ví dụ: Một tư bản có thời gian 1 vòng chu chuyển là 6 tháng thì tốc độ

chu chuyển trong năm là: n = 12 tháng/6 tháng = 2 vòng

Như vậy, tốc độ chu chuyển của tư bản tỉ lệ nghịch với thời gian một

vòng chu chuyển của tư bản. Muốn tăng tốc độ chu chuyển của tư bản phải

giảm thời gian sản xuất và thời gian lưu thông.

Câu hỏi 87: Thế nào là tư bản cố định và tư bản lưu động? Ý nghĩa

của việc phân chia cặp phạm trù trên?

Trả lời:

Tư bản sản xuất gồm nhiều bộ phận và có thời gian chu chuyển khác

nhau về mặt giá trị, do đó ảnh hưởng đến thời gian chu chuyển của toàn bộ

tư bản. Căn cứ vào sự khác nhau trong phương thức (đặc điểm) chu chuyển

về mặt giá trị nhanh hay chậm của các bộ phận tư bản để phân chia tư bản

sản xuất thành tư bản cố định và tư bản lưu động.

- Tư bản cố định là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng máy

móc, thiết bị, nhà xưởng, v.v… tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất,

nhưng giá trị của nó không chuyển hết một lần vào sản phẩm mà chuyên dần

từng phần theo mức độ hao mòn của nó trong thời gian sản xuất.

Tư bản cố định được sử dụng lâu dài trong nhiều chu kỳ sản xuất và bị

hao mòn dần trong quá trình sản xuất. Có hai loại hao mòn là hao mòn hữu

hình và hao mòn vô hình:

+ Hao mòn hữu hình là hao mòn về vật chất, hao mòn về cơ học có thể

nhận thấy. Hao mòn hữu hình do quá trình sử dụng và sự tác động của tự

nhiên làm cho các bộ phận của tư bản cố định dần dần hao mòn đi tới chỗ

hỏng và phải được thay thế.

+ Hao mòn vô hình là sự hao mòn thuần tuý về mặt giá trị. Hao mòn vô

hình xảy ra ngay cả khi máy móc còn tốt nhưng bị mất giá vì xuất hiện các

máy móc hiện đại hơn, rẻ hơn hoặc có giá trị tương đương, nhưng công suất

cao hơn. Để tránh hao mòn vô hình, các nhà tư bản tìm cách kéo dài ngày lao

động, tăng cường độ lao động, tăng ca kíp làm việc, v.v. nhằm tận dụng máy

móc trong thời gian càng ngắn càng tốt.

- Tư bản lưu động là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng nguyên

liệu, nhiên liệu, vật liệu phụ, sức lao động, v.v.. Giá trị của nó được hoàn lại

toàn bộ cho các nhà tư bản sau mỗi một quá trình sản xuất, khi hàng hóa

được bán xong.

- Căn cứ để phân chia tư bản sản xuất thành tư bản cố định và tư bản

lưu động là phương thức chuyển dịch giá trị khác nhau của từng bộ phận tư

bản trong quá trình sản xuất.

- Ý nghĩa:

+ Tăng tốc độ chu chuyển của tư bản cố định là một biện pháp quan

trọng để tăng quỹ khấu hao tài sản cố định, làm cho lượng tư bản sử dụng

tăng lên tránh được thiệt hại hao mòn hữu hình do tự nhiên phá huỷ và hao

mòn vô hình gây ra. Nhờ đó, mà có điều kiện đổi mới thiết bị nhanh, nâng cao

hiệu quả sử dụng tư bản.

+ Tư bản lưu động chu chuyển nhanh hơn tư bản cố định. Việc tăng tốc

độ chu chuyển của tư bản lưu động có ý nghĩa quan trọng, Một mặt, tốc độ

chu chuyển của tư bản lưu động tăng lên sẽ làm tăng lượng tư bản lưu động

được sử dụng trong năm, do đó tiết kiệm được tư bản ứng trước: mặt khác,

do tăng tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động khả biến làm cho tỷ suất giá

trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư hàng năm tăng lên.

Câu hỏi 88: Tác dụng và biện pháp nâng cao tốc độ chu chuyển của tư

bản?

Trả lời:

- Tác dụng của việc nâng cao tốc độ chu chuyển của tư bản:

+ Nâng cao tốc độ chu chuyển của tư bản cố định sẽ tiết kiệm được chi

phí bảo quản, sửa chữa tài sản cố định, giảm được hao mòn hữu hình và hao

mòn vô hình, cho phép đổi mới nhanh máy móc, thiết bị; có thể sử dụng quỹ

khấu hao làm quỹ dự trữ sản xuất để mở rộng sản xuất mà không cần có tư

bản phụ thêm.

+ Nâng cao tốc độ chu chuyển tư bản lưu động sẽ cho phép tiết kiệm tư

bản ứng trước khi quy mô sản xuất như cũ hay có thể mở rộng sản xuất mà

không cần có tư bản phụ thêm.

+ Đối với tư bản khả biến, việc nâng cao tốc độ chu chuyển tư bản có

ảnh hưởng trực tiếp đến việc làm tăng thêm tỷ suất giá trị thặng dư và khối

lượng giá trị thặng dư hằng năm.

Tỷ suất giá trị thặng dư hằng năm là tỷ lệ tính theo phần trăm giữa khối

lượng giá trị thặng dư hằng năm với tổng tư bản khả biến ứng trước. Công

thức:

M = (M/V) * 100%

Trong dó: M là tỷ suất giá trị thặng dư hằng năm,

M là khối lượng giá trị thặng dư hằng năm, V là tổng tư bản khả biến

ứng trước.

- Biện pháp nâng cao tốc độ chu chuyển tư bản:

Muốn nâng cao tốc độ chu chuyển tư bản thì phải rút ngắn thời gian

sản xuất và thời gian lưu thông.

+ Thời gian sản xuất dài hay ngắn ngoài sự phụ thuộc vào đặc điểm

của ngành sản xuất khác nhau, còn phụ thuộc vào trình độ tiến bộ khoa học -

kỹ thuật, công nghệ và sự ứng dụng vào quá trình sản xuất, phụ thuộc vào

trình độ tổ chức phân công lao động và trình độ dịch vụ các yếu tố gắn với

đầu vào sản xuất. Việc áp dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật sẽ cho phép tổ

chức sản xuất và dịch vụ sản xuất một cách khoa học trên cơ sở đó rút ngắn

thời gian gián đoạn lao động, thời gian dự trữ sản xuất trên cơ sở đó nâng

cao hiệu quả hoạt động của tư bản.

+ Thời gian lưu thông phụ thuộc vào các yếu tố như tình hình thị trường

(cung - cầu và giá cả...); khoảng cách từ sản xuất tới thị trường, trình độ phát

triển giao thông vận tải... Chỉ khi nào giải quyết được các vấn đề trên thì sẽ

góp phần rút ngắn được thời gian lưu thông trên cơ sở đó nâng cao hiệu quả

sử dụng tư bản.

Câu hỏi 89: Tổng sản phẩm xã hội là gì?

Trả lời:

- Khái niệm: Tổng sản phảm xã hội là toàn bộ sản phẩm mà xã hội sản

xuất ra trong một thời kỳ nhất định, thường là một năm.

- Tổng sản phẩm xã hội được xét cả về hai mặt: giá trị và hiện vật.

+ về mặt giá trị, tổng sản phẩm xã hội được cấu thành bởi ba bộ phận:

Bộ phận thứ nhất là giá trị bù đắp cho tư bản bất biến (c), hay giá trị

những tư liệu sản xuất đã tiêu hao trong sản xuất, bộ phận này được dùng để

bù đắp các tư liệu sản xuất đã hao phí trong chu kỳ sản xuất.

Bộ phận thứ hai là giá trị bù đắp cho tư bản khả biến (v), hay là giá trị

của toàn bộ sức lao động xã hội đã tiêu hao. Khoản giá trị này ngang bằng

với tổng số tiền công trả cho sức lao động tham gia vào quá trình sản xuất.

Bộ phận thứ ba là giá trị của sản phẩm thặng dư (m). Khoản giá trị này

do lao động thặng dư của xã hội tạo nên.

Giá trị của tư liệu sản xuất đã tiêu hao được gọi là “giá trị cũ chuyển

dịch". Giá trị sức lao động và giá trị sản phẩm thặng dư được gọi là bộ phận

“giá trị mới”.

Như vậy, giá trị của tổng sản phẩm xã hội cũng như giá trị của một

hàng hoá được phân giải thành: c + V + m.

+ Về mặt hiện vật, tổng sản phẩm xã hội gồm có tư liệu sản xuất và tư

liệu tiêu dùng do hình thức tự nhiên của nó quyết định.

Ví dụ: sắt, thép chỉ có thể dùng làm nguyên liệu cho sản xuất, bánh mì

chỉ dùng để ăn.

Như vậy, mỗi vật phẩm đều được dùng hoặc để tiêu dùng cho sản xuất

(các tư liệu sản xuất) hoặc cho các cá nhân (các tư liệu tiêu dùng). Có những

vật phẩm vừa có thể tiêu dùng cho sản xuất và có thể tiêu dùng cho cá nhân,

nhưng nhất định mỗi vật chỉ có thể dùng vào một trong hai mục đích đó.

Chú ý: cần phân biệt tổng sản phẩm xã hội với tài sản quốc dân. Nếu

tổng sản phẩm xã hội chỉ được tính trong một năm thì tài sản quốc dân được

tính bằng sự tích luỹ nhiều năm cộng lại và được tính cả của cải vật chất lẫn

tinh thần.

Câu hỏi 90: Phân tích hai khu vực của nền sản xuất xã hội?

Trả lời:

Xuất phát từ tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá, C.Mác coi

hai mặt giá trị và hiện vật của tổng sản phẩm xã hội là hai tiền để lý luận quan

trọng để nghiên cứu tái sản xuất tư bản xã hội. Là hiện vật, tổng sản phẩm xã

hội được C.Mác phân chia thành hai loại: tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng,

do đó nền sản xuất xã hội được chia thành hai khu vực:

Khu vực I: Sản xuất tư liệu sản xuất.

Khu vực II: Sản xuất tư liệu tiêu dùng.

Mỗi khu vực đó lại bao gồm rất nhiều ngành và số lượng những ngành

này ngày càng tăng lên cùng với sự phát triển của phân công lao động xã hội.

Trên thực tế, ranh giới giữa khu vực I và khu vực II không phải lúc nào

cũng rõ ràng. Có thể một số ngành vừa thuộc khu vực I, vừa thuộc khu vực II,

than vừa sản xuất ra để luyện thép vừa sản xuất để làm chất đốt cho tiêu

dùng hàng ngày của nhân dân; hay là ngành nông nghiệp, xét về mặt sản

xuất ra lúa, gạo, thịt, sữa, v.v. trực tiếp phục vụ cho tiêu dùng của con người

thì thuộc khu vực II, nhưng nếu xét về mặt sản xuất ra nguyên liệu, phục vụ

cho công nghiệp chế biến, thì nó lại thuộc khu vực I.

Mỗi khu vực sản xuất xã hội trên đây còn có thể được chia thành các

ngành nhỏ.

Khu vực I có thể chia thành 2 nhóm:

+ Các ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất để sản xuất ra tư liệu sản

xuất.

+ Các ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất để sản xuất ra tư liệu tiêu

dùng.

Khu vực II có thể chia thành 2 nhóm:

+ Các ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng cần thiết.

+ Các ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng xa xỉ.

Hiện nay hoạt động dịch vụ đang có những đóng góp nhất định cho sự

phát triển kinh tế. Mặc dù hoạt động dịch vụ vô cùng phong phú, đa dạng

nhưng chúng cũng hoặc là dịch vụ cho sản xuất hoặc dịch vụ cho tiêu dùng

cá nhân. Nếu là dịch vụ cho sản xuất thì nó thuộc khu vực I, nếu là iịch vụ cho

tiêu dùng cá nhân thì nó thuộc khu vực II.

Như vậy, trong điều kiện hiện đại, quy mô và hình thức biểu hiện của

mỗi khu vực trong sơ đồ của C.Mác đã được mở rộng, trở nên phong phú, đa

dạng và việc phân chia sản xuất xã hội thành hai khu vực vẫn đúng, vẫn là cơ

sở để phân tích tái sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Câu hỏi 91: Tư bản xã hội là gì? Những giả định của C.Mác khi nghiên

cứu tái sản xuất tư bản xã hội?

Trả lời:

- Tư bản xã hội là tổng hợp các tư bản cá biệt của xã hội vận động đan

xen nhau, liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau.

- Những giả định của C.Mác khi nghiên cứu tái sản xuất tư bản xã hội:

Khi nghiên cứu tái sản xuất tư bản xã hội, C.Mác đã nêu ra năm giả

định sau đây:

+ Toàn bộ nền kinh tế trong nước là nền kinh tế tư bản chủ nghĩa thuần

tuý, nghĩa là mối quan hệ kinh tế trong xã hội chỉ gồm có mối quan hệ giữa

nhà tư bản với công nhân.

+ Hàng hoá luôn được mua và bán theo đúng giá trị, giá cả phù hợp với

giá trị.

+ Cấu tạo hữu cơ tư bản không đổi.

+ Toàn bộ tư bản cố định đều chuyển hết giá trị của nó vào sản phẩm

trong một năm.

+ Không xét đến ngoại thương.

Những giả định đó chỉ nhằm mục đích đơn giản cho việc tính toán, chứ

không hể xuyên tạc bản chất của vấn đề nghiên cứu; vì vậy, đó là những giả

định khoa học.

Câu hỏi 92: Phân tích các điều kiện thực hiện sản phẩm xã hội trong

tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng tư bản xã hội?

Trả lời:

- Điều kiện thực hiện sản phẩm xã hội trong tái sản xuất giản đơn:

Trong tái sản xuất giản đơn, toàn bộ giá trị thặng dư được sử dụng hết

cho tiêu dùng cá nhân của nhà tư bản. Vì vậy, để nghiên cứu điều kiện thực

hiện tổng sản phẩm xã hội, quan hệ giữa tổng cung và tổng cầu về tư liệu sản

xuất và tư liệu tiêu dùng trong tái sản xuất giản đơn, C.Mác đưa ra mô hình

sau:

Khu vực I: 4.000c + 1.000v + 1.000m = 6.000 (tư liệu sản xuất);

Khu vực II: 2.000c + 500v + 500m = 3.000 (tư liệu tiêu dùng);

Tổng sản phẩm xã hội là 9.000.

Để cho sản xuất hằng năm có thể lặp đi lặp lại với quy mô như cũ thì

toàn bộ sản phẩm của hai khu vực phải được tiến hành như sau:

+ Khu vực I:

* Bộ phận 4.000c là giá trị tư liệu sản xuất đã hao phí. Nó được bù đắp

bằng trao đổi trong nội bộ khu vực I, lấy trong 6.000 sản phẩm của khu vực

này là tư liệu sản xuất.

* Bộ phận II (v + m) = (1.000v +1.000m) là tiền lương của công nhân và

phần giá trị thặng dư của nhà tư bản.

Về mặt hiện vật, hai bộ phận này tồn tại dưới hình thái tư liệu sản xuất

không thể trực tiếp tiêu dùng cá nhân nên được đem trao đổi với khu vực II

để lấy tư liệu tiêu dùng.

+ Khu vực II:

* Bộ phận (500v + 500m) là tiền lương của công nhân và phần giá trị

thặng dư của nhà tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu tiêu dùng nên được trao

đổi trong nội bộ khu vực II, lấy từ 3.000 sản phẩm của khu vực này là tư liệu

tiêu dùng.

* 2.000c là phần để khu vực II bù đắp tư liệu sản xuất đã hao phí. Về

mặt hiện vật, bộ phận này tồn tại dưới hình thái tư liệu tiêu dùng nên phải

đem trao đổi với khu vực I để lấy tư liệu sản xuất.

Quan hệ trao đổi giữa hai khu vực có thể biểu diễn như sau:

I (1.000v + 1.000m) = II (2.000c)

Với việc thực hiện trao đổi như trên, sản xuất của năm sau sẽ được

phục hồi và diễn ra theo quy mô như cũ.

+ Điều kiện để thực hiện tái sản xuất giản đơn của tư bản xã hội là:

Điều kiện thứ nhất: I (v + m) = II c

Cung của khu vực I về những tư liệu sản xuất mới tạo ra phải bằng cầu

về tư liệu sản xuất của khu vực II, đồng thời cung về tư liệu tiêu dùng của khu

vực II phải bằng cầu về tư liệu tiêu dùng của công nhân và nhà tư bản khu

vực I.

Điều kiện thứ hai: I(c + v + m) = Ic + IIc

Tổng cung về tư liệu sản xuất của xã hội phải bằng tổng cầu về tư liệu

sản xuất của cả hai khu vực. Điều này phản ánh quan hệ cung cầu về tư liệu

sản xuất trong xã hội.

Điều kiện thứ ba: II (c + V + m) = I (v + m) + II (v + m)

Tổng cung về tư liệu tiêu dùng của xã hội phải bằng tổng cầu về tư liệu

tiêu dùng cả hai khu vực của nền kinh tế. Điều kiện này phản ánh quan hệ

cung cầu về tư liệu tiêu dùng trong xã hội.

- Điều kiện thực hiện sản phẩm xã hội trong tái sản xuất mở rộng:

+ Muốn có tái sản xuất mở rộng phải biến một phần giá trị thặng dư

thành tư bản bất biến phụ thêm (c) và tư bản khả biến phụ thêm (v), nhưng

các bộ phận giá trị phụ thêm đó phải tìm được những nguồn cung về tư liệu

sản xuất và tư liệu tiêu dùng phụ thêm dưới hình thái vật chất tương ứng với

nhu cầu của nó. Muốn có thêm tư liệu sản xuất thì khu vực I phải cung ứng

lượng tư liệu sản xuất nhiều hơn trong tái sản xuất giản đơn, để không những

phụ thêm tư liệu sản xuất cho khu vực I mà cả cho khu vực II. Ngược lại, khu

vực II cũng phải sản xuất ra lượng tư liệu tiêu dùng nhiều hơn để đáp ứng

nhu cầu tiêu dùng tăng thêm của cả hai khu vực. Điều đó làm cho cơ cấu sản

xuất xã hội có những thay đổi.

+ Do việc cung cấp tăng thêm số lượng tư liệu sản xuất có vai trò quyết

định đối với tái sản xuất mở rộng, nên C.Mác đã đưa ra mô hình của tái sản

xuất mở rộng tư bản xã hội như sau:

Khu vực I: 4.000c + 1.000v + 1.000m = 6.000 (tư liệu sản xuất).

Khu vực II: 1.500c + 750v + 750m = 3.000 (tư liệu tiêu dùng).

+ Điều kiện cơ bản để thực hiện trong tái sản xuất mở rộng tư bản xã

hội là:

Điều kiện thứ nhất: I (v + m) > II c

Giá trị mới của khu vực I sản xuất ra phải lớn hơn giá trị tư liệu sản xuất

của khu vực II đã tiêu dùng.

Điều kiện thứ hai: I(c + v + m) > Ic + IIc

Toàn bộ giá trị sản phẩm của khu vực I phải lớn hơn tổng giá trị tư liệu

sản xuất đã tiêu dùng của cả hai khu: Có như vậy, cả hai khu vực sản xuất

của xã hội mới có tư liệu sản xuất phụ thêm để mở rộng sản xuất.

Điều kiện thứ ba: II (c + V + m) < I (v + m) < II (v + m) Toàn bộ giá trị

mới của cả hai khu vực phải lớn hơn giá trị sản phẩm của khu vực II. Có như

vậy mới có thể dành một phần thu nhập quốc dân để mở rộng sản xuất.

Câu hỏi 93: Bản chất và nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế trong

chủ nghĩa tư bản?

Trả lời:

- Bản chất của khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản:

Trong chủ nghĩa tư bản, khi nền sản xuất đã được xã hội hoá cao độ,

khủng hoảng kinh tế là điều không tránh khỏi. Từ đầu thế kỷ XIX, sự ra đời

của đại công nghiệp cơ khí đã làm cho quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa bị

gián đoạn bởi những cuộc khủng hoảng có tính chu kỳ. Hình thức đầu tiên và

phổ biến trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là khủng hoảng sản xuất

"thừa".

Khi khủng hoảng nổ ra, hàng hoá không tiêu thụ được, sản xuất bị thu

hẹp, nhiều doanh nghiệp bị vỡ nợ, phá sản, thợ thuyền bị thất nghiệp, thị

trường bị rối loạn. Tình trạng thừa hàng hoá không phải là so với nhu cầu của

xã hội, mà là “thừa” so với sức mua có hạn của quần chúng lao động. Trong

lúc khủng hoảng thừa đang nổ ra, hàng hoá đang bị phá huỷ thì hàng triệu

người lao động lại lâm vào tình trạng đói khổ vì họ không có khả năng thanh

toán.

- Nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản:

Nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế tư bản chủ nghĩa bắt nguồn từ

chính mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Đó là mâu thuẫn giữa trình độ

xã hội hoá cao của lực lượng sản xuất với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ

nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội.

Mâu thuẫn này biểu hiện ra thành các mâu thuẫn sau:

+ Mâu thuẫn giữa tính tổ chức, tính kế hoạch trong từng xí nghiệp rất

chặt chẽ và khoa học với khuynh hướng tự phát vô chính phủ trong toàn xã

hội.

+ Mâu thuẫn giữa khuynh hướng tích luỹ, mở rộng không có giới hạn

của tư bản với sức mua ngày càng eo bẹp của quần chúng do bị bần cùng

hoá.

+ Mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư bản và giai cấp lao động làm

thuê.

Câu hỏi 94: Các chu kỳ của khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư

bản?

Trả lời:

Khủng hoảng kinh tế xuất hiện làm cho quá trình sản xuất tư bản chủ

nghĩa mang tính chu kỳ. Chu kỳ kinh tế của chủ nghĩa tư bản là khoảng thời

gian nền kinh tế tư bản chủ nghĩa vận động từ đầu cuộc khủng hoảng này

đến đầu cuộc khủng hoảng sau.

Chu kỳ kinh tế gồm bốn giai đoạn: khủng hoảng, tiêu điều, phục hồi và

hưng thịnh.

- Khủng hoảng: là giai đoạn khởi điểm của chu kỳ kinh tế mới. Ở giai

đoạn này, hàng hoá ế thừa, ứ đọng, giá cả giảm mạnh, sản xuất đình trệ, xí

nghiệp đóng cửa, công nhân thất nghiệp hàng loạt, tiền công hạ xuống. Tư

bản khả năng thanh toán các khoản nợ, phá sản, lực lượng sản xuất bị phá

hoại nghiêm trọng. Đây là giai đoạn mà các mâu thuẫn biểu hiện dưới hình

thức xung đột dữ dội.

- Tiêu điều: đặc điểm ở giai đoạn này là sản xuất ở trạng thái trì trệ,

không còn tiếp tục đi xuống nhưng cũng không tăng lên, thương nghiệp vẫn

đình đốn, hàng hóa được đem bán hạ giá, tư bản để rỗi nhiều vì không có

nhà đầu tư. Trong giai đoạn này, để thoát khỏi tình trạng bế tắc, các nhà tư

bản còn trụ lại được tìm cách giảm chi phi bằng cách hạ thấp tiền công, tăng

cường độ và thời gian lao động của công nhân, đổi mới tư bản cố định làm

cho sản xuất vẫn còn có lời trong tình hình hạ giá. Việc đổi mới tư bản cố định

làm tăng nhu cầu về tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng, tạo điều kiện cho sự

phục hồi chung của nền kinh tế.

- Phục hồi: là giai đoạn mà các xí nghiệp được khi khôi phục và mở

rộng sản xuất. Công nhân lại được thu hút về làm việc; mức sản xuất đạt đến

quy mô cũ, vật giá tăng lên, lợi nhuận của tư bản do đó cũng tăng lên.

- Hưng thịnh: là giai đoạn sản xuất phát triển vượt quá điểm cao nhất

mà chu kỳ trước đã đạt được. Nhu cầu và khả năng tiêu thụ hàng hoá tăng, xí

nghiệp được rộng và xây dựng thêm. Nhu cầu tín dụng tăng, ngân hàng tung

tiền cho vay, năng lực sản xuất lại vượt quá mua của xã hội. Do đó, lại tạo

điều kiện cho một khủng hoảng kinh tế mới.

Trong chủ nghĩa tư bản hiện nay, khủng hoảng kinh tế vẫn không tránh

khỏi, nhưng có sự can thiệp tích cực của nhà nước tư sản vào quá tình kinh

tế. Sự can thiệp này mặc dù không triệt tiêu được khủng hoảng và chu kỳ

trong nền kinh tế nhưng đã làm cho tác động phá hoại của khủng hoảng bị

hạn chế bớt.

Câu hỏi 95: Phân tích hậu quả của khủng hoảng kinh tế?

Trả lời:

Khủng hoảng kinh tế nổ ra làm cho năng lực sản xuất của nền kinh tế

tư bản chủ nghĩa bị phá hoại dữ dội; hàng loạt xí nghiệp bị đóng cửa, quy mô

sản xuất bị thu hẹp, nhiều ngân hàng không hoạt động, thị trường chứng

khoán bị rối loạn, giá cổ phiếu hạ thấp.

Trong khi một khối lượng khổng lồ của cải bị tiêu huỷ thì hàng triệu

người lao động lâm vào tình cảnh đói khổ. Hàng triệu người lao động làm

thuê bị mất việc làm. Lợi dụng tình hình thất nghiệp gia tăng, các nhà tư bản

tăng cường bóc lột công nhân bằng cách hạ thấp tiền công, tăng cường độ,

tăng thời gian lao động. Không những công nhân ở chính quốc bị bóc lột mà

công nhân ở các nước thuộc địa cũng chịu chung cảnh.

Vì vậy, khủng hoảng kinh tế thúc đẩy mâu thuẫn đối kháng giữa giai

cấp tư sản với vô sản, giữa tư bản với các dân tộc thuộc địa càng thêm sâu

sắc.

Câu hỏi 96: Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là gì?

Trả lời:

- Để tạo ra giá trị hàng hoá phải bao gồm cả lao động quá khứ và lao

động hiện tại. Lao động quá khứ (lao động vật hoá), tức là giá trị của tư liệu

sản xuất (c); lao động hiện tại (lao động sống) tức là lao động tạo ra giá trị

mới (v + m).

Đứng trên quan điểm xã hội mà xét, chi phí lao động đó là chi phí thực

tế của xã hội, chi phí này tạo ra giá trị hàng hoá. Ký hiệu giá trị hàng hoá là w,

w = c + V + m. Về mặt lượng: chi phí thực tế = giá trị hàng hóa.

- Đối với nhà tư bản, họ không phải bỏ ra chi phí lao động để sản xuất

hàng hoá, cho nên họ không quan tâm đến điều đó. Trên thực tế, họ chỉ quan

tâm đến việc ứng tư bản để mua tư liệu sản xuất (c) và mua sức lao động (v).

Do đó, nhà tư bản chỉ xem hao phí hết bao nhiêu tư bản, chứ không

tính đến hao phí hết bao nhiêu lao động xã hội. C.Mác gọi chi phí đó là chi phí

sản xuất tư bản chủ nghĩa, ký hiệu: (k), k = c + V.

Vậy, chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là chi phí về tư bản mà nhà tư

bản bỏ ra để sản xuất hàng hoá.

Khi xuất hiện chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa, thì công thức giá trị

hàng hoá w = c + v + m sẽ chuyển thành w - k + m.

Như vậy, giữa chi phí thực tế và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa có

sự khác nhau về cả mặt chất lẫn mặt lượng:

Về mặt lượng: chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn luôn nhỏ hơn chi

phí thực tế hay giá trị hàng hoá:

(c + v) < (c + V + m)

Về mặt chất: chi phí thực tế là chi phí lao động, phản ánh đúng, đầy đủ

hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tạo ra giá trị hàng hoá, còn

chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa (k) chỉ phản ánh hao phí tư bản của nhà tư

bản mà thôi, nó không tạo ra giá trị hàng hoá.

Vì vậy, C.Mác chỉ rõ phạm trù chi phí sản xuất không có quan hệ gì với

sự hình thành giá trị hàng hoá, cũng như không có quan hệ gì với quá trình

làm cho tư bản tăng thêm giá trị.

Việc hình thành chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa (k) che đậy bản chất

bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Giá trị hàng hoá: w = k + m, trong đó k = c + V.

Nhìn vào công thức trên thì sự phân biệt giữa c và V đã biến mất, người ta

thấy dường như k sinh ra m. Chính ở đây chi phí lao động bị che lấp bởi chi

phí tư bản (k), lao động là thực thể, là nguồn gốc của giá trị thì bị biến mất và

khi đó không ít người lầm tưởng hình như toàn bộ chi phí sản xuất tư bản chủ

nghĩa sinh ra giá trị thặng dư.

Câu hỏi 97: Lợi nhuận là gì? Phân biệt lợi nhuận với giá trị thặng dư?

Trả lời:

- Giữa giá trị hàng hoá và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn luôn

có sự chênh lệch, cho nên sau khi bán hàng hoá (giả định: giá cả = giá trị),

nhà tư bản không những bù đắp đủ số tư bản đã ứng ra, mà còn thu về được

một số tiền lời ngang bằng với m, số tiền này được gọi là lợi nhuận, ký hiệu:

p.

Giá trị thặng dư được so với toàn bộ tư bản ứng trước, được quan

niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước sẽ mang hình thức biến tướng

là lợi nhuận. Hay lợi nhuận là số tiền lời mà nhà tư bản thu được sau khi bán

hàng hoá do có sự chênh lệch giữa giá trị hàng hoá và chi phí tư bản.

Nếu ký hiệu lợi nhuận là p thì công thức:

w = c + v + m = k + m bây giờ sẽ chuyển thành: w = k + p

- So sánh giữa giá trị thặng dư và lợi nhuận:

+ Giống nhau: cả lợi nhuận (p) và giá trị thặng dư (m) đều có chung một

nguồn gốc là kết quả lao động không công của công nhân.

+ Khác nhau: phạm trù giá trị thặng dư phản ánh đúng nguồn gốc và

bản chất của nó là kết quả của sự chiếm đoạt lao động không công của công

nhân, còn phạm trù lợi nhuận chẳng qua chỉ là một hình thái thần bí hóa của

giá trị thặng dư.

- Phạm trù lợi nhuận phản ánh sai lệch bản chất quan hệ sản xuất giữa

nhà tư bản và lao động làm thuê, vì nó làm cho người ta hiểu lầm rằng giá trị

thặng dư không phải chỉ do lao động làm thuê tạo ra. Nguyên nhân của hiện

tượng đó là:

+ Thứ nhất, sự hình thành chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa đã xóa

nhoà sự khác nhau giữa c và V.

+ Thứ hai, do chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn nhỏ hơn chi phí

sản xuất thực tế, cho nên nhà tư bản ch cần bán hàng hoá cao hơn chi phí

sản xuất tư bản chủ nghĩa và có thể thấp hơn giá trị hàng hoá là đã có lợi

nhuận rồi.

Nhìn vào hình thức, lý luận giai cấp tư sản cho rằng, lợi nhuận là do lưu

thông sinh ra. Vì nếu:

Giá cả = giá trị thì p = m

Giá cả > giá trị thì p > m

Giá cả < giá trị thì p < m

Nhưng xét trong toàn xã hội thì tổng giá cả luôn bằng tổng giá trị, do đó

tổng p luôn luôn bằng tổng m.

Câu hỏi 98: Tỷ suất lợi nhuận là gì? Các nhân tố ảnh hưởng tới tỷ suất

lợi nhuận?

Trả lời:

- Tỷ suất lợi nhuận

+ Khái niệm: Tỷ suất lợi nhuận là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá trị

thặng dư và toàn bộ tư bản ứng trước.

+ Công thức: nếu ký hiệu tỷ suất lợi nhuận là p’ ta có:

p'= m/(c + v) * 100%

+ So sánh tỷ suất lợi nhuận với tỷ suất giá trị thặng dư:

Lợi nhuận là hình thức chuyển hoá của giá trị thặng dư, nên tỷ suất lợi

nhuận cũng là sự chuyển hoá của tỷ suất giá trị thặng dư, vì vậy chúng có mối

quan hệ chặt chẽ với nhau. Xhưng giữa m’ và p’ lại có sự khác nhau cả về

chất và lượng.

+ về mặt chất: m’ phản ánh trình độ bóc lột của nhà tư bản đối với công

nhân làm thuê, còn p’ không thể phản ánh được điều đó, mà chỉ nói lên mức

doanh lợi của việc đầu tư tư bản.

Tỷ suất lợi nhuận chỉ cho nhà tư bản biết tư bản của họ đầu tư vào đâu

thì có lợi hơn. Do đó, việc thu lợi nhuận và theo đuổi tỷ suất lợi nhuận là động

lực thúc đẩy các nhà tư bản, là mục tiêu cạnh tranh của các nhà tư bản.

Về mặt lượng: p’ luôn luôn nhỏ hơn m’, vì:

p'=m/(c + v) * 100% còn m' = m/v * 100%

- Các nhân tố ảnh hưởng tới tỷ suất lợi nhuận

+ Tỷ suất giá trị thặng dư:

Tỷ suất giá trị thặng dư càng cao thì tỷ suất lợi nhuận càng lớn và

ngược lại.

Ví dụ:

Nếu cơ cấu giá trị hàng hoá là 800c + 200v + 200m thì m = 100%, p’ =

20%.

Nếu cơ cấu giá trị hàng hoá là 800c + 200v + 400m thì m = 200%, p’ =

40%.

Do đó tất cả các thủ đoạn nhằm nâng cao trình độ bóc lột giá trị thặng

dư cũng chính là những thủ đoạn nâng cao tỷ suất lợi nhuận.

+ Cấu tạo hữu cơ của tư bản:

Trong điều kiện tỷ suất giá trị thặng dư không đổi. nếu cấu tạo hữu cơ

tư bản càng cao thì tỷ suất lợi nhuận càng giảm và ngược lại.

Ví dụ:

Nếu cấu tạo hữu cơ tư bản là 70c + 30v + 20m thì p’ = 30%.

Nếu cấu tạo hữu cơ tư bản là 80c + 20v + 20m thì p’ = 20%.

Thông thường, khi cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng thì tỷ suất giá trị

thặng dư cũng có thể tăng lên, nhưng không thể tăng đủ bù đắp mức giảm

của tỷ suất lợi nhuận.

+ Tốc độ chu chuyển của tư bản:

Nếu tốc độ chu chuyển của tư bản càng lớn, thì tần suất sản sinh ra giá

trị thặng dư trong năm của tư bản ứng trước càng nhiều lần, giá trị thặng dư

theo đó mà tăng lên làm cho tỷ suất lợi nhuận cũng càng tăng.

Ví dụ:

Nếu tốc độ chu chuyển của tư bản một năm 1 vòng: 80c + 20v + 20m

thì p’ = 20%.

Nếu tốc độ chu chuyển của tư bản một năm 2 vòng: 80c + 20v + (20 +

20) m thì p’ = 40%.

Vậy, tỷ suất lợi nhuận tỷ lệ thuận với số vòng chu chuyển của tư bản và

tỷ lệ nghịch với thời gian chu chuyển của tư bản.

+ Tiết kiệm tư bản bất biến:

Trong điều kiện tỷ suất giá trị thặng dư và tư bản khả biến không đổi,

nếu tư bản bất biến càng nhỏ thì tỷ suất lợi nhuận càng lớn.

Vì theo công thức:

p'= m/(c + v) * 100%

Rõ ràng khi m và V không đổi, nếu c càng nhỏ thì p' càng lớn.

Vì vậy, trong thực tế để nâng cao tỷ suất lợi nhuận, các nhà tư bản đã

tìm mọi cách để tiết kiệm tư bản bất biến như sử dụng máy móc, thiết bị, nhà

xưởng, nhà kho, phương tiện vận tải với hiệu quả cao nhất: kéo dài ngày lao

động, tăng cường độ lao động, thay thế nguyên liệu đắt tiền bằng nguyên liệu

rẻ tiền, giảm những chi tiêu bảo hiểm lao động, giảm những chi tiêu bảo vệ

môi trường sinh thái, giảm tiêu hao vật tư năng lượng và tận dụng phế liệu,

phế phẩm, phế thải để sản xuất hàng hoá.

Câu hỏi 99: Phân tích sự hình thành lợi nhuận bình quân và giá cả sản

xuất?

Trả lời:

Trong chủ nghĩa tư bản, do những đặc điểm, điều kiện khác nhau, nên

cùng một lượng tư bản như nhau đầu tư vào các ngành sản xuất khác nhau,

thì tỷ suất lợi nhuận đạt được lại khác nhau. Vì vậy, các nhà tư bản ra sức

cạnh tranh kịch liệt với nhau và dẫn tới việc hình thành lợi nhuận bình quân.

Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa những người

sản xuất, kinh doanh hàng hoá nhằm giành giật những điều kiện có lợi về sản

xuất và tiêu thụ hàng hoá, để thu lợi nhuận cao nhất.

Cạnh tranh xuất hiện và gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế hàng

hoá. Trong nền kinh tế hàng hóa, cạnh tranh vừa là môi trường, vừa là động

lực của sản xuất. Trong sản xuất tư bản chủ nghĩa tồn tại hai loại cạnh tranh

là: cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành.

- Cạnh tranh trong nội bộ ngành

+ Cạnh tranh trong nội bộ ngành là sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp

trong cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hoá nhằm giành giật

những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá có lợi hơn để

thu lợi nhuận siêu ngạch.

+ Biện pháp cạnh tranh: các nhà tư bản thường xuyên cải tiến kỹ thuật,

nâng cao năng suất lao động, làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá sản xuất ra

thấp hơn giá trị xã hội của hàng hoá đó để thu được lợi nhuận siêu ngạch.

+ Kết quả của cạnh tranh nội bộ ngành là hình thành nên giá trị xã hội

(giá trị thị trường) của từng loại hàng hoá. Chúng ta biết rằng, trong các đơn

vị sản xuất khác nhau, do điều kiện sản xuất (điều kiện kỹ thuật, tổ chức sản

xuất, trình độ tay nghề công nhân...) khác nhau, cho nên hàng hoá có giá trị

cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường các hàng hoá phải bán theo giá trị xã

hội - giá trị thị trường.

- Cạnh tranh giữa các ngành và sự hình thành lợi nhuận bình quân

+ Cạnh tranh giữa các ngành là sự cạnh tranh giữa các ngành sản xuất

khác nhau, nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có lợi hơn, tức là, nơi nào có tỷ

suất lợi nhuận cao hơn.

+ Biện pháp cạnh tranh: tự do di chuyển tư bản từ ngành này sang

ngành khác, tức là phân phối tư bản (c và v) vào các ngành sản xuất khác

nhau.

+ Kết quả của cạnh tranh giữa các ngành là hình thành tỷ suất lợi

nhuận bình quân và giá trị hàng hoá chuyển thành giá cả sản xuất.

Ví dụ:

Chúng ta đều biết, ở các ngành sản xuất có những điều kiện tự nhiên,

kinh tế, kỹ thuật và tổ chức quản lý khác nhau, nên tỷ suất lợi nhuận khác

nhau.

Giả sử có ba ngành sản xuất khác nhau, tư bản của mỗi ngành đều

bằng 100, tỷ suất giá trị thặng dư đều bằng 100%, tốc độ chu chuyển của tư

bản ở các ngành đều như nhau. Nhưng do cấu tạo hữu cơ của tư bản ở từng

ngành khác nhau, nên tỷ suất lợi nhuận khác nhau.

Ngành sản xuất Chi phí sản xuất m' (%)Khối lượng

(m)p’ (%)

Cơ khí 80c+ 20v 100 20 20

Dệt 70c + 30v 100 30 30

Da 60c + 40v 100 40 40

Như vậy, cùng một lượng tư bản đầu tư, nhưng do cấu tạo hữu cơ

khác nhau nên tỷ suất lợi nhuận khác nhau. Nhà tư bản ở ngành có tỷ suất lợi

nhuận thấp không thể bằng lòng, đứng yên trong khi những ngành khác có tỷ

suất lợi nhuận cao hơn.

Trong ví dụ trên, ngành da là ngành có cấu tạo hữu cơ của tư bản thấp

nhất nhưng tỷ suất lợi nhuận lại cao nhất, ngược lại, ngành cơ khí là ngành

có cấu tạo hữu cơ của tư bản cao nhất nhưng tỷ suất lợi nhuận lại thấp nhất.

Vì vậy, tư bản ở ngành cơ khí, ngành dệt sẽ tự phát di chuyển sang ngành

da, làm cho sản phẩm của ngành da tăng lên (cung lớn hơn cầu), làm cho giá

cả hàng hoá ở ngành da sẽ hạ xuống thấp hơn giá trị của nó và tỷ suất lợi

nhuận ở ngành này giảm xuống. Ngược lại, ngành cơ khí là ngành mà cả xã

hội đều muốn né tránh, vì tỷ suất lợi nhuận thấp nhất nên sản phẩm của

ngành cơ khí sẽ giảm đi (cung thấp hơn cầu), nên giá cả sẽ cao hơn giá trị và

do đó tỷ suất lợi nhuận ở ngành cơ khí sẽ tăng lên.

Như vậy, do hiện tượng di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành

khác, làm cho ngành có cung (hàng hoá) lớn hơn cầu (hàng hoá) thì giá cả

giảm xuống, còn ngành có cầu (hàng hóa) lớn hơn cung (hàng hoá) thì giá cả

tăng lên. Sự tự do di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác làm thay

đổi cả tỷ suất lợi nhuận cá biệt vốn có của các ngành. Sự tự do di chuyển tư

bản này chỉ tạm dừng lại khi tỷ suất lợi nhuận ở tất cả các ngành đều xấp xỉ

bằng nhau. Kết quả là hình thành nên tỷ suất lợi nhuận bình quân.

- Tỷ suất lợi nhuận bình quân là tỷ số tính theo % giữa tổng giá trị thặng

dư và tổng số tư bản xã hội đã đầu tư vào lác ngành của nền sản xuất tư bản

chủ nghĩa, ký hiệu là p'.

Nếu ký hiệu p' là tỷ suất lợi nhuận bình quân thì:

Theo ví dụ trên thì:

- Khi hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân thì lượng lợi nhuận của tư

bản ở các ngành sản xuất khác nhau đều tính theo tỷ suất lợi nhuận bình

quân và do đó, nếu lượng tư bản ứng ra bằng nhau, dù đầu tư vào ngành nào

cũng đều thu được lợi nhuận bằng nhau, gọi là lợi nhuận bình quân.

Vậy, lợi nhuận bình quân là số lợi nhuận bằng nhau của những tư bản

bằng nhau, đầu tư vào những ngành khác nhau, bất kể cấu tạo hữu cơ của tư

bản như thế nào. Lợi nhuận bình quân được ký hiệu là p, khi đó: p = p' * k. 

Theo ví dụ trên thì lợi nhuận bình quân của cả ba ngành đều tính được

như sau:

p = 30% X 100 = 30

Như vậy, trong giai đoạn cạnh tranh tự do của chủ nghĩa tư bản, giá trị

thặng dư biểu hiện thành lợi nhuận bình quân và quy luật giá trị thặng dư

cũng biểu hiện thành quy luật lợi nhuận bình quân.

Câu hỏi 100: Phân tích sự chuyển hóa của giá trị hàng hóa thành giá

cả sản xuất?

Trả lời:

- Khi lợi nhuận chuyển hóa thành lợi nhuận bình quân thì giá trị hàng

hóa chuyển hóa thành giá cả sản xuất.

- Giá cả sản xuất bằng chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận bình quân.

Giá cả sản xuất = k + lợi nhuận bình quân.

- Điều kiện để giá trị hàng hóa chuyển hóa thành giá cả sản xuất gồm

có: đại công nghiệp cơ khí tư bản chủ nghĩa phát triển; sự liên hệ rộng rãi

giữa các ngành sản xuất; quan hệ tín dụng phát triển, tư bản tự do di chuyển

từ ngành này sang ngành khác.

- Trong sản xuất hàng hóa giản đơn thì giá cả hàng hoá xoay quanh giá

trị hàng hoá. Giờ đây, giá cả hàng hoá sẽ xoay quanh giá cả sản xuất. Xét về

mặt lượng, ở mỗi ngành giá cả sản xuất và giá trị hàng hoá có thể không

bằng nhau nhưng đứng trên phạm vi toàn xã hội thì tổng giá cả sản xuất luôn

bằng tổng giá trị hàng hoá. Trong mối quan hệ này thì giá trị vẫn là cơ sở, là

nội dung bên trong giá cả sản xuất; giá cả sản xuất là cơ sở của giá cả thị

trường và giá cả thị trường xoay quanh giá cả sản xuất.

- Quá trình hình thành lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất có thể

tóm tắt ở bảng sau đây:

Ngành sản xuất

Tư bản bất

biến

Tư bản khả biến

m với m'

=100%

Giá trị hàng hoá

p

Giá cả sản xuất

của hàng hoá

Chênh lệch giữa giá cả sản

xuất và giá trị

Cơ khí 80 20 20 120 30 130 + 10

Dệt 70 30 30 130 30 130 0

Da 60 40 40 140 30 130 - 10

Tổng

số210 90 90 390 90 390 0

Như vậy, trong giai đoạn cạnh tranh tự do của chủ nghĩa tư bản, khi giá

trị thặng dư chuyển hóa thành lợi nhuận bình quân thì giá trị hàng hóa chuyển

hóa thành giá cả sản xuất và quy luật giá trị cũng biểu hiện thành quy luật giá

cả sản xuất.

Câu hỏi 101: Nguồn gốc ra đời và vai trò của tư bản thương nghiệp

trong chủ nghĩa tư bản?

Trả lời:

- Nguồn gốc ra đời

+ Trong quá trình tuần hoàn và chu chuyển của tư bản công nghiệp,

thường xuyên có một bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản hàng hóa

(H’), chờ để được chuyển hóa thành tư bản tiền tệ (T). Do sự phát triển của

phân công lao động xã hội, đến một trình độ nhất định, giai đoạn này được

tách riêng ra trở thành chức năng chuyên môn của một loại hình tư bản kinh

doanh riêng biệt, đó chính là tư bản thương nghiệp (tư bản kinh doanh hàng

hóa).

+ Như vậy, trong chủ nghĩa tư bản, tư bản thương nghiệp là một bộ

phận của tư bản công nghiệp được tách rời ra và phục vụ quá trình lưu thông

hàng hóa của tư bản công nghiệp.

+ Công thức vận động của tư bản thương nghiệp là: T - H – T’

Với công thức này, hàng hóa được chuyển chỗ hai lần: (1) Từ tay nhà

tư bản công nghiệp sang tay nhà tư bản thương nghiệp; (2) Từ tay nhà tư bản

thương nghiệp sang tay người tiêu dùng.

- Vai trò của tư bản thương nghiệp

+ Sản xuất càng phát triển, quy mô sản xuất càng mở rộng, các xí

nghiệp ngày càng lớn lên, làm cho các chức năng quản lý kinh tế ngày càng

phức tạp. Vì vậy, mỗi nhà tư bản chỉ có khả năng hoạt động trong một số

khâu nhất định. Điều đó đòi hỏi phải có một số người chuyên sản xuất, còn

một số người thì chuyên tiêu thụ hàng hóa.

+ Tư bản thương nghiệp chuyên trách nhiệm vụ lưu thông hàng hóa,

phục vụ cùng một lúc cho nhiều nhà tư bản công nghiệp, nên lượng tư bản và

các chi phí bỏ vào lưu thông sẽ giảm đi rất nhiều, do đó từng nhà tư bản công

nghiệp cũng như của toàn xã hội bỏ vào sản xuất sẽ tăng lên.

+ Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu

dùng càng gay gắt, do đó cần phải có các nhà tư bản biết tính toán, am hiểu

được nhu cầu và thị hiếu của thị trường... chỉ có nhà tư bản thương nghiệp

đáp ứng được điều đó. Về phía nhà tư bản công nghiệp mà xét thì nhờ đó mà

nhà tư bản công nghiệp có thời gian để tập trung vào sản xuất, đầu tư tập

trung để nâng cao năng suất lao động, rút ngắn thời gian lưu thông và tăng

nhanh tốc độ chu chuyển tư bản.

Câu hỏi 102: Tại sao nói tư bản thương nghiệp vừa thống nhất, phụ

thuộc, vừa độc lập tương đối với tư bản công nghiệp?

Trả lời:

Ra đời từ tư bản công nghiệp, song lại thực hiện một chức năng

chuyên môn riêng tách rời khỏi chức năng sản xuất của tư bản công nghiệp

nên tư bản thương nghiệp có đặc điểm là vừa phụ thuộc vào tư bản công

nghiệp lại vừa độc lập đối với tư bản công nghiệp.

- Sự thống nhất, phụ thuộc của tư bản thương nghiệp vào tư bản công

nghiệp thể hiện ở chỗ:

+ Tư bản thương nghiệp là một bộ phận của tư bản công nghiệp tách

ra, làm nhiệm vụ lưu thông hàng hóa, cho nên tốc độ và quy mô của lưu

thông là do tốc độ và quy mô sản xuất của tư bản công nghiệp quyết định, sở

dĩ như vậy là vì sản xuất bao giờ cũng là cơ sở của trao đổi, của lưu thông,

không có sản xuất, không có hàng hóa thì không có cái gì để trao đổi, để lưu

thông.

+ Tư bản thương nghiệp đảm nhiệm chức năng tư bản hàng hóa của tư

bản công nghiệp (thực hiện giá trị và giá trị thặng dư). Do đó, những giai đoạn

vận động của tư bản kinh doanh hàng hóa là do sự vận động của tư bản hàng

hóa quyết định.

- Tính độc lập của tư bản thương nghiệp so với tư bản công nghiệp: do

hoạt động trong lĩnh vực lưu thông hàng hóa, nhà tư bản thương nghiệp phải

ứng trước tư bản nhằm mục đích thu về lượng tiền lớn hơn trước thông qua

việc mua bán. Với mục đích đó, tư bản của họ không bao giờ mang hình thái

tư bản sản xuất, mà chỉ hoạt động trong phạm vi lĩnh vực lưu thông.

Câu hỏi 103: Nguồn gốc, bản chất và sự hình thành lợi nhuận thương

nghiệp?

Trả lời:

- Nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận thương nghiệp

+ Việc tạo ra giá trị thặng dư và phân chia giá trị thặng dư là hai vấn đề

khác nhau. Lĩnh vực lưu thông cũng như hoạt động của các nhà tư bản

thương nghiệp đúng là không tạo ra được giá trị thặng dư, nhưng do vị trí,

tầm quan trọng của lưu thông đối với sự phát triển của sản xuất và tái sản

xuất nên các nhà tư bản thương nghiệp vẫn được tham gia vào việc phân

chia giá trị thặng dư cùng với các nhà tư bản công nghiệp và phần giá trị

thặng dư mà các nhà tư bản thương nghiệp được chia chính là lợi nhuận

thương nghiệp.

+ Như vậy, lợi nhuận thương nghiệp là một phần của giá trị thặng dư

được sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất và do nhà tư bản công nghiệp

nhượng lại cho nhà tư bản thương nghiệp, để nhà tư bản thương nghiệp tiêu

thụ hàng cho mình.

+ Tại sao nhà tư bản công nghiệp lại nhượng lại cho nhà tư bản thương

nghiệp một phần giá trị thặng dư? Điều đó được giải thích như sau:

* Tư bản thương nghiệp hoạt động trong lĩnh vực lưu thông, đó là một

khâu, một giai đoạn của quá trình tái sản xuất. Hơn nữa, hoạt động trong lĩnh

vực này nếu không có lợi nhuận thì nhà tư bản thương nghiệp không thể tiếp

tục đảm nhiệm công việc đó. Vì vậy, xuất phát từ lợi ích kinh tế của nhà tư

bản thương nghiệp mà nhà tư bản công nghiệp nhượng lại cho nó một phần

lợi nhuận.

* Tư bản thương nghiệp góp phần mở rộng quy mô tái sản xuất.

* Tư bản thương nghiệp góp phần mở rộng thị trường, tạo điều kiện

cho công nghiệp phát triển.

* Do tư bản thương nghiệp đảm nhận khâu lưu thông, nên tư bản công

nghiệp có thể rảnh tay trong lưu thông và chỉ tập trung đẩy mạnh sản xuất. Vì

vậy, tư bản của nó chu chuyển nhanh hơn, năng suất lao động cao hơn và

nhò đó lợi nhuận cũng tăng lên.

* Tư bản thương nghiệp tuy không trực tiếp tạo ra giá trị thặng dư,

nhưng góp phần làm tăng năng suất lao động, tăng lợi nhuận, do đó làm cho

tỷ suất lợi nhuận chung của xã hội cũng tăng lên, góp phần tích lũy cho tư

bản công nghiệp.

- Sự hình thành lợi nhuận thương nghiệp

+ Trên thực tế, các nhà tư bản thương nghiệp thu lợi nhuận thương

nghiệp từ chênh lệch giữa giá mua và giá bán. Nhưng điều đó không có nghĩa

là nhà tư bản thương nghiệp bán hàng hóa cao hơn giá trị của nó, mà là: nhà

tư bản thương nghiệp mua hàng của nhà tư bản công nghiệp với giá thấp

hơn giá trị (khi chấp nhận bán hàng với giá thấp hơn giá trị cho nhà tư bản

thương nghiệp có nghĩa là nhà tư bản công nghiệp đã chấp nhận “nhượng”

một phần giá trị thặng dư cho nhà tư bản thương nghiệp), sau đó nhà tư bản

thương nghiệp lại bán hàng cho người tiêu dùng với giá đúng giá trị của nó.

+ Để làm rõ quá trình phân chia giá trị thặng dư giữa nhà tư bản công

nghiệp và nhà tư bản thương nghiệp, ta xét ví dụ sau đây (giả định trong ví dụ

này không xét đến chi phí lưu thông);

Một nhà tư bản công nghiệp có một lượng tư bản ứng trước là 900,

trong đó phân chia thành 720c + 180v. Giả định m’ = 100% thì giá trị hàng hóa

sẽ là:

720c + 180v + 180m = 1.080

Tỷ suất lợi nhuận công nghiệp là:

p'CN = (180/900) * 100 = 20%

Nhưng khi nhà tư bản thương nghiệp tham gia vào quá trình kinh

doanh thì công thức trên đây sẽ thay đổi. Giả sử nhà tư bản thương nghiệp

ứng ra 100 tư bản để kinh doanh. Như vậy, tổng tư bản ứng ra của cả hai nhà

tư bản công nghiệp và thương nghiệp sẽ là: 900 + 100 = 1.000, và tỷ suất lợi

nhuận bình quân sẽ là:

Theo tỷ suất lợi nhuận chung này, nhà tư bản công nghiệp chỉ thu được

số lợi nhuận bằng 18% của số tư bản ứng ra (tức là 18% của 900, bằng 162)

và nhà tư bản công nghiệp sẽ bán hàng hóa cho nhà tư bản thương nghiệp

theo giá: 900 + 162 = 1.062.

Còn nhà tư bản thương nghiệp sẽ bán hàng cho người tiêu dùng theo

giá bằng giá trị hàng hóa, tức là 1.080.

Chênh lệch giữa giá bán và giá mua của nhà tư bản thương nghiệp

chính là lợi nhuận thương nghiệp. Trong ví dụ này lợi nhuận thương nghiệp

sẽ là:

P thương nghiệp = 1.080 - 1.062 = 18

Khoản lợi nhuận thương nghiệp 18 này cũng tương ứng với tỷ suất

18% của tư bản thương nghiệp ứng trước.

Câu hỏi 104: Tư bản cho vay được hình thành như thế nào trong chủ

nghĩa tư bản?

Trả lời:

- Tư bản cho vay đã xuất hiện từ rất lâu, sớm hơn cả tư bản công

nghiệp, đó là tư bản cho vay nặng lãi.

- Tư bản cho vay dưới chủ nghĩa tư bản hoàn toàn khác tư bản cho vay

nặng lãi. Tư bản cho vay dưới chủ nghĩa tư bản là một bộ phận của tư bản

công nghiệp tách ra trong quá trình tuần hoàn của tư bản.

- Sự xuất hiện và tồn tại của tư bản cho vay là sự cần thiết và có khả

năng thực hiện:

+ Trong quá trình tuần hoàn và chu chuyển của tư bản công nghiệp,

thường xuyên có một bộ phận tư bản tiền tệ ở trạng thái nhàn rỗi. Ví dụ: tiền

trong quỹ khấu hao nhưng chưa đến kỳ đổi mới hoặc sửa chữa lớn tư bản cố

định; tiền mua nguyên, nhiên, vật liệu nhưng chưa đến kỳ hạn mua; quỹ tiền

lương để trả cho công nhân nhưng chua đến kỳ phải trả; phần giá trị thặng dư

dùng để tích lũy mở rộng sản xuất nhưng chưa có cơ hội, v.v..

+ Nếu tiền để nhàn rỗi có nghĩa là không mang lại thu nhập cho nhà tư

bản, tức là tư bản nhàn rỗi không sinh lợi. Nhưng đối với nhà tư bản thì tiền

phải đẻ ra tiền. Do đó họ có mong muốn cho người khác vay để kiếm lời.

Đồng thời cũng chính trong thời gian đó, có những nhà tư bản khác rất cần

tiền. Ví dụ như cần tiền để mua nguyên, nhiên, vật liệu, để mở rộng quy mô

sản xuất, v.v.. Do đó tất yếu các nhà tư bản đó phải đi vay.

Từ hai mặt trên tất yếu sinh ra sự vay mượn lẫn nhau, sinh ra quan hệ

tín dụng tư bản chủ nghĩa. Nhờ quan hệ vay mượn này mà tư bản nhàn rỗi đã

trở thành tư bản cho vay.

- Tư bản cho vay là tư bản tiền tệ tạm thời nhàn rỗi mà người chủ sở

hữu nó cho người khác sử dụng trong một thời gian nhằm nhận được số tiền

lời nhất định, số tiền lời đó được gọi là lợi tức. Ký hiệu: z.

- Điểm khác nhau giữa tư bản cho vay so với tư bản công nghiệp và tư

bản thương nghiệp:

+ Đối với tư bản cho vay thì quyền sử dụng tư bản tách rời quyền sở

hữu tư bản.

+ Tư bản cho vay là hàng hóa đặc biệt: do vận động theo công thức T -

T trong đó T’ = T + z. Nhìn vào công thức này, sự vận động của tư bản cho

vay chỉ biểu hiện mối quan hệ giữa nhà tư bản cho vay và nhà tư bản đi vay,

tiền đẻ ra tiền. Do đó quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa được che dấu một

cách kín đáo nhất, tư bản cho vay trở nên thần bí và được sùng bái nhất.

Câu hỏi 105: Lợi tức là gì? Tỷ suất lợi tức là gì?

Trả lời:

- Lợi tức

Để hiểu rõ nguồn gốc và bản chất của lợi tức, cần phải xem xét dòng

lưu chuyển của đồng tiền từ nhà tư bản cho vay đến nhà tư bản đi vay và

ngược lại.

+ Đứng về phía nhà tư bản cho vay thì họ nhường quyền sử dụng tư

bản của mình cho người khác trong một thời gian nhất định, nên thu được lợi

tức.

+ Về phía nhà tư bản đi vay thì họ vay tiền về để đưa vào sản xuất -

kinh doanh nên họ thu được lợi nhuận. Nhưng vì họ không có tư bản hoạt

động nên phải đi vay. Trong quá trình vận động, tư bản hoạt động sẽ thu

được lợi nhuận bình quân. Nhưng vì để có tư bản hoạt động, trước đó anh ta

đã phải đi vay, nên nhà tư bản đi vay (tức tư bản hoạt động) không được

hưởng toàn bộ lợi nhuận bình quân, mà trong số lợi nhuận bình quân có một

phần được trích ra để trả cho nhà tư bản cho vay dưới hình thức lợi tức.

+ Lợi tức (z) chính là một phần của lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản

đi vay phải trả cho nhà tư bản cho vay căn cứ vào lượng tư bản tiền tệ mà

nhà tư bản cho vay đã bỏ ra cho nhà tư bản đi vay sử dụng.

+ Nguồn gốc của lợi tức chính là từ giá trị thặng dư do công nhân làm

thuê sáng tạo ra từ trong lĩnh vực sản xuất. Vì vậy, có thể khẳng định tư bản

cho vay cũng gián tiếp bóc lột công nhân làm thuê thông qua nhà tư bản đi

vay.

+ Giới hạn của lợi tức: 0 < z < p

- Tỷ suất lợi tức

+ Khái niệm: Tỷ suất lợi tức là tỷ lệ tính theo phần trăm giữa tổng số lợi

tức và số tư bản tiền tệ cho vay (thường tính theo tháng, quý, năm...).

+ Công thức: nếu ký hiệu tỷ suất lợi tức là z’ ta có:

z’= (z/Tổng tư bản cho vay) * 100%

+ Giới hạn của tỷ suất lợi tức: 0 < z’ < p'

+ Tỷ suất lợi tức cao hay thấp phụ thuộc vào các nhân tố sau đây:

Một là, tỷ suất lợi nhuận bình quân.

Hai là, tỷ lệ phân chia lợi nhuận bình quân thành lợi tức và lợi nhuận

của nhà tư bản hoạt động.

Ba là, quan hệ cung - cầu về tư bản cho vay.

Câu hỏi 106: Hãy phân tích các hình thức tín dụng cơ bản trong chủ

nghĩa tư bản?

Trả lời:

Trong chủ nghĩa tư bản có hai hình thức tín dụng cơ bản là tín dụng

thương nghiệp và tín dụng ngân hàng.

- Tín dụng thương nghiệp

+ Tín dụng thương nghiệp là hình thức tín dụng giữa các nhà tư bản

trực tiếp kinh doanh, mua bán chịu hàng hóa với nhau.

+ Việc mua bán chịu hàng hóa giữa các nhà tư bản có nghĩa là nhà tư

bản này đã cho nhà tư bản kia vay một giá trị tư bản tương ứng với giá trị

chứa đựng trong hàng hóa dó. Bởi vậy, người cho vay đòi hỏi phải được trả

lợi tức. Giá hàng hóa bán chịu bao giờ cũng cao hơn giá hàng hóa trả tiền

ngay bởi vì còn bao gồm cả phần lợi tức trong đó.

+ Mục đích chủ yếu của tín dụng thương nghiệp là để thực hiện giá trị

hàng hóa và thúc đẩy lưu thông hàng hóa.

+ Đối tượng của tín dụng thương nghiệp là hàng hóa.

- Tín dụng ngân hàng

+ Tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn thông qua ngân hàng làm

môi giới.

+ Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng giữa ngân hàng với các

nhà tư bản trực tiếp kinh doanh và các tầng lớp dân cư khác trong xã hội.

Ngân hàng đóng vai trò trung gian giữa những người cho vay và những người

đi vay.

+ Tín dụng ngân hàng ra đời và phát triển dựa trên sự phát triển của tín

dụng thương nghiệp. Đồng thời, tín dụng ngân hàng tạo điều kiện thuận lợi

cho tín dụng thương nghiệp phát triển lên đỉnh cao hơn. Nhờ có tín dụng

ngân hàng, các kỳ phiếu được chiết khấu dễ dàng, được chuyển thành tiền

mặt, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh, cho việc dùng kỳ phiếu làm

phương tiện lưu thông và thanh toán.

+ Sự vận động của tín dụng ngân hàng gắn liền với sự vận động của tư

bản tiền tệ, vì đối tượng của tín dụng ngân hàng là tiền tệ.

Câu hỏi 107: Ngân hàng là gì? Phân tích lợi nhuận ngân hàng?

Trả lời:

- Ngân hàng

+ Ngân hàng trong chủ nghĩa tư bản là xí nghiệp kinh doanh tư bản tiền

tệ, làm môi giới giữa người đi vay và người cho vay.

+ Nguồn gốc ra đời ngân hàng trong chủ nghĩa tư bản

* Từ những tư bản thương nhân kinh doanh tiền tệ thời trung cổ.

* Từ những hội tín dụng do tư bản công, thương nghiệp lập nên. Tư

bản công, thương nghiệp không thể vay nặng lãi đã hợp tác với nhau để lập

nên các hội tín dụng, ban đầu là nhận tiền gửi và thanh toán chuyển khoản

không dùng tiền mặt và sau đó cho vay, kinh doanh tín dụng, trở thành những

ngân hàng thực sự.

+ Khối lượng tiền tệ mà ngân hàng có được để cho vay có nguồn gốc

từ:

* Tư bản tiền tệ tự có của ngân hàng.

* Tư bản tiền tệ tự có của các nhà tư bản công, thương nghiệp chưa

dùng đến như: quỹ khấu hao, quỹ tích lũy, quỹ dự phòng...

* Tư bản tiền tệ của các nhà tư bản thực lợi sống bằng lợi tức.

* Những khoản tiền tiết kiệm, dành dụm, những thu nhập tạm thời chưa

sử dụng của các tầng lớp dân cư.

* Một phần ngân sách nhà nước tạm thời chưa sã dụng đến.

+ Ngân hàng có hai nghiệp vụ: nhận gửi và cho vay.

Nghiệp vụ nhận gửi thu hút tiền vào quỹ, tạo nên nguồn vốn cho vay

chủ yếu của ngân hàng. Tiền gửi có hai loại: tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi

có kỳ hạn. Trong nghiệp vụ nhận gửi, ngân hàng trả lợi tức cho người gửi

tiền.

Nghiệp vụ cho vay của ngân hàng được thực hiện bằng nhiều cách:

chiết khấu kỳ phiếu thương nghiệp, cho vay có bảo đảm hay không bảo đảm.

Ngân hàng có thể cho vay dưới các hình thức: cho vay bằng tiền mặt, phát

hành séc ngân hàng, mở tài khoản cho vay, phát hành kỳ phiếu ngân hàng.

Trong hoạt động cho vay, ngân hàng thu lợi tức của người đi vay, về nguyên

tắc lợi tức cho vay phải cao hơn lợi tức nhận gửi.

+ Ngoài nghiệp vụ trung gian tín dụng, ngân hàng còn có các hoạt động

kinh doanh khác như: chuyển tiền, nghiệp vụ thu - chi hộ, nghiệp vụ ủy thác,

nghiệp vụ mua bán hộ để thu hoa hồng. Đặc biệt, ngân hàng hiện đại còn có

một hoạt động rất quan trọng, đó là nghiệp vụ chứng khoán, mua - bán các

chứng khoán hay kinh doanh trên thị trường chứng khoán.

+ Hệ thống tổ chức của ngân hàng: hiện nay tại hầu hết các nước, hệ

thống tổ chức của ngân hàng được phân ra thành hai cấp: các ngân hàng

thương mại làm chức năng kinh doanh tiền tệ và ngân hàng trung ương đóng

vai trò ngân hàng của các ngân hàng.

- Lợi nhuận ngân hàng

+ Chênh lệch giữa lợi tức cho vay và lợi tức nhận gửi sau khi trừ đi

những chi phí về nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng cộng với các thu nhập

khác về kinh doanh tư bản tiền tệ hình thành nên lợi nhuận ngân hàng.

+ Tỷ suất lợi nhuận của ngân hàng là tỷ lệ phần trăm giữa lợi nhuận

ngân hàng thu được trong một năm với tư bản tự có của ngân hàng. Trong

cạnh tranh, tỷ suất lợi nhuận ngân hàng cũng ngang bằng với tỷ suất lợi

nhuận bình quân.

+ Nhờ có ngân hàng mà các nhà tư bản có điều kiện mở rộng sản xuất

nhanh chóng hơn, có điều kiện tự do di chuyển tư bản từ ngành này sang

ngành khác dễ dàng hơn, giảm được chi phí lưu thông, giảm lượng tiền mặt

trong lưu thông, đẩy nhanh tốc độ quay vòng của đồng tiền.

Câu hỏi 108: Phân biệt tư bản ngân hàng với tư bản cho vay?

Trả lời:

Tư bản ngân hàng có điểm khác biệt căn bản so với tư bản cho vay,

thể hiện ở điểm sau đây:

- Tư bản cho vay là tư bản tiềm thế, tư bản tài sản, là tư bản không

hoạt động. Vì vậy tư bản cho vay không tham gia vào quá trình bình quân hóa

tỷ suất lợi nhuận. Lợi tức - thu nhập của tư bản cho vay chỉ là một phần của

lợi nhuận bình quân.

Lợi tức vận động theo quy luật tỷ suất lợi tức, có giới hạn tối đa, tối

thiểu, nó được quy định trước và do ý chí của đôi bên, tỷ suất lợi tức lên

xuống theo quan hệ cung - cầu của tư bản cho vay. Còn lợi nhuận ngân hàng

vận động theo quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân.

- Tư bản ngân hàng là tư bản chức năng, tư bản hoạt động nên tư bản

ngân hàng cũng có tham gia vào quá trình bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận.

Trong tự do cạnh tranh, lợi nhuận ngân hàng cũng ngang bằng lợi nhuận bình

quân.

- Tư bản cho vay chỉ bao gồm tư bản nhàn rỗi, còn tư bản ngân hàng,

ngoài các tư bản nhàn rỗi còn bao gồm các kim loại quý hiếm, các chứng

khoán có giá. Nguồn vốn của ngân hàng gồm có: tư bản tiền tệ tự có của

ngân hàng; tư bản tiền tệ tự có của các nhà tư bản công, thương nghiệp chưa

dùng đến như: quỹ khấu hao, quỹ tích lũy, quỹ dự phòng...; tư bản tiền tệ của

các nhà tư bản thực lợi sống bằng lợi tức; những khoản tiền tiết kiệm, dành

dụm; những thu nhập tạm thời chưa sử dụng của các tầng lớp dân cư; một

phần ngân sách nhà nước tạm thời chưa sử dụng đến.

Câu hỏi 109: Công ty cổ phần là gì?

Trả lời:

- Công ty cổ phần là một loại hình xí nghiệp lớn mà vốn của nó được

hình thành từ sự đóng góp của nhiều người thông qua việc phát hành cổ

phiếu.

- Cổ phiếu là một loại chứng khoán có giá do công ty cổ phần phát

hành ghi nhận quyền sở hữu cổ phần của người mua cổ phiếu.

- Thu nhập từ cổ phiếu gọi là lợi tức cổ phiếu (hay cổ tức). Lợi tức cổ

phiếu không cố định mà phụ thuộc vào giá trị cổ phần và tình hình sản xuất

kinh doanh của công ty. Thông thường, lợi tức cổ phiếu cao hơn lợi tức ngân

hàng, nếu không người có tiền sẽ gửi tiền vào ngân hàng để hưởng lợi tức

chắc chắn hơn chứ không mạo hiểm đầu tư vào việc mua cổ phiếu.

- Người sở hữu cổ phiếu gọi là cổ đông.

- Về mặt tổ chức và quản lý, đại hội cổ đông là cơ quan tối cao bầu ra

hội đồng quản trị và quyết định phương hướng kinh doanh cùng những vấn

đề quan trọng khác trong công ty. Phiếu biểu quyết trong đại hội cổ đông

được quy định theo số lượng cổ phiếu, bởi vậy những nhà tư bản nắm được

số cổ phiếu khống chế sẽ có khả năng thao túng mọi hoạt động của công ty

cổ phần.

- Cổ phiếu có hai loại: cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi.

- Cổ phiếu được mua bán trên thị trường chứng khoán. Khi mua bán,

giá cả của cổ phiếu không nhất thiết theo mệnh giá của nó mà căn cứ vào giá

cả thị trường, gọi là thị giá cổ phiếu.

- Thị giá cổ phiếu không phụ thuộc vào giá trị danh nghĩa ghi trên cổ

phiếu hay mệnh giá cổ phiếu mà phụ thuộc vào lợi tức cổ phiếu và lợi tức tiền

gửi ngân hàng.

+ Lợi tức cổ phần càng cao thì thị giá cổ phiếu càng cao và ngược lại.

+ Tỷ suất lợi tức ngân hàng càng cao thì thị giá cổ phiếu càng thấp và

ngược lại.

- Vai trò của công ty cổ phần: nhờ sự ra đời của các công ty cổ phần

mà tư bản được tập trung nhanh chóng và xuất hiện những xí nghiệp khổng

lồ mà không một nhà tư bản riêng lẻ nào đủ sức tạo nên. Công ty cổ phần còn

tạo điều kiện thuận lợi cho sự di chuyển tư bản đầu tư, tăng tính linh hoạt và

cạnh tranh trong nền kinh tế, phân tán bớt rủi ro cho những người đầu tư

trong môi trường cạnh tranh quyết liệt. Công ty cổ phần trở thành hình thức tổ

chức kinh tế cơ bản trong nền kinh tế tư bản đương đại.

Câu hỏi 110: Tư bản giả là gì? Đặc điểm của tư bản giả?

Trả lời:

- Tư bản giả là tư bản tồn tại dưới hình thức các chứng khoán có giá và

mang lại thu nhập cho người sở hữu các chứng khoán đó.

- Tư bản giả bao gồm hai loại chủ yếu: cổ phiếu và trái phiếu.

+ Cổ phiếu là một thứ chứng khoán có giá do công ty cổ phần phát

hành ghi nhận quyền sở hữu cổ phần của người mua cổ phiếu.

+ Trái phiếu cũng có hai loại:

* Loại do các doanh nghiệp phát hành được gọi là trái phiếu công ty

hay trái phiếu doanh nghiệp với tư cách là những chứng khoán có giá chứng

nhận khoản tiền vay nợ của doanh nghiệp đối với người mua trái phiếu.

Người mua trái phiếu không phải là cổ đông của doanh nghiệp mà chỉ đơn

thuần là người cho doanh nghiệp vay vốn với giá trị tương ứng với mệnh giá

trái phiếu. Khi hết hạn, người sở hữu trái phiếu có quyền được hoàn trả số

tiền đã nua trái phiếu theo mệnh giá kèm theo khoản lợi tức gọi là lợi tức trái

phiếu.

* Loại do chính phủ hay nhà nước phát hành được gọi là trái phiếu

chính phủ. Công trái về bản chất cũng là một loại trái phiếu chính phủ. Về cơ

bản, trái phiếu chính phủ cũng giống như trái phiếu doanh nghiệp. Sự khác

nhau tập trung ở chỗ: chủ nợ của trái phiếu doanh nghiệp là doanh nghiệp,

còn chủ nợ của trái phiếu chính phủ (hay công trái) chính là nhà nước.

- Vì sao các chứng khoán có giá lại gọi là tư bản giả?

+ Thứ nhất, bởi tự bản thân các chứng khoán không có giá trị, giá trị

danh nghĩa ghi trên tờ chứng khoán chỉ là bản sao, là sự ghi chép lại tư bản

thật đã đầu tư vào sản xuất. Tư bản thật được đầu tư vào sản xuất tồn tại

dưới hình thức nhà xưởng, máy móc, thiết bị,... Sự vận động của tư bản thật

gắn liền với sự vận động của sản xuất, còn các chứng khoán tồn tại bên

ngoài sản xuất, không tham gia vào quá trình sản xuất, chỉ là tờ giấy chứng

nhận quyền sở hữu và quyền được hưởng thu nhập sau một thời gian nhất

định.

+ Thứ hai, sự vận động của tư bản giả hoàn toàn tách rời sự vận động

của tư bản thật. Ngay cả khi tư bản thực tế đã sử dụng hết, không còn tồn tại

thì tư bản giả vẫn tồn tại, vẫn tiếp tục lưu thông như trường hợp công trái.

+ Thứ ba, tư bản giả không những khác tư bản thật về chất, mà còn

khác tư bản thật về lượng. Ban đầu giá trị danh nghĩa của các chứng khoán

phản ánh giá trị của những tư bản thực tế đầu tư. Nhưng trên thị trường, giá

cả của những chứng khoán đó không phải là giá trị danh nghĩa, mà là thị giá

chứng khoán. Thực tế, tổng giá cả của các chứng khoán lớn hơn nhiều lần

tổng tư bản thực tế đã đầu tư.

+ Thứ tư, tính chất giả dối của tư bản giả bộc lộ rõ trong thời gian

khủng hoảng kinh tế, khi các sở giao dịch chứng khoán sụp đổ, các cổ phiếu

và trái phiếu bị mất giá nghiêm trọng, mặc dù trong nhiều trường hợp, của cải

thực tế của xã hội không hề giảm sút.

- Đặc điểm của tư bản giả:

Một là, có thể mang lại thu nhập cho người sở hữu nó.

Hai là, có thể mua bán được.

Ba là, vì là tư bản giả nên sự tăng hay giảm giá mua bán của nó trên thị

trường không cần có sự thay đổi tương ứng của tư bản thật.

Câu hỏi 111: Thị trường chứng khoán là gì?

Trả lời:

- Thị trường chứng khoán là nơi mua bán các chứng khoán.

- Thị trường chứng khoán được phân thành hai cấp độ: thị trường sơ

cấp và thị trường thứ cấp.

+ Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các chứng khoán trong lần

phát hành đầu tiên.

+ Thị trường thứ cấp là thị trường mua đi bán lại các chứng khoán và

thường được thực hiện thông qua các sở giao dịch chứng khoán.

- Phát hành chứng khoán là một hình thức huy động vốn, mua chứng

khoán là một hình thức đầu tư.

+ Huy động vốn qua thị trường chứng khoán có đặc điểm ưu thế khác

so với huy động vốn qua ngân hàng như:

* Vốn huy động qua ngân hàng thường là vốn ngắn hạn, tín dụng ngắn

hạn; còn vốn huy động qua thị trường chứng khoán thường là vốn dài hạn, tín

dụng dài hạn.

* Vốn huy động qua ngân hàng làm trung gian chia tách người sở hữu

và người sử dụng vốn, người sở hữu vốn không biết tới quá trình sử dụng

vốn của mình. Trong việc phát hành chứng khoán, người sở hữu vốn biết rõ

việc sủ dụng vốn của mình, quan tâm tới quá trình đó, tạo điều kiện để nâng

cao quá trình đó.

+ Mua chứng khoán là đầu tư dài hạn, nhưng việc mua và bán chứng

khoán cho phép người có chứng khoán thu hồi vốn của mình, biến chứng

khoán của mình thành một tín dụng ngắn hạn. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi

cho người mua huy động vốn, tạo điều kiện cho sự linh hoạt trong đầu tư,

tăng tính cạnh tranh trong nền kinh tế phân tán bớt rủi ro cho người đầu tư...

- Thị trường chứng khoán bên cạnh việc tạo điều kiện thuận lợi cho huy

động vốn và đầu tư, thông qua việc đánh giá khách quan, linh hoạt, nhanh

nhạy giá trị của các cổ phiếu, trái phiếu, thị trường chứng khoán phản ánh

trạng thái hoạt động của nền kinh tế nói chung, của từng công ty trong nền

kinh tế nói riêng. Vì vậy, người ta thường ví thị trường chứng khoán như là

“phong vũ biểu” của nền kinh tế.

Câu hỏi 112: Phân tích sự hình thành quan hệ sản xuất tư bản chủ

nghĩa trong nông nghiệp?

Trả lời:

- Trong chủ nghĩa tư bản, nông nghiệp cũng trở thành một lĩnh vực đầu

tư của tư bản, cũng được kinh doanh theo phương thức tư bản chủ nghĩa. So

với lĩnh vực công nghiệp và thương nghiệp, quan hệ sản xuất tư bản chủ

nghĩa trong nông nghiệp xuất hiện muộn hơn. Trong lịch sử, quan hệ sản xuất

tư bản chủ nghĩa hình thành trong nông nghiệp theo hai con đường điển hình:

Thứ nhất, dần dần chuyển nền nông nghiệp địa chủ phong kiến sang

kinh doanh theo phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sử dụng lao động

làm thuê. Ví dụ như ở Đức, Italia, Nga Sa hoàng, v.v..

Thứ hai, thông qua cuộc cách mạng dân chủ tư sản, xóa bỏ chế độ

canh tác ruộng đất theo kiểu phong kiến, phát triển chủ nghĩa tư bản trong

nông nghiệp. Ví dụ như ở Pháp, Anh, v.v..

- Đặc điểm nổi bật của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông

nghiệp là chế độ độc quyền ruộng đất. Thế độ độc quyền ruộng đất đã ngăn

cản tự do cạnh tranh trong nông nghiệp. Khi quan hệ sản xuất tư bản chủ

nghĩa được hình thành, nếu không kể đến một số ít nông dân cá thể tự canh

tác trên mảnh đất của họ, thì trong nông nghiệp tư bản chủ nghĩa có ba giai

cấp chủ yếu: giai cấp địa chủ (người sở hữu ruộng đất), giai cấp các nhà tư

bản kinh doanh nông nghiệp (các nhà tư bản thuê ruộng đất để kinh doanh)

và giai cấp công nhân nông nghiệp làm thuê.

Câu hỏi 113: Phân tích bản chất của địa tô tư bản chủ nghĩa?

Trả lời:

- Giống như các nhà tư bản kinh doanh trong công nghiệp, thương

nghiệp, các nhà tư bản kinh doanh trong nông nghiệp cũng phải thu được lợi

nhuận bình quân. Nhưng vì phải thuê ruộng của địa chu nên ngoài lợi nhuận

bình quân, nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp còn phải thu thêm được một

phần giá trị thặng dư dôi ra nữa, tức là lợi nhuận siêu ngạch. Lợi nhuận siêu

ngạch này tương đối ổn định và lâu dài và nhà tư bản kinh doanh nông

nghiệp phải trả cho địa chủ dưới hình thái địa tô tư bản chủ nghĩa.

Vậy, địa tô tư bản chủ nghĩa là phần giá trị thặng dư còn lại sau khi đã

khấu trừ đi phần lợi nhuận bình quân mà các nhà tư bản kinh doanh nông

nghiệp phải nộp cho địa chủ.

Thực chất, địa tô tư bản chủ nghĩa chính là một hình thức chuyển hóa

của giá trị thặng dư siêu ngạch hay lợi nhuận siêu ngạch.

- Phân biệt địa tô tư bản chủ nghĩa với địa tô phong kiến:

+ Điểm giống nhau: đều là sự thực hiện về mặt kinh tế của quyền sở

hữu về ruộng đất, cả hai loại địa tô đều là kết quả của sự bóc lột đối với

người lao động nông nghiệp.

+ Điểm khác nhau:

* Về mặt chất, địa tô phong kiến chỉ phản ánh quan hệ sản xuất giữa

hai giai cấp: địa chủ và nông dân, trong đó địa chủ trực tiếp bóc lột nông dân;

còn địa tô tư bản chủ nghĩa phản ánh quan hệ sản xuất giữa ba giai cấp: địa

chủ, nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp và công nhân nông nghiệp làm thuê,

trong đó địa chủ gián tiếp bóc lột công nhân nông nghiệp làm thuê thông qua

nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp.

* Về mặt lượng, địa tô phong kiến bao gồm toàn bộ phần sản phẩm

thặng dư do nông dân tạo ra, có khi còn lấn sang cả phần sản phẩm cần thiết;

còn địa tô tư bản chủ nghĩa chỉ là một phần của sản phẩm thặng dư đó là

phần sản phẩm tương ứng với phần giá trị thặng dư dôi ra ngoài lợi nhuận

bình quân của nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp.

Câu hỏi 114: Địa tô chênh lệch là gì? Có mấy hình thức địa tô chênh

lệch?

Trả lời:

- Địa tô chênh lệch

+ Địa tô chênh lệch là phần địa tô thu được ở trên những ruộng đất có

lợi thế về điều kiện sản xuất (độ mầu mỡ của đất đai tốt hơn, vị trí gần thị

trường, gần đường hơn, hoặc ruộng đất được đầu tư để thâm canh). Nó là số

chênh lệch giữa giá cả sản xuất chung (được quy định bởi điều kiện sản xuất

trên ruộng đất xấu nhất) và giá cả sản xuất cá biệt.

+ Định lượng: Địa tô chênh lệch = Giá cả sản xuất chung - Giá cả sản

xuât cá biệt.

+ Vì sao giá cả sản xuất chung được quy định bởi điều kiện sản xuất

trên ruộng đất xấu nhất: trong công nghiệp, thì giá cả sản xuất được quy định

bởi điều kiện sản xuất trung bình, còn trong nông nghiệp nếu giá cả sản xuất

cũng được quy định trên ruộng đất có điều kiện sản xuất trung bình thì trên

ruộng đất xấu sẽ không có người canh tác và như vậy sẽ không đủ nông sản

phẩm để thỏa mãn nhu cầu của xã hội.

+ Thực chất của địa tô chênh lệch là lợi nhuận siêu ngạch. Nguồn gốc

của nó là một phần giá trị thặng dư do công nhân nông nghiệp làm thuê tạo

ra.

+ Trong nông nghiệp cũng như trong công nghiệp đều có lợi nhuận siêu

ngạch, nhưng trong công nghiệp, do cạnh tranh nên lợi nhuận siêu ngạch

không tồn tại ổn định ở một doanh nghiệp cố định. Trái lại, trong nông nghiệp,

lợi nhuận siêu ngạch tồn tại thường xuyên và ổn định những doanh nghiệp có

điều kiện thuận lợi. Đó là do:

Thứ nhất, trong nông nghiệp đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu nhưng

đất đai có hạn đã bị độc chiếm và người ta không thể tạo ra thêm những điều

kiện tự nhiên thuận lợi.

Thứ hai, nông phẩm lại là sản phẩm tất yếu không thể thiếu được đối

với đời sống con người và xã hội. Bởi vậy, để đảm bảo đủ nhu cầu nông

phẩm cho tiêu dùng, người ta không chỉ canh tác trên những khoảng đất tốt

hoặc trung bình mà buộc phải canh tác trên cả những đất xấu hay kém thuận

lợi. Do vậy, giá cả thị trường của nông phẩm do giá cả sản xuất ở nơi có điều

kiện kém thuận lợi quyết định, có như vậy mới đảm bảo cho những nhà tư

bản kinh doanh trên ruộng đất xấu cũng thu được lợi nhuận bình quân. Khi đó

những nhà tư bản kinh doanh trên những ruộng đất tốt vì trung bình, khi bán

sản phẩm theo giá cả sản xuất chung ngoài lợi nhuận bình quân còn thu

được lợi nhuận siêu ngạch. Khoản lợi nhuận siêu ngạch này được chuyển

hóa thành địa tô và được gọi là địa tô chênh lệch.

- Các hình thức địa tô chênh lệch

Xét về cơ sở hình thành lợi nhuận siêu ngạch và việc chuyển hóa lợi

nhuận siêu ngạch thành địa tô, địa tô chênh lệch được chia làm hai loại:

+ Địa tô chênh lệch I:

Địa tô chênh lệch I là địa tô chênh lệch thu được trên những ruộng đất

có độ màu mỡ tự nhiên thuộc loại trung bình và tốt, có vị trí gần thị trường

hoặc gần đường giao thông.

Ví dụ:

Giả sử có ba thửa ruộng tương ứng với ba mức độ màu mỡ khác nhau:

tốt, trung bình và xấu. Tư bản đầu tư trên ba thửa này đều bằng nhau, tất cả

đều là 100 và tỷ suất lợi nhuận bình quân (p') là 20%. Nhưng do khác nhau về

độ màu mỡ của đất đai nên sản lượng thu được trên ba thửa này sẽ khác

nhau. Cụ thể: thửa tốt có sản lượng là 6 tạ, thửa trung bình có sản lượng là 5

tạ và thửa xấu có sản lượng là 4 tạ. Ta có bảng như sau:

Loại ruộng

TB đầu tư

pSản

lượng (tạ)

Giá cả sx cá biệt Giá cả sx chung Địa tô chênh lệch

của tổng SP

của 1 tạ

của 1 tạ

của tổng SP

Tốt 100 20 6 120 20 30 180 60

T Bình 100 20 5 120 24 30 150 30

Xấu 100 20 4 120 30 30 120 0

+ Địa tô chênh lệch II:

Địa tô chênh lệch (II) là địa tô chênh lệch thu được do thâm canh.

Thâm canh là việc đầu tư thêm tư bản vào một đơn vị diện tích ruộng

đất để nâng cao chất lượng canh tác của đất, nhằm tăng độ màu mỡ trên

thửa ruộng đất đó, nâng cao sản lượng trên một đơn vị diện tích.

Khi thời hạn hợp đồng còn thì nhà tư bản kinh doanh bỏ túi số lợi

nhuận siêu ngạch này, nhưng khi hết hợp đồng thì chủ ruộng đất sẽ tìm cách

nâng cao mức địa tô để chiếm lấy số lợi nhuận siêu ngạch đó, tức là biến lợi

nhuận siêu ngạch thành địa tô chênh lệch. Do đó chủ ruộng đất chỉ muốn cho

thuê trong một thời gian ngắn còn nhà tư bản thì không muốn đầu tư nhiều

vốn để cải tạo vì làm như vậy phải mất một thời gian dài mới thu hồi được

vốn. Vì vậy, trong thời gian thuê ruộng đất, nhà tư bản kinh doanh ruộng đất

tìm mọi cách khai thác, tận dụng hết đệ màu mỡ của đất đai để thu được

nhiều lợi hơn. Như vậy trong điều kiện canh tác theo lối tư bản chủ nghĩa thì

độ màu mỡ của đất đai ngày càng giảm sút.

Câu hỏi 115: Địa tô tuyệt đối là gì? Phân biệt địa tô tuyệt đối với địa tô

chênh lệch?

Trả lời:

- Địa tô tuyệt đối

+ Khái niệm: Địa tô tuyệt đối là loại địa tô mà tất cả các nhà tư bản kinh

doanh nông nghiệp đều phải nộp cho địa chủ, cho dù ruộng đất là tốt hay xấu.

Đây là loại địa tô thu trên mọi loại đất.

+ Trong chủ nghĩa tư bản, do có sự độc quyền tư hữu về ruộng đất,

nên đã cản trở sự phát triển của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong lĩnh

vực nông nghiệp. Điều đó thể hiện ở chỗ: nông nghiệp thường lạc hậu so với

công nghiệp cả về kinh tế lẫn kỹ thuật, vì thế cấu tạo hữu cơ của tư bản trong

nông nghiệp thường thấp hơn cấu tạo hữu cơ của tư bản trong công nghiệp.

Vì vậy, nếu trình độ bóc lột ngang nhau và với một lượng tư bản ứng ra bằng

nhau thì lượng giá trị thặng dư thu được trong nông nghiệp bao giờ cũng cao

hơn lượng giá trị thặng dư thu được trong công nghiệp.

Ví dụ: có hai nhà tư bản nông nghiệp và công nghiệp đều ứng ra một

lượng tư bản là 100; cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp là 3/2; cấu

tạo hữu cơ của tư bản trong công nghiệp là 4/1; tỷ suất giá trị thặng dư trong

cả hai ngành nông nghiệp và công nghiệp đều bằng 100%; thì giá trị và giá trị

thặng dư được sản xuất ra ở từng lĩnh vực là:

Trong nông nghiệp: 60c + 40v + 40m = 140

Trong công nghiệp: 80c + 20v + 20m = 120

Sự chênh lệch giữa giá trị nông sản phẩm với giá cả sản xuất chung

làm hình thành địa tô tuyệt đối là: 140 - 120 = 20

Sự độc quyền tư hữu ruộng đất đã ngăn cản quá trình tự do di chuyển

tư bản từ các ngành khác vào nông nghiệp và do đó đã ngăn cản quá trình

bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận giữa nông nghiệp và công nghiệp.

Do vậy, trong nông nghiệp, nông sản phẩm được bán ra theo giá trị chứ

không bán theo giá cả sản xuất chung. Phần chênh lệch giữa giá trị nông sản

phẩm và giá cả sản xuất chung, cũng là phần chênh lệch giữa giá trị thặng dư

được tạo ra trong nông nghiệp và lợi nhuận bình quân sẽ được giữ lại để nộp

địa tô cho địa chủ.

+ Bản chất của địa tô tuyệt đối cũng là lợi nhuận siêu ngạch dôi ra

ngoài lợi nhuận bình quân, được hình thành do cấu tạo hữu cơ của tư bản

trong nông nghiệp luôn thấp hơn cấu tạo hữu cơ của tư bản trong công

nghiệp, nó là số chênh lệch giữa giá trị nông sản phẩm và giá cả sản xuất

chung.

+ So sánh giữa địa tô chênh lệch và địa tô tuyệt đối

+ Điểm giống nhau: về thực chất, địa tô tuyệt đối và địa tô chênh lệch

đều là lợi nhuận siêu ngạch, đều có nguồn gốc từ giá trị thặng dư, đều là kết

quả của sự chiếm đoạt lao động thặng dư của công nhân nông nghiệp làm

thuê.

+ Điểm khác biệt: độc quyền kinh doanh ruộng đất theo kiểu tư bản chủ

nghĩa là nguyên nhân sinh ra địa tô chênh lệch, còn độc quyền tư hữu về

ruộng đất là nguyên nhân sinh ra địa tô tuyệt đối. Vì vậy, việc xóa bỏ chế độ

độc quyền tư hữu về ruộng đất chính là cơ sở để xóa bỏ địa tô tuyệt đối, khi

đó giá cả nông sản phẩm sẽ hạ xuống và có lợi cho người tiêu dùng.

HỌC THUYẾT VỀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN VÀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC

Câu hỏi 116: Nguyên nhân hình thành chủ nghĩa tư bản độc quyền?

Trả lời:

Chủ nghĩa tư bản độc quyền xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ

XX do những nguyên nhân chủ yếu sau:

- Sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộ khoa

học kỹ thuật; một mặt, làm xuất hiện những ngành sản xuất mới, ngay từ đầu

đã là những ngành có trình độ tích tụ cao, đòi hỏi những hình thức kinh tế tổ

chức mới, đó là những xí nghiệp lớn. sản xuất lớn có ưu thế rõ rệt so với sản

xuất nhỏ và đã phát triển rất mạnh. Mặt khác, nó dẫn đến tăng năng suất lao

động, tăng sản xuất giá trị thặng dư tương đối. Việc nâng cao tỷ suất và khối

lượng giá trị thặng dư đã mở rộng khả năng tích lũy tư bản, thúc đẩy sự phát

triển sản xuất lớn, tăng tích tụ tư bản và sản xuất.

- Vào 30 năm cuối của thế kỷ XIX, những thành tựu khoa học kỹ thuật

mới xuất hiện như lò luyện kim mới Betsơme, Máctanh, Tômát, v.v. đã tạo ra

sản lượng lớn gang thép với chất lượng cao; phát hiện ra hoá chất mới như

axít sunphuaric (H2S04), thuốc nhuộm, v.v.; máy móc mới ra đời: động cơ

điêzen, máy phát điện, máy tiện, máy phay, v.v.; phát triển những phương

tiện vận tải mới: xe hơi, tàu thuỷ, xe điện, máy bay, v.v. và đặc biệt là đường

sắt. Những thành tựu khoa học kỹ thuật này, một mặt làm xuất hiện những

ngành sản xuất mới đòi hỏi xí nghiệp phải có quy mô lớn; mặt khác, nó dẫn

đến tăng năng suất lao động, tăng khả năng tích luỹ tư bản, thúc đẩy phát

triển sản xuất lớn.

- Trong điều kiện phát triển của khoa học kỹ thuật, sự tác động của các

quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản như quy luật giá trị thặng dư, quy luật

tích luỹ, v.v. ngày càng mạnh mẽ, làm biến đổi cơ cấu kinh tế của xã hội tư

bản theo hướng tập trung sản xuất quy mô lớn.

- Cạnh tranh khốc liệt buộc các nhà tư bản phải tích cực cải tiến kỹ

thuật, tăng quy mô tích luỹ để thắng thế trong cạnh tranh. Đồng thời, cạnh

tranh gay gắt làm cho các nhà tư bản vừa và nhỏ bị phá sản, còn các nhà tư

bản lớn phát tài, làm giàu với số tư bản tập trung và quy mô xí nghiệp ngày

càng to lớn.

- Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1873 trong toàn bộ thế giới tư bản chủ

nghĩa làm phá sản hàng loạt xí nghiệp vừa và nhỏ, thúc đẩy nhanh chóng quá

trình tích tụ và tập trung tư bản.

- Sự phát triển của hệ thống tín dụng tư bản chủ nghĩa trở thành đòn

bẩy mạnh mẽ thúc đẩy tập trung sản xuất, nhất là việc hình thành các công ty

cổ phần, tạo tiền đề cho sự ra đời của các tổ chức độc quyền.

Câu hỏi 117: Phân tích những đặc điểm kinh tế chủ yếu của chủ nghĩa

tư bản độc quyền?

Trả lời:

Phân tích những hiện tượng mới trong nền kinh tế của các nước tư bản

chủ nghĩa phát triển cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, có thể khái quát năm

đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền như sau:

- Tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền

+ Tích tụ và tập trung sản xuất cao dẫn đến hình thành các tổ chức độc

quyền là đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc.

+ Tổ chức độc quyền là tổ chức liên minh giữa các nhà tư bản lớn để

tập trung vào trong tay phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng

hoá nào đó nhằm mục đích thu được lợi nhuận độc quyền cao.

+ Khi mới bắt đầu quá trình độc quyền hoá, các liên minh độc quyền

hình thành theo liên kết ngang, nghĩa là mới chỉ liên kết những doanh nghiệp

trong cùng một ngành, nhưng về sau theo mối liên hệ dây chuyền, các tổ

chức độc quyền đã phát triển theo liên kết dọc, mở rộng ra nhiều ngành khác

nhau. Những hình thức độc quyển cơ bản là: cácten, xanhđica, tơrớt,

côngxoócxiom, consơn cônglômêrát.

Cácten là hình thức tổ chức độc quyền giữa các nhà tư bản ký hiệp

nghị thoả thuận với nhau về giá cả, quy mô sản lượng, thị trường tiêu thụ, kỳ

hạn thanh toán, v.v.. Các nhà tư bản tham gia cácten vẫn độc lập về sản xuất

và thương nghiệp. Họ chỉ cam kết làm đúng hiệp nghị, nếu làm sai sẽ bị phạt

tiền theo quy định của hiệp nghị. Vì vậy, cácten là liên minh độc quyền không

vững chắc. Trong nhiều trường hợp, những thành viên thấy ở vào vị trí bất lợi

đã rút ra khỏi cácten, làm cho cácten thường tan vỡ trước kỳ hạn.

Xanhđica là hình thức tổ chức độc quyền cao hơn, ổn định hơn cácten.

Các xí nghiệp tham gia xanhđica vẫn giữ độc lập về sản xuất, chỉ mất độc lập

về lưu thông: mọi việc mua - bán do một ban quản trị chung của xanhđica

đảm nhận. Mục đích của xanhđica là thống nhất đầu mối mua và bán để mua

nguyên liệu với giá rẻ, bán hàng hoá với giá đắt nhằm thu lợi nhuận độc

quyền cao.

Tờrớt là một hình thức độc quyền cao hơn cácten và xanhđica, nhằm

thông nhất cả việc sản xuất, tiêu thụ, tài vụ đều do một ban quản trị quản lý.

Các nhà tư bản tham gia tờrớt trở thành những cổ đông thu lợi nhuận theo số

lượng cổ phần.

Côngxoócxiom là hình thức tổ chức độc quyền có trình độ và quy mô

lớn hơn các hình thức độc quyền trên. Tham gia côngxoócxiom không chỉ có

các nhà tư bản lớn mà còn cả các xanhđica, tờrớt, thuộc các ngành khác

nhau nhưng liên quan với nhau về kinh tế, kỹ thuật. Với kiểu liên kết dọc như

vậy, một côngxoócxiom có thể có hàng trăm xí nghiệp liên kết trên cơ sở

hoàn toàn phụ thuộc về tài chính vào một nhóm tư bản kếch sù.

Consơn là hình thức tổ chức tập đoàn phổ biến nhất hiện nay. Consơn

không có tư cách pháp nhân, các thành viên trong consơn vẫn giữ nguyên

tính độc lập về mặt pháp lý. Mối quan hệ giữa các công ty thành viên trong

consơn dựa trên cơ sở những thỏa thuận về lợi ích chung. Đó là những thỏa

thuận về phát minh sáng chế, nghiên cứu khoa học - công nghệ, hợp tác sản

xuất kinh doanh chặt chẽ và có hệ thống tài chính chung. Mục tiêu thành lập

consơn là tạo thế mạnh để phát triển kinh doanh nhằm hạn chế rủi ro, đồng

thời hỗ trợ mạnh mẽ trong nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ mới,

phương pháp quản lý hiện đại. Trong consơn thường thành lập các công ty

đóng vai trò là “công ty mẹ” điều hành hoạt động của consơn. Các công ty

thành viên thường hoạt động ở nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau và

chúng có mối quan hệ gần gũi với nhau về công nghệ sản xuât.

Cônglômêrát là loại tập đoàn đa ngành, đa lĩnh vực. Các công ty thành

viên ít có mối quan hệ công nghệ sản xuất gần gũi với nhau, thậm chí không

có mối quan hệ nào về mặt công nghệ sản xuất. Loại hình này hình thành

bằng cách thu hút cổ phần của những doanh nghiệp có lợi nhuận cao nhất,

đặc biệt là các doanh nghiệp đang có tốc độ phát triển cao, nhưng có mối

quan hệ chặt chẽ với nhau về mặt tài chính. Trong cônglômêrát không có

ngành nghề nào là chủ chốt, chúng được hình thành bằng cách thu hút cổ

phần của những công ty đang ở vào giai đoạn phát triển cao. Thông qua hoạt

động mua bán chứng khoán trên thị trường, cơ cấu sản xuất của cônglômêrát

thường chuyển hướng tập trung vào những ngành nghề có lợi nhuận cao.

Việc thôn tính dần các công ty có lãi xuất cao làm cho cơ cấu ngành nghề của

tập đoàn thay đổi nhanh chóng. Đặc điểm cơ bản của hình nức tập đoàn kinh

tế này là huy động vốn thông qua phát hành chứng khoán và hoạt động của

nó chủ yếu nhằm mở rộng phạm vi kiểm soát tài chính. Do đó, cônglômêrát

có mối quan hệ rất chặt chẽ với ngân hàng.

- Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính

+ Cùng với quá trình tích tụ và tập trung sản xuất trong công nghiệp

cũng diễn ra quá trình tích tụ, tập trung tư bản trong ngân hàng, dẫn đến hình

thành các tổ chức độc quyền trong ngân hàng.

Quy luật tích tụ, tập trung tư bản trong ngân hàng cũng giống như trong

công nghiệp:

* Do quá trình cạnh tranh, các ngân hàng vừa và nhỏ bị thôn tính, dẫn

đến hình thành những ngân hàng lớn.

* Khi sản xuất trong ngành công nghiệp tích tụ ở mức độ cao, thì các

ngân hàng nhỏ không đủ tiềm lực và uy tín phục vụ cho công việc kinh doanh

của các xí nghiệp công nghiệp lớn. Các tổ chức độc quyền này tìm kiếm các

ngân hàng lớn hơn, thích hợp với các điều kiện tài chính và tín dụng của

mình. Trong điều kiện đó, các ngân hàng nhỏ phải tự sáp nhập vào các ngân

hàng mạnh hơn, hoặc phải chấm dứt sự tồn tại của mình trước quy luật khốc

liệt của cạnh tranh.

+ Sự xuất hiện, phát triển của các tổ chức độc quyền trong ngân hàng

đã làm thay đổi quan hệ giữa tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp, làm

cho ngân hàng bắt đầu có vai trò mới. Ngân hàng từ chỗ chỉ là trung gian

trong việc thanh toán và tín dụng, nay đã nắm được hầu hết tư bản tiền tệ của

xã hội nên có quyền lực vạn năng, khống chế mọi hoạt động của nền kinh tế

tư bản chủ nghĩa.

* Dựa trên địa vị người chủ cho vay, độc quyền ngân hàng cử đại diện

của mình vào các cơ quan quản lý của độc quyền công nghiệp để theo dõi

việc sử dụng tiền vay, hoặc trực tiếp đầu tư vào công nghiệp.

* Trước sự khống chế và chi phối ngày càng xiết chặt của ngân hàng,

một quá trình xâm nhập tương ứng trở lại của các độc quyền công nghiệp vào

ngân hàng cũng diễn ra. Các tổ chức độc quyền công nghiệp cũng tham gia

vào công việc của ngân hàng bằng cách mua cổ phần của ngân hàng lớn để

chi phối hoạt động của ngân hàng, hoặc lập ngân hàng riêng phục vụ cho

mình.

Quá trình độc quyền hoá trong công nghiệp và trong ngân hàng xoắn

xuýt với nhau và thúc đẩy lẫn nhau làm nảy sinh một thứ tư bản mới, gọi là tư

bản tài chính.

+ Tư bản tài chính là kết quả của sự hợp nhất giữa tư bản ngân hàng

của một số ít ngân hàng độc quyền lớn nhất, với tư bản của những liên minh

độc quyền các nhà tư bản công nghiệp.

Sự phát triển của tư bản tài chính dẫn đến sự hình thành một nhóm nhỏ

độc quyền, chi phối toàn bộ đồi sống kinh tế và chính trị của toàn xã hội tư

bản gọi là bọn đầu sỏ tài chính. Bọn đầu sỏ tài chính thiết lập sự thống trị của

mình thông qua chế độ tham dự. Thực chất của chế độ tham dự là một nhà

tài chính lớn, hoặc một tập đoàn tài chính nhờ có số cổ phiếu khống chế mà

nắm được một công ty lớn nhất với tư cách là công ty gốc (hay là “công ty

mẹ”); công ty này lại mua được cổ phiếu khống chế, thống trị được công ty

khác, gọi là “công ty con”; “công ty con” đến lượt nó lại chi phối các “công ty

cháu” cũng bằng cách như thế... Nhờ có chế độ tham dự và phương pháp tổ

chức tập đoàn theo kiểu móc xích như vậy, bằng một lượng tư bản đầu tư

nhỏ, các nhà tư bản độc quyền tài chính có thể khống chế và điều tiết được

một lượng tư bản lớn gấp nhiều lần.

Thống trị về kinh tế là cơ sở để bọn đầu sỏ tài chính thống trị về chính

trị và các mặt khác. Về mặt chính trị, bọn đầu sỏ tài chính chi phối mọi hoạt

động của các cơ quan nhà nước, biến nhà nước tư sản thành công cụ phục

vụ lợi ích cho chúng. Sự thống trị của bọn tài phiệt đã làm nảy sinh chủ nghĩa

phát xít, chủ nghĩa quân phiệt và nhiều thứ chủ nghĩa phản động khác, cùng

chạy đua vũ trang gây chiến tranh xâm lược để áp bức, bóc lột các nước

đang phát triển và chậm phát triển.

- Xuất khẩu tư bản

+ Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (đầu tư tư bản ra

nước ngoài) nhằm mục đích chiếm đoạt giá trị thặng dư và các nguồn lợi

nhuận khác ở các nước nhập khẩu tư bản.

+ Động cơ của xuất khẩu tư bản

* Một số ít nước phát triển đã tích luỹ được một khối lượng tư bản lớn

và có một số "tư bản thừa" tương đối cần tìm nơi đầu tư có nhiều lợi nhuận

so với đầu tư ở trong nước.

* Nhiều nước lạc hậu về kinh tế bị lôi cuốn vào sự giao lưu kinh tế thế

giới nhưng lại rất thiếu tư bản, giá ruộng đất tương đối hạ, tiền lương thấp,

nguyên liệu rẻ, nên tỷ suất lợi nhuận cao, rất hấp dẫn đầu tư tư bản.

+ Xuất khẩu tư bản được thực hiện dưới hai hình thức chủ yếu: xuất

khẩu tư bản hoạt động (đầu tư trực tiếp) và xuất khẩu tư bản cho vay (đầu tư

gián tiếp).

Xuất khẩu tư bản hoạt động (đầu tư trực tiếp) là hình thức xuất khẩu tư

bản để xây dựng những xí nghiệp mới hoặc mua lại những xí nghiệp đang

hoạt động ở nước nhận đầu tư, biến nó thành một chi nhánh của công ty mẹ

ở chính quốc. Các xí nghiệp mới hình thành thường tồn tại dưới dạng hỗn

hợp song phương hoặc đa phương, nhưng cũng có những xí nghiệp toàn bộ

vốn là của công ty nước ngoài.

Xuất khẩu tư bản cho vay (đầu tư gián tiếp) là hình thức xuất khẩu tư

bản được thực hiện dưới hình thức cho chính phủ, thành phố, hay một ngân

hàng ở nước ngoài vay tư bản tiền tệ có thu lãi.

+ Thực hiện các hình thức xuất khẩu tư bản trên, xét về chủ sở hữu tư

bản, có thể phân tích thành xuất khẩu tư bản tư nhân và xuất khẩu tư bản nhà

nước.

* Xuất khẩu tư bản nhà nước là nhà nước tư bản độc quyền dùng

nguồn vốn từ ngân quỹ của mình để đầu tư vào nước nhập khẩu tư bản; hoặc

viện trợ có hoàn lại hay không hoàn lại, để thực hiện những mục tiêu về kinh

tế, chính trị và quân sự.

Về kinh tế, xuất khẩu tư bản nhà nước thường hướng vào các ngành

thuộc kết cấu hạ tầng để tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư của tư bản tư

nhân. Nhà nước tư bản viện trợ không hoàn lại cho nước nhập khẩu tư bản

để ký được những hiệp định thương mại và đầu tư có lợi...

Về chính trị, viện trợ của nhà nước tư sản thường nhằm duy trì và bảo

vệ chế độ chính trị "thân cận" đã bị lung lay ở các nước nhập khẩu tư bản,

tăng cường sự phụ thuộc của các nước đó vào các nước đế quốc, thực hiện

chủ nghĩa thực dân mới, tạo điều kiện cho tư nhân xuất khẩu tư bản.

Về quân sự, viện trợ của tư bản nhà nước nhằm lôi kéo các nước phụ

thuộc vào khối quân sự hoặc buộc các nước nhận viện trợ phải cho các nước

xuất khẩu lập căn cứ quân sự trên lãnh thổ của mình...

* Xuất khẩu tư bản tư nhân là hình thức xuất khẩu tư bản do tư nhân

thực hiện. Hình thức này có đặc điểm cơ bản là nó thường được đầu tư vào

những ngành kinh tế có vòng quay tư bản ngắn và thu được lợi nhuận độc

quyền cao, dưới hình thức các hoạt động cắm nhánh của các công ty xuyên

quốc gia.

Việc xuất khẩu tư bản là sự mở rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ

nghĩa ra nước ngoài, là công cụ chủ yếu đẽ bành trướng sự thống trị, bóc lột,

nô dịch của tư bản tài chính trên phạm vi toàn thế giới.

- Sự phân chia thế giới về kinh tế giữa các tổ chức độc quyền

+ Quá trình tích tụ và tập trung tư bản phát triển, việc xuất khẩu tư bản

tăng lên cả về quy mô và phạm vi tất yếu dẫn tới sự phân chia thế giới về mặt

kinh tế giữa các tập đoàn tư bản độc quyền và hình thành các tổ chức độc

quyền quốc tế.

+ Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, thị trường ngoài nước

có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nước đế quốc. Một mặt, do lực

lượng sản xuất phát triển cao đòi hỏi ngày càng phải có nhiều nguồn nguyên

liệu và nơi tiêu thụ; mặt khác, do thèm khát lợi nhuận siêu ngạch thúc đẩy tư

bản độc quyền tăng cường bành trướng ra nước ngoài, cần có thị trường ổn

định thường xuyên.

+ Do cạnh tranh khốc liệt nhằm mở rộng thị trường ngoài nước giữa

các tổ chức độc quyền lớn của các quốc gia tất yếu dẫn đến sự thỏa hiệp và

hình thành các tổ chức độc quyền quốc tế dưới dạng cácten, xanhđica, tơrớt

quốc tế...

- Sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc

V.I.Lênin đã chỉ ra rằng: Chủ nghĩa tư bản phát triển càng cao, nguyên

liệu càng thiếu thốn, sự cạnh tranh càng gay gắt và việc tìm kiếm các nguồn

nguyên liệu trên toàn thế giới càng ráo riết, thì cuộc đấu tranh để chiếm thuộc

địa càng quyết liệt hơn.

Các cường quốc đế quốc ra sức xâm chiếm thuộc địa, bởi vì thuộc địa

là nơi bảo đảm nguồn nguyên liệu và thị trường thường xuyên; là nơi tương

đối an toàn trong cạnh tranh, bảo đảm thực hiện đồng thời những mục đích

về kinh tế, quân sự và chính trị.

Sự phần chia lãnh thổ và phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản tất

yếu dẫn đến cuộc đấu tranh đòi chia lại thế giới. Đó là nguyên nhân chính dẫn

đến hai cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) và Chiến tranh thế

giới thứ hai (1939-1945).

Năm đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc có liên quan chặt

chẽ với nhau, nói lên bản chất của chủ nghĩa đế quốc về mặt kinh tế là sự

thống trị của chủ nghĩa tư bản độc quyền, về mặt chính trị là hiếu chiến, xâm

lược.

Câu hỏi 118: Phân tích mối quan hệ giữa độc quyền và cạnh tranh

trong chủ nghĩa tư bản độc quyền?

Trả lời:

- Độc quyền sinh ra từ cạnh tranh tự do, độc quyền đối lập với cạnh

tranh tự do. Nhưng sự xuất hiện của độc quyền không thủ tiêu được cạnh

tranh, trái lại còn làm cho cạnh tranh trở nên đa dạng, gay gắt và có sức phá

hoại to lớn hơn.

- Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, không chỉ tồn tại sự

cạnh tranh giữa những người sản xuất nhỏ, giữa những nhà tư bản vừa và

nhỏ như trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do, mà còn có thêm

các loại cạnh tranh sau:

Một là, cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với các xí nghiệp ngoài

độc quyền. Các tổ chức độc quyền tìm mọi cách chèn ép, chi phối, thôn tính

các xí nghiệp ngoài độc quyền bằng nhiều biện pháp như: độc chiếm nguồn

nguyên liệu, nguồn nhân công, phương tiện vận tải, tín dụng, hạ giá có hệ

thống... để đánh bại đối thủ.

Hai là, cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với nhau. Loại cạnh

tranh này có nhiều hình thức: cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền trong

một ngành, kết thúc bằng một sự thoả hiệp hoặc bằng sự phá sản của một

bên; cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền khác ngành có liên quan với

nhau về nguồn nguyên liệu, kỹ thuật...

Ba là, cạnh tranh trong nội bộ các tổ chức độc quyền. Những nhà tư

bản tham gia cácten, xanhđica cạnh tranh với nhau để giành thị trường tiêu

thụ có lợi hoặc giành tỷ lệ sản xuất cao hơn. Các thành viên của tờrớt và

côngxoócxiom cạnh tranh với nhau để chiếm cổ phiếu không chế, từ đó chiếm

địa vị lãnh đạo và phân chia lợi nhuận có lợi hơn.

Câu hỏi 119: Biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị và quy luật giá trị

thặng dư trong chủ nghĩa tư bản độc quyền?

Trả lời:

- Các tổ chức độc quyền hình thành do chính sự vận động nội tại của

chủ nghĩa tư bản sinh ra. Độc quyền là biểu hiện mới, mang những quan hệ

mới nhưng nó không vượt ra khỏi các quy luật của chủ nghĩa tư bản, mà chỉ

là sự tiếp tục mở rộng, phát triển những xu thế sâu sắc nhất của chủ nghĩa tư

bản và của nền sản xuất hàng hoá nói chung, làm cho các quy luật kinh tế

của nền sản xuất hàng hoá và của chủ nghĩa tư bản có những biểu hiện mới.

- Do chiếm được vị trí độc quyền nên các tổ chức độc quyền đã áp đặt

giá cả độc quyền; giá cả độc quyền thấp khi mua, giá cả độc quyền cao khi

bán. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản

độc quyền quy luật giá trị không còn hoạt động.

Về thực chất, giá cả độc quyền vẫn không thoát ly và không phủ định

cơ sở của nó là giá trị. Các tổ chức độc quyền thi hành chính sách giá cả độc

quyền chẳng qua là chiếm đoạt một phần giá trị và giá trị thặng dư của những

người khác. Nếu xem xét trong toàn bộ hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa thì

tổng số giá cả vẫn bằng tổng số giá trị.

Như vậy, nếu như trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh

quy luật giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả sản xuất, thì trong giai đoạn chủ

nghĩa tư bản độc quyền quy luật giá trị biểu hiện thành quy luật giá cá độc

quyền.

- Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do, quy luật giá trị

thặng dư biểu hiện thành quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân. Bước sang giai

đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, các tổ chức độc quyền thao túng nền kinh

tế bằng giá cả độc quyền và thu được lợi nhuận độc quyền cao. Do đó quy

luật lợi nhuận độc quyền cao là hình thức biểu hiện của quy luật giá trị thặng

dư trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền.

Nguồn gốc của lợi nhuận độc quyền cao là: lao động không công của

công nhân ở các xí nghiệp độc quyền; một phần lao động không công của

nhân công ở các xí nghiệp không độc quyền; một phần giá trị thặng dư của

các nhà tư bản vừa và nhỏ bị mất đi do thua thiệt trong cuộc cạnh tranh; lao

động thặng dư và đôi khi cả một phần lao động tất yếu của những người sản

xuất nhỏ, nhân dân lao động ở các nước tư bản và các nước thuộc địa, phụ

thuộc.

Như vậy, trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, quy luật giá trị

thặng dư biểu hiện thành quy luật lợi nhuận độc quyền cao. Quy luật này

phản ánh quan hệ thống trị và bóc lột của tư bản độc quyền trong tất cả các

ngành kinh tế của xã hội tư bản và trên toàn thế giới.

Câu hỏi 120: Nguyên nhân hình thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà

nước?

Trả lời:

Nguyên nhân dẫn đến sự hình thành của chủ nghĩa tư bản độc quyền

nhà nước là do:

Một là, tích tụ và tập trung tư bản càng lớn thì tích tụ và tập trung sản

xuất càng cao, do đó đẻ ra những cơ cấu kinh tế to lớn đòi hỏi một sự điều

tiết xã hội đối với sản xuất và phân phối, yêu cầu kế hoạch hoá tập trung từ

một trung tâm. Nói cách khác, sự phát triển hơn nữa của trình độ xã hội hoá

lực lượng sản xuất đã dẫn đến yêu cầu khách quan là nhà nước phải đại biểu

cho toàn bộ xã hội quản lý nền sản xuất. Lực lượng sản xuất xã hội hoá ngày

càng cao mâu thuẫn gay gắt với hình thức chiếm hữu tư nhân tư bản chủ

nghĩa, do đó tất yếu đòi hỏi phải có một hình thức mới của quan hệ sản xuất

để lực lượng sản xuất có thể tiếp tục phát triển trong điều kiện còn sự thống

trị của chủ nghĩa tư bản. Hình thức mới đó là chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà

nước.

Hai là, sự phát triển của phân công lao động xã hội đã làm xuất hiện

một số ngành mà các tổ chức độc quyền tư bản tư nhân không thể hoặc

không muốn kinh doanh vì đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm và ít lợi nhuận, nhất

là các ngành thuộc kết cấu hạ tầng như năng lượng, giao thông vận tải,

nghiên cứu khoa học cơ bản... đòi hỏi nhà nước tư sản phải đứng ra đảm

nhiệm kinh doanh các ngành đó, tạo điều kiện cho các tổ chức độc quyền tư

nhân kinh doanh các ngành khác có lợi hơn.

Ba là, sự thống trị của độc quyền đã làm sâu sắc thêm sự đối kháng

giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản và nhân dân lao động. Nhà nước phải

có những chính sách để xoa dịu những mâu thuẫn đó như trợ cấp thất

nghiệp, điều tiết thu nhập quốc dân, phát triển phúc lợi xã hội...

Bốn là, cùng với xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự bành

trướng của các liên minh độc quyền quốc tế vấp phải những hàng rào quốc

gia dân tộc và xung đột lợi ích với các đối thủ trên thị trường thế giới. Tình

hình đó đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa các nhà nước của các quốc gia tư

sản để điều tiết các quan hệ chính trị và kinh tế quốc tế.

Câu hỏi 121: Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước?

Trả lời:

Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp sức mạnh của các

tổ chức độc quyền tư nhản với sức mạnh của nhà nước tư sản thành một

thiết chế và thể chế thống nhất, trong đó nhà nước tư sản bị phụ thuộc vào

các tổ chức độc quyền và can thiệp vào các quá trinh kinh tế nhằm bảo vệ lợi

ích của các tổ chức độc quyền và cứu nguy cho chủ nghĩa tư bản.

Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là nấc thang phát triển mới của

chủ nghĩa tư bản độc quyền (chủ nghĩa đế quốc). Nó là sự thống nhất của ba

quá trình gắn bó chặt chẽ với nhau: tăng sức mạnh của các tổ chức độc

quyền, tăng vai trò can thiệp của nhà nước vào kinh tế, kết hợp sức mạnh

kinh tế của độc quyền tư nhân với sức mạnh chính trị của nhà nước trong một

thể thống nhất và bộ máy nhà nước phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền.

Trong cơ cấu của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, nhà nước đã

trở thành một tập thể tư bản khổng lồ. Nó cũng là chủ sở hữu những xí

nghiệp, cũng tiến hành kinh doanh, bóc lột lao động làm thuê như một nhà tư

bản thông thường. Nhưng điểm khác biệt là ở chỗ: ngoài chức năng một nhà

tư bản thông thường, nhà nước còn có chức năng chính trị và các công cụ

trấn áp xã hội như quân đội, cảnh sát, nhà tù...

Như vậy, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một quan hệ kinh tế,

chính trị, xã hội chứ không phải là một chính sách trong giai đoạn độc quyền

của chủ nghĩa tư bản.

Bất cứ nhà nước nào cũng có vai trò kinh tế nhất định đối với xã hội mà

nó thống trị, song ở mỗi chế độ xã hội, vai trò kinh tế của nhà nước có sự

biến đổi thích hợp đối với xã hội đó. Các nhà nước trước chủ nghĩa tư bản

chủ yếu can thiệp bằng bạo lực và theo lối cưỡng bức siêu kinh tế. Trong giai

đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, nhà nước tư sản ở bên trên, bên

ngoài quá trình kinh tế, vai trò của nhà nước chỉ dừng lại ở việc điều tiết bằng

thuế và pháp luật. Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền vai

trò của nhà nước tư sản dần dần có sự biến đổi, không chỉ can thiệp vào nền

sản xuất xã hội bằng thuế, luật pháp mà còn có vai trò tổ chức và quản lý các

xí nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước, điều tiết bằng các biện pháp đòn

bẩy kinh tế vào tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất: sản xuất, phân

phối, lưu thông, tiêu dùng. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là hình

thức vận động mới của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa nhằm duy trì sự

tồn tại của chủ nghĩa tư bản, làm cho chủ nghĩa tư bản thích nghi với điều

kiện lịch sử mới.

Câu hỏi 122: Những biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa tư bản độc

quyền nhà nước?

Trả lời:

- Sự kết hợp về nhân sự giữa tổ chức độc quyền và nhà nước

+ Sự kết hợp về nhân sự thực hiện thông qua các đảng phái tư sản.

Chính các đảng phái này đã tạo ra cho tư bản độc quyền một cơ sở xã hội để

thực hiện thống trị và trực tiếp xây dựng đội ngũ công chức cho bộ máy nhà

nước.

+ Cùng với các đảng phái tư sản, sự kết hợp về nhân sự còn được

thực hiện thông qua các hội chủ xí nghiệp mang những tên khác nhau, thí dụ:

Liên đoàn công nghiệp Italia, Tổ chức liên hợp công nghiệp Đức, Liên đoàn

công thương Anh...

Các hội chủ xí nghiệp này trở thành lực lượng chính trị, kinh tế to lớn, là

chỗ dựa cho chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Các hội chủ này hoạt

động như là các cơ quan tham mưu cho nhà nước, chi phối đường lối kinh tế,

đường lối chính trị của nhà nước tư sản nhằm "lái" hoạt động của nhà nước

theo hướng có lợi cho tầng lớp tư bản độc quyền. Vai trò của các hội lớn đến

mức mà dư luận thế giới đã gọi chúng là những chính phủ đằng sau chính

phủ, một quyền lực thực tế đằng sau quyền lực của chính quyền. Thông qua

các hội chủ, một mặt các đại biểu của các tổ chức độc quyền tham gia vào bộ

máy nhà nước với những cương vị khác nhau; mặt khác, các quan chức và

nhân viên chính phủ được cài vào các ban quản trị của các tổ chức độc

quyền, giữ những chức vụ trọng yếu chính thức hoặc danh dự, hoặc trở thành

những người đỡ đầu các tổ chức độc quyền. Sự thâm nhập lẫn nhau này

(còn gọi là sự kết hợp) đã tạo ra những biểu hiện mới trong mối quan hệ giũa

các tổ chức độc quyền và cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương.

- Sự hình thành và phát triển sở hữu nhà nước

+ Sở hữu độc quyền nhà nước là sở hữu tập thể của giai cấp tư sản

độc quyền có nhiệm vụ ủng hộ và phục vụ lợi ích của tư bản độc quyền nhằm

duy trì sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Nó biểu hiện không những ở chỗ sở

hữu nhà nước tăng lên mà còn ở sự tăng cường mối quan hệ giữa sở hữu

nhà nước và sở hữu độc quyền tư nhân, hai loại sở hữu này đan kết với nhau

trong quá trình tuần hoàn của tổng tư bản xã hội.

+ Sở hữu nhà nước không chỉ bao gồm những động sản và bất động

sản cần cho hoạt động của bộ máy nhà nước, mà gồm cả những xí nghiệp

nhà nước trong công nghiệp và trong các lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế - xã

hội như: giao thông vận tải, giáo dục, y tế, bảo hiểm xã hội... trong đó ngân

sách nhà nước là bộ phận quan trọng nhất.

+ Sở hữu nhà nước được hình thành dưới nhiều hình thức khác nhau:

xây dựng xí nghiệp nhà nước bằng vốn của ngân sách; quốc hữu hoá các xí

nghiệp tư nhân bằng cách mua lại; nhà nước mua cổ phần của các xí nghiệp

tư nhân; mở rộng xí nghiệp nhà nước bằng vốn tích luỹ của các xí nghiệp tư

nhân...

+ Sở hữu nhà nước thực hiện các chức năng quan trọng sau:

Một là, mở rộng sản xuất tư bản chủ nghĩa, bảo đảm địa bàn rộng lớn

cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. Điều này liên quan đến những ngành

sản xuất cũ không đứng vững được trong cạnh tranh và có nguy cơ thua lỗ,

cũng như các ngành công nghiệp mới nhất đòi hỏi vốn đầu tư lớn và trình độ

nghiên cứu khoa học, thiết kế và thử nghiệm cao được nhà nước đầu tư phát

triển.

Hai là, giải phóng tư bản của tổ chức độc quyền từ những ngành ít lãi

để đưa vào những ngành kinh doanh có hiệu quả hơn.

Ba là, làm chỗ dựa về kinh tế cho nhà nước để nhà nước điều tiết một

số quá trình kinh tế phục vụ lợi ích của tầng lớp tư bản độc quyền.

- Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản

Một trong những hình thức biểu hiện quan trọng của chủ nghĩa tư bản

độc quyền nhà nước là sự tham gia của nhà nước tư sản vào việc điều tiết

quá trình kinh tế. Hệ thống điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản là một tổng

thể những thiết chế và thể chế kinh tế của nhà nước. Nó bao gồm bộ máy

quản lý gắn với hệ thống chính sách, công cụ có khả năng điều tiết sự vận

động của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, toàn bộ quá trình tái sản xuất xã hội

theo hướng có lợi cho tầng lớp tư bản độc quyền.

Các chính sách kinh tế của nhà nước tư sản là sự thể hiện rõ nét nhất

sự điều tiết kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước trong giai đoạn

hiện nay. Chúng bao gồm nhiều lĩnh vực như: chính sách chống khủng hoảng

chu kỳ, chống lạm phát; chính sách tăng trưởng kinh tế, chính sách xã hội,

chính sách kinh tế đối ngoại.

Các công cụ chủ yếu của nhà nước tư sản dùng để điều tiết kinh tế và

thực hiện các chính sách kinh tế là: ngân sách, thuế, hệ thống tiền tệ - tín

dụng, các doanh nghiệt nhà nước, kế hoạch hoá hay chương trình hoá kinh tế

và các công cụ hành chính - pháp lý.

Câu hỏi 123: Phân tích sự phát triển nhảy vọt về lực lượng sản xuất

của chủ nghĩa tư bản hiện đại?

Trả lời:

Sự phát triển nhảy vọt về lực lượng sản xuất của chủ nghĩa tư bản hiện

đại được thể hiện trên các khía cạnh sau:

Thứ nhất, cách mạng công nghệ thông tin (IT) và công nghệ cao phát

triển mạnh mẽ. Cách mạng IT khởi nguồn từ các nước phát triển phương Tây

là bước nhảy vọt lớn mang tính lịch sử to lớn của phát triển khoa học kỹ thuật,

là kết ruả sự tích luỹ khoa học kỹ thuật lâu dài của các nước tư bản chủ

nghĩa. Mười mấy năm gần đây, công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ, trở

thành ngành lớn nhất và ngành tăng trưởng nhanh nhất, nửa cuối thập kỷ 90

của thế kỷ XX, ngành công nghệ thông tin của Mỹ chiếm 8,3% trong GDP,

đóng góp cho tăng trưởng kinh tế trên 30%.

Cùng với sự lan rộng trên toàn cầu của cách mạng IT, các ngành công

nghệ cao mới khác như sinh học, vật liệu mới, nguồn năng lượng mới, hàng

không vũ trụ... cũng đang phát triển mạnh mẽ, dự kiến cách mạng khoa học

kỹ thuật sẽ bùng nổ một cao trào mới do sự kết hợp giữa IT với công nghệ

cao khác, đặc biệt là công nghệ sinh học. Sự tiến bộ và những bước đột phá

của khoa học kỹ thuật đã mở ra không gian rộng lớn mới cho sự phát triển

của sức sản xuất.

Thứ hai, giáo dục được tăng cường và tô chất của người lao động

được nâng cao rõ rệt.

Ví dụ, thời gian được giáo dục học tập của công nhân Mỹ từ 10,6 năm

của năm 1948 đã tăng đến trên 14 năm vào năm 1999; trong cùng thời gian

này tỷ lệ trên đại học của người dân trên 25 tuổi từ 14% đã tăng lên đến 50%.

Tăng cường giáo dục đào tạo đã làm cho tố chất công nhân được nâng cao,

từ đó đặt nền móng vững chắc cho việc nâng cao năng suất lao động và sức

cạnh tranh.

Thứ ba, những thành quả khoa học kỹ thuật nhanh chóng chuyển hoá

vào sản xuất, kinh doanh giúp tăng năng suất lao động, thúc đẩy tăng trưởng

kinh tế.

Theo thống kê, vào năm 1820, trước cuộc cách mạng khoa học kỹ

thuật lần thứ nhất, tỷ lệ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm của thế giới rất

thấp, năm đầu công nguyên đến năm 1000 chỉ có 0,01%; từ năm 1000 đến

năm 1820 là 0,22%; từ năm 1820 đến năm 1898 đạt 2,21%. Sau Chiến tranh

Thế giới thứ hai, tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới nâng cao rõ rệt, từ năm

1950-1973, GDP thế giới mỗi năm tăng 4,91%, từ năm 1973-1998 tăng

3,01%. Những năm 90 của thế kỷ XX, nước Mỹ với sự thúc đẩy của cách

mạng IT đã có được 10 năm phồn vinh liên tục, trong khoảng thời gian từ

năm 1996-2000 mức tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt trên 4%. Tiến

bộ khoa học kỹ thuật thúc đẩy nâng cao năng suất lao động. Từ năm 1995-

2001 năng suất lao động của các ngành phi nông nghiệp ở Mỹ tăng trưởng

bình quân hàng năm là 2,6%, gấp gần hai lần so với khoảng thời gian từ

1973-1995 (1,39%), đây chính là kết quả áp dụng rộng rãi công nghệ thông

tin.

Câu hỏi 124: Phân tích xu hướng chuyển từ kinh tế công nghiệp sang

kinh tế tri thức của chủ nghĩa tư bản hiện đại?

Trả lời:

- Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ nhất góp phần thúc đẩy

chủ nghĩa tư bản chuyển đổi từ kinh nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp;

cuộc cách mạng công nghệ thông tin (IT) hiện nay đang thúc đẩy nền kinh tế

tư bản chủ nghĩa chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức.

- Trong kinh tế tri thức, tri thức và kỹ thuật có vai trò cao hơn các yếu tố

như nguồn tài nguyên tự nhiên và vốn, trở thành yếu tố sản xuất quan trọng

nhất.

- Vận hành của kinh tế tri thức chủ yếu không còn do người lao động

cơ bắp thao tác máy móc, mà chủ yếu do những người lao động trí óc trong

các ngành thiết kế, nghiên cứu phát triển cũng như truyền bá tri thức thúc

đẩy. Nâng cao tầm quan trọng của tri thức, biểu hiện ở chỗ tăng trưởng của

tư bản vô hình (giáo dục, nghiên cứu, khai thác...) cao hơn tư bản hữu hình

(xây dựng, máy móc), hàm lượng tri thức tăng lên trong sản phẩm và dịch vụ.

- Đối tượng sản xuất và tiêu thụ của kinh tế công nghiệp là kết tinh

"nguồn tài nguyên", còn đối tượng sản xuất và tiêu thụ của kinh tế tri thức là

"kết tinh tri thức".

- Sáng tạo kỹ thuật và sáng tạo cơ chế đóng vai trò then chốt trong phát

triển kinh tế tri thức. Sáng tạo kỹ thuật là động lực bên trong thúc đẩy phát

triển kinh tế tri thức, có quan hệ mật thiết với chính sách khoa học kỹ thuật và

sáng tạo cơ chế. Sáng tạo cơ chế là vô cùng quan trọng đối với sự ra đời và

phát triển của kinh tế tri thức. Cơ chế hợp nhất ba loại hình xí nghiệp đầu tư

rủi ro, doanh nghiệp nhỏ công nghệ cao và thị trường cổ phiếu là động lực

trực tiếp của nền kinh tế mới.

- Cùng với sự chuyển đổi loại hình kinh tế, kết cấu ngành nghề của chủ

nghĩa tư bản cũng được điều chỉnh và nâng cấp hơn, chuyển sang dịch vụ

hoá và công nghệ cao hoá. Điều này thể hiện ở chỗ: trong ba ngành nghề

lớn, vị trí của nông nghiệp hạ thấp, vị trí của dịch vụ, đặc biệt là ngành dịch vụ

có liên quan đến công nghệ mới được tăng lên.

Câu hỏi 125: Phân tích những điều chỉnh về quan hệ sản xuất và quan

hệ giai cấp trong chủ nghĩa tư bản hiện đại?

Trả lời:

Sự điều chỉnh về quan hệ sản xuất và quan hệ giai cấp trong chủ nghĩa

tư bản hiện đại được thể hiện ở những điểm sau:

Thứ nhất, quan hệ sở hữu cũng có những thay đổi biểu hiện nổi bật là

sự phân tán quyền nắm cổ phiếu tăng lên. Những năm 90 của thế kỷ XX, số

lượng người dân nắm cổ phiếu và giá trị cổ phiếu ở Mỹ đểu tăng khi nhanh.

Năm 1989 là 28% dân số Mỹ có cổ phiếu, năm 1999 tới 48,2%, năm 1995

những người có trong tay cổ phiếu trị giá thấp (5.000 USD trở xuống) đang

giảm dần còn những người có trong tay cổ phiếu trị giá 50.000 use trở lên

tăng gấp đôi so với năm 1989, lên đến 18,4 triệu người. Phân tán hoá quyền

khống chế cổ phiếu có lợi cho cải thiện quan hệ giữa chủ xí nghiệp và công

nhân. Nhưng trên thực tế, công nhân là cổ đông nhỏ, không thể cùng với nhà

tư bản phân chia quyền lực, nên phân tán hoá quyền khống chế cổ phiếu

cũng không thể làm thay đổi địa vị làm thuê của người lao động.

Thứ hai, kết cấu giai cấp cũng đã có những biến đổi lớn, các giai cấp,

tầng lớp, đoàn thể xã hội và tập đoàn cùng tồn tại và tác động lẫn nhau. Nổi

bật nhất là sự xuất hiện của tầng lớp trung lưu (hay còn gọi là giai cấp trung

sản), chiếm khoảng 40 - 50% dân số. Trên thực tế, phần lớn trong số này có

cổ phiếu hoặc một phần vốn, rất nhiều trong số họ là trí thức hoặc nhân viên

chuyên ngành, có địa vị nghề nghiệp khá tốt, đã không còn là giai cấp vô sản

theo quan niệm truyền thống nữa.

Thứ ba, cùng với sự tăng trưởng của sản xuất và sự điều chỉnh về

quan hệ sản xuất, thu nhập bằng tiền lương của người lao động cũng có

được mức tăng trưởng khá lớn. Số liệu thống kê của Cục Điều tra dân số

Liên bang Mỹ cho thấy, từ năm 1986-1993, thu nhập thực tế của số công

nhân thuộc các doanh nghiệp tư nhân luôn có xu thế giảm; nhưng từ năm

1993 đến năm 1999 thì lại tăng lên 7,4%; năm 1999 tỷ lệ nghèo khó giảm đến

mức thấp nhất kể từ năm 1979.

Tất cả những điều này cho thấy, mâu thuẫn giai cấp trong xã hội tư bản

chủ nghĩa vẫn tồn tại nhưng nhờ những điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản về

quan hệ sản xuất, mà bắt nguồn từ quan hệ sở hữu, nên đã phần nào xoa dịu

được tính gay gắt của mâu thuẫn này. Những điều chỉnh đó nói lên rằng chủ

nghĩa tư bản muốn tồn tại và phát triển cũng phải lo giải quyết các vấn đề xã

hội, giải quyết mối quan hệ giữa tư bản và lao động, song song với sự phát

triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất và cuộc đấu tranh bền bỉ của giai

cấp công nhân.

Câu hỏi 126: Phân tích những thay đổi thể chế quản lý kinh doanh

trong nội bộ các doanh nghiệp dưới chủ nghĩa tư bản hiện đại?

Trả lời:

Trong điều kiện mới của cách mạng khoa học kỹ thuật và kinh tế tri

thức, thể chế quản lý kinh doanh trong nội bộ các doanh nghiệp đã thực hiện

các bước điều chỉnh và cải cách lớn.

Thứ nhất, doanh nghiệp cải cách cơ chế quản lý thiết lập cơ cấu tổ

chức hàng ngang và mạng lưới phương hướng cải cách là xoá bỏ hệ thống

kiểu kim tụ tháp truyền thống như tập trung quá lớn quyền lực, đa tầng thứ và

theo chiều dọc, thay thế bằng hệ thống kiểu mạng lưới phân quyền, ít tầng

thứ và theo chiều ngang; nhằm giảm bớt khâu trung gian, thông tin thuận lợi,

đơn giản trình tự quyết sách; phát huy đầy đủ tính chủ động và trách nhiệm

của toàn thể công nhân, nhằm nâng cao hiệu quả công tác.

Thứ hai, dùng công nghệ cao cải cách cơ chế quản lý sản xuất. Để

thích ứng với những thay đổi từ thể chế sản xuất theo "đơn đặt hàng", doanh

nghiệp thiết lập hệ thống sản xuất linh hoạt, hệ thống sản xuất bằng máy tính,

chế độ cung cấp thích hợp và cơ chế phát triển theo nhu cầu (tức khâu sản

xuất càng gần gũi với khách hàng hơn).

Thứ ba, thực hiện cải cách quản lý lao động, lấy con người làm gốc,

yêu cầu đối với công nhân chủ yếu không phải là điều kiện về thể lực mà là

phải có kỹ năng và tổ thức cao hơn, để họ phát huy tính chủ động và tính

sáng tạo, từ đó nâng cao năng suất lao động và tăng cường khả năng cạnh

tranh của doanh nghiệp.

Thứ tư, thay đổi hình thức tổ chức doanh nghiệp, xuất hiện xu thế hai

loại hình lớn hoá và nhỏ hoá cùng hỗ trợ nhau tồn tại. Các doanh nghiệp lớn

đã không ngừng mở rộng ưu thế về quy mô, tăng cường sức mạnh thị trường

rủa công ty. Đồng thời, các doanh nghiệp nhỏ linh hoạt hơn, có tinh thần sáng

tạo hơn cũng được phát triển mạnh mẽ, làm cho kinh tế tư bản chủ nghĩa có

sức sống và hiệu quả cao.

Câu hỏi 127: Phân tích chính sách điều tiết vĩ mô của nhà nước trong

chủ nghĩa tư bản hiện đại?

Trả lời:

Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, nền sản xuất có

sự phát triển vượt bậc, quy mô sản xuất không ngừng mở rộng, do đó trong

chủ nghĩa tư bản hiện đại các chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô của nhà nước

đang có những sự điều chỉnh:

- Thứ nhất, kịp thời điều chỉnh chiến lược tổng thể phát triển kinh tế,

nhằm nâng cao sức cạnh tranh tổng thể của quốc gia.

Ví dụ: trong 20 năm gần đây, Chính phủ Mỹ tập trung khai thác phát

triển ngành công nghệ cao mới như công nghệ tin học, lấy phát triển ngành

công nghệ cao mới để thực hiện phục hưng kinh tế Mỹ. Những năm 90 của

thế kỷ XX việc thiết lập thị trường chung châu Âu và sự ra đời của đồng tiền

chung châu Âu, bất kể đối với châu Âu hay đối với cả thế giới, đều có ý nghĩa

không thể xem nhẹ.

- Thứ hai, sự lựa chọn chính sách thực dụng. Những năm 90 của thế kỷ

XX, bất kể là Mỹ hay châu Âu đều đã áp dụng mô hình chính sách “con

đường thứ ba”, trên thực tế là sự dung hoà quan niệm giá trị truyền thống và

chủ trương chính trị của chủ nghĩa tự do với một số biện pháp của chủ nghĩa

bảo thủ mới, đóng vai trò tích cực trong việc xoa dịu những mâu thuẫn của

chủ nghĩa tư bản hiện nay.

- Thứ ba, căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế khác nhau của từng

thời kỳ, vận dụng linh hoạt chính sách tài chính và chính sách tiền tệ, kịp thời

điều chỉnh mâu thuẫn cung cầu trong xã hội và mâu thuẫn giữa các tầng lớp

xã hội khác nhau.

Câu hỏi 128: Phân tích vai trò của các công ty xuyên quốc gia trong

chủ nghĩa tư bản hiện đại?

Trả lời:

- Các công ty xuyên quốc gia (TNC) là các công ty tư bản độc quyền,

bành trướng thế lực ra nước ngoài dưới hình thức cài cắm nhánh. Hiện tại,

các TNC được nhà nước ở các nước tư bản chủ nghĩa nâng đỡ, thông qua

đầu tư trực tiếp ra nước ngoài trên quy mô lớn, các công ty xuyên quốc gia

mua và thôn tính các tài sản ở nước ngoài, không ngừng tăng cường thực

lực, mở rộng thị phần.

- Dựa vào thực lực hùng hậu của bản thân, các công ty xuyên quốc gia

đã trở thành lực lượng chủ yếu thúc đẩy toàn cầu hoá kinh tế và chủ nghĩa tư

bản độc quyền liên quốc gia phát triển.

Do có thực lực kinh tế, chính trị hùng mạnh, hệ thống sản xuất, tiêu thụ,

dịch vụ, nghiên cứu khoa học, thông tin toàn cầu hoá, các TNC đã có tác

động lớn đến các mặt của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và thế

lực của họ đã thâm nhập các lĩnh vực trên toàn thế giới. Thể hiện ở những

điểm sau đây:

+ Các công ty xuyên quốc gia đã thúc đẩy toàn cầu hoá sản xuất và

nguồn vốn, thúc đẩy mạnh mẽ phân công lao động quốc tế sâu sắc hơn, dựa

vào nhau trong đời sống kinh tế, thúc đẩy buôn bán quốc tế phát triển nhanh.

+ Truyền bá khoa học kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý trên phạm vi

toàn cầu, tạo không gian rộng lớn để phát triển lực lượng sản xuất và điểu

chỉnh quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trên quy mô quốc tế.

+ Chiếm đoạt thị trường toàn cầu, xuất khẩu vốn và hàng hoá trên quy

mô lớn, thu về nhiều ngoại tệ, phát triển thực lực trong nước, tăng cường

kiểm soát của tư bản độc quyền trên phạm vi toàn cầu. Nhưng mặt khác,

trong quá trình xuất khẩu vốn và kỹ thuật ra thị trường thế giới cũng có khả

năng làm cho kinh tế trong nước "trống rỗng", khiến nạn thất nghiệp thêm

trầm trọng, cũng có khả năng bùng nổ mâu thuẫn và xung đột với các nước

sở tại.

+ Tạo cơ hội và cả những thách thức to lớn cho các nước đang phát

triển. Tuy nhiên, để độc lập tự chủ trong phát triển kinh tế dân tộc, trong khi

lợi dụng những cơ hội mà các TNC đưa đến, các nước đang phát triển cũng

cần có biện pháp đối phó với những thách thức đang gặp phải; giảm bớt tình

trạng dựa dẫm vào các TNC; đề phòng các công ty đó thâm nhập về chính trị

và kiểm soát về kinh tế, bảo vệ nền độc lập chính trị và lợi ích căn bản của

nhà nước dân tộc.

+ Ảnh hưởng lớn tới lĩnh vực tài chính, tiền tệ. Các TNC thao túng

nguồn vốn tín dụng quốc tế khổng lồ, hình thành thị trường tiền tệ lớn, trở

thành các nhà kinh doanh ngoại tệ lớn nhất và là lực lượng chủ yếu thúc đẩy

lưu thông vốn trên toàn thế giới, ảnh hưởng trực tiếp đến việc ổn định thị

trường tiền tệ và cân bằng cán cân thanh toán quốc tế.

Câu hỏi 129: Phân tích vai trò của chủ nghĩa tư bản đối với sự phát

triển của nền sản xuất xã hội?

Trả lời:

Chủ nghĩa tư bản phát triển qua hai giai đoạn: chủ nghĩa tư bản cạnh

tranh tự do và chủ nghĩa tư bản độc quyền, mà nấc thang tột cùng của nó là

chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.

Trong suốt quá trình phát triển, nếu chưa xét đến hậu quả nghiêm trọng

đã gây ra đối với loài người thì chủ nghĩa tư bản cũng có những đóng góp

tích cực đối với phát triển sản xuất. Đó là:

- Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản đã giải phóng con người khỏi "đêm

trường trung cổ" của xã hội phong kiến đoạn tuyệt với nền kinh tế tự nhiên, tự

túc, tự cấp chuyển sang phát triển kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa chuyên

sản xuất nhỏ thành sản xuất lớn hiện đại. Dưới tác động của quy luật giá trị

thặng dư và các quy luật kinh tế của sản xuất hàng hoá, chủ nghĩa tư bản đã

làm tăng năng suất lao động, tạo ra khối lượng của cải vật chất khổng lồ.

- Phát triển lực lượng sản xuất.

Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản đã làm cho lực lượng sản

xuất phát triển mạnh mẽ với trình độ kỹ thuật và công nghệ ngày càng cao: từ

kỹ thuật thủ công lên kỹ thuật cơ khí (thời kỳ của C.Mác và V.I.Lênin) và ngày

nay các nước tư bản chủ nghĩa cũng đang là những quốc gia đi đầu trong

việc chuyển nền sản xuất của nhân loại từ giai đoạn cơ khí hóa sang giai

đoạn tự động hoá, tin học hoá và công nghệ hiện đại. Cùng với sự phát triển

của kỹ thuật và công nghệ là quá trình giải phóng sức lao dộng, nâng cao

hiệu quả khám phá và chinh phục thiên nhiên của con người, đưa nền kinh tế

của nhân loại bước vào một thời đại mới: thời đại của kinh tế tri thức.

- Thực hiện xã hội hoá sản xuất.

Chủ nghĩa tư bản đã thúc đẩy nền sản xuất hàng hoá phát triển mạnh

và đạt tới mức điển hình nhất trong lịch sử, cùng với nó là quá trình xã hội

hoá sản xuất cả chiều rộng và chiều sâu. Đó là sự phát triển của phân công

lao động xã hội, sản xuất tập trung với quy mô hợp lý, chuyên môn hoá sản

xuất và hợp tác lao động sâu sắc mối liên hệ kinh tế giữa các đơn vị, các

ngành, các lĩnh vực ngày càng chặt chẽ... làm cho các quá trình sản xuất

phân tán được liên kết với nhau và phụ thuộc lẫn nhau thành một hệ thống,

thành một quá trình sản xuất xã hội.

- Chủ nghĩa tư bản thông qua cuộc cách mạng công nghiệp đã lần đầu

tiên biết tổ chức lao động theo kiểu công xưởng, do đó đã xây dựng được tác

phong công nghiệp cho người lao động, làm thay đổi nền nếp thói quen của

người lao động sản xuất nhỏ trong xã hội phong kiến.

- Chủ nghĩa tư bản lần đầu tiên trong lịch sử đã thiết lập nên nền dân

chủ tư sản. Nền dân chủ này tuy chưa phải là hoàn hảo song so với thể chế

chính trị trong các xã hội phong kiến, nô lệ, vẫn tiến bộ hơn rất nhiều bởi vì nó

được xây dựng trên cơ sở thừa nhận quyền tự do thân thể của cá nhân.

Tóm lại, chủ nghĩa tư bản ngày nay - với những thành tựu và đóng góp

của nó đối với sự phát triển của nền sản xuất xã hội, là sự chuẩn bị tốt nhất

những điều kiện, tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn

thế giới. Nhưng bước chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội vẫn

phải thông qua các cuộc cách mạng xã hội. Dĩ nhiên, cuộc cách mạng xã hội

sẽ diễn ra bằng phương pháp nào - hoà bình hay bạo lực, điều đó hoàn toàn

tuỳ thuộc vào những hoàn cảnh lịch sử - cụ thể của từng nước và bối cảnh

quốc tế chung từng thời điểm, vào sự lựa chọn của các lực lượng cách mạng.

Câu hỏi 130: Phân tích những hạn chế của chủ nghĩa tư bản?

Trả lời:

Bên cạnh có những đóng góp tích cực, chủ nghĩa tư bản cũng có

những hạn chế về mặt lịch sử. Những hạn chế này được C.Mác và V.I.Lênin

đề cập ngay từ trong lịch sử ra đời, tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản.

- Trước hết, về lịch sử ra đời của chủ nghĩa tư bản: như C.Mác đã phân

tích, chủ nghĩa tư bản ra đời gắn liền với quá trình tích luỹ nguyên thuỷ của

chủ nghĩa tư bản.

Thực chất, đó là quá trình tích luỹ tiền tệ nhờ vào những biện pháp ăn

cướp, tước đoạt đối với những người sản xuất hàng hóa nhỏ và nông dân tự

do; nhờ vào hoạt động buôn bán, trao đổi không ngang giá qua đó mà thực

hiện sự bóc lột, nô dịch đối với những nước lạc hậu. Về quá trình tích luỹ

nguyên thuỷ của chủ nghĩa tư bản, C.Mác cho rằng, đó là lịch sử đầy máu và

bùn nhơ, không giống như một câu chuyện tình ca, nó được sử sách ghi chép

lại bằng những trang đẫm máu và lửa không bao giờ phai.

- Cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản là quan hệ

bóc lột của các nhà tư bản đối với công nhân làm thuê. Mặc dù so với các

hình thức bóc lột đã từng tồn tại trong lịch sử, bóc lột tư bản chủ nghĩa cũng

đã là một sự tiến bộ, song theo sự phân tích của C.Mác và V.I.Lênin thì

chừng nào chủ nghĩa tư bản còn tồn tại thì chừng đó quan hệ bóc lột còn tồn

tại và sự bất bình đẳng, phân hoá xã hội vẫn là điều không tránh khỏi.

- Các cuộc chiến tranh thế giới với mục đích tranh giành thị trường,

thuộc địa và khu vực ảnh hưởng đã để lại cho loài người những hậu quả

nặng nề: hàng triệu người vô tội đã bị giết hại, sức sản xuất của xã hội bị phá

hủy, tốc độ phát triển kinh tế của thế giới bị kéo lùi lại hàng chục năm.

- Chủ nghĩa tư bản sẽ phải chịu trách nhiệm chính trong việc tạo ra hố

ngăn cách giữa các nước giàu và các nước nghèo trên thế giới (thế kỷ XVIII

chênh lệch về mức sống giữa nước giàu nhất và nước nghèo nhất mới chỉ là

2,5 lần, hiện nay số chênh lệch ấy là 250 lần).

Trong những năm 80 của thế kỷ XX, thế giới thứ ba bị trì trệ, suy thoái.

Điều này cũng đã được Ngân hàng Thế giới khẳng định: ở châu Phi, khu vực

Mỹ La tinh... hàng trăm triệu người đã nhận thấy, đi cùng với tăng trưởng là

sự suy tàn về kinh tế, phát triển nhường chỗ cho suy thoái, ở một vài nước

Mỹ Latinh, GNP theo đầu người hiện nay thấp hơn so với 10 năm trước đây.

Ở nhiều nưóc châu Phi, nó còn thấp hơn cách đây 20 năm, một thế giới mà

trong đó từ 20 năm nay ở châu Phi, từ 9 năm nay ở Mỹ Latinh mức sống

không ngừng giảm. Trong khi đó mức sống trong các vùng khác tiếp tục tăng

lên đó là điều hoàn toàn không thể chấp nhận được.

Các cường quốc tư bản độc quyền hàng mấy thế kỷ nay đã tăng cường

vơ vét tài nguyên, bóc lột nhân công các nước nghèo và tìm cách khống chế

họ trong vòng phụ thuộc thông qua các con đường xuất khẩu tư bản, viện trợ,

cho vay... Kết quả là các nước nghèo không những bị cạn kiệt về tài nguyên

mà còn mắc nợ không trả được, điển hình là các quốc gia ở châu Phi, khu

vực Mỹ Latinh. Ở Braxin người ta tính ra riêng số lãi mà Braxin phải trả trong

năm 1988 bằng 288 triệu xuất lương tối thiểu hay bằng xây nhà cho 30 triệu

người, trong khi đó ước tính khoảng 2/3 người dân Braxin thiếu ăn.

Câu hỏi 131: Phân tích xu hướng vận động của chủ nghĩa tư bản?

Trả lời:

Những thành tựu và hạn chế trên đây của chủ nghĩa tư bản bắt nguồn

từ mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tũ bản: mâu thuẫn giữa trình độ xã hội

hoá cao của lực lượng sản xuất với quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ

nghĩa về tư liệu sản xuất.

Chủ nghĩa tư bản càng phát triển, trình độ xã hội hóa của lực lượng sản

xuất ngày càng cao thì quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu

sản xuất ngày càng trở nên chật hẹp so với nội dung vật chất ngày càng lớn

lên của nó. Theo sự phân tích của C.Mác và V.I.Lênin, đến một chừng mực

nhất định, quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa sẽ bị phá vỡ và thay vào

đó là một quan hệ sở hữu mới – sở hữu xã hội (sở hữu công cộng) về tư liệu

sản xuất được xác lập để đáp ứng yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất.

Điều đó cũng có nghĩa là phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sẽ bị thủ

tiêu và một phương thức sản xuất mới - phương thức sản xuất cộng sản chủ

nghĩa sẽ ra đời và phủ định phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Tuy nhiên, những thay đổi của chủ nghĩa tư bản hiện nay nói lên rằng,

chủ nghĩa tư bản vẫn đang tiếp tục điều chỉnh để thích ứng trước những biến

động, mâu thuẫn bên trong và ngoài nước. Những điều chỉnh mới của chủ

nghĩa tư bản ở trên đã cho chúng ta thấy, chủ nghĩa tư bản trước mắt vẫn

tiếp tục tồn tại và phát triển, mặc dù sự phát triển này không phải là vĩnh hằng

và không phải là vô hạn. Do vậy, đồng thời với việc vững tin rằng chủ nghĩa

xã hội và chủ nghĩa cộng sản cuối cùng sẽ thay thế chủ nghĩa tư bản, cũng

cần phải nhận thức đầy đủ về tính lâu dài của quá trình này. Cần chuẩn bị kỹ

càng cho khả năng cùng chung sống, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh với

chủ nghĩa tư bản, đồng thời tham khảo kinh nghiệm của chủ nghĩa tư bản để

xây dựng thành công nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở

Việt Nam.

Mặt khác cũng phải nhận thức rằng, chủ nghĩa tư bản trong quá trình

phát triển của nó vẫn luôn luôn hàm chứa một nhân tố: tự hạn chế và tự phủ

định do chính mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa

sinh ra. Mặc dù chủ nghĩa tư bản ngày nay đã có điều chỉnh nhất định trong

quan hệ sở hữu, quản lý và phân phối và ở một chừng mực nhất định, sự

điều chỉnh đó cũng đã phần nào làm giảm bớt tính gay gắt của mâu thuẫn

này. Song tất cả những điều chỉnh ấy vẫn chưa vượt ra khỏi khuôn khổ của

quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, mâu thuẫn vẫn không bị thủ tiêu,

đối kháng về lợi ích trong quá trình sản xuất vẫn còn đó, mâu thuẫn giai cấp

vẫn tồn tại... Bên cạnh mâu thuẫn cơ bản vốn chưa giải quyết được lại xuất

hiện thêm nhiều mâu thuẫn mới phát sinh, đẩy chủ nghĩa tư bản vào những

khó khăn mới về kinh tế, chính trị, xã hội dưới nhiều hình thức khác nhau, đặc

biệt là trong những năm cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI. Đó là mâu thuẫn

giữa năng lực sản xuất vô hạn với tiêu dùng và khả năng thanh toán hạn chế;

mâu thuẫn giữa khả năng sản xuất vô hạn với nguồn tài nguyên hạn chế; mâu

thuẫn giữa nhu cầu nhất thể hoá kinh tế quốc tế và lợi ích quốc gia; mâu

thuẫn giữa các nước chủ nghĩa tư bản trung tâm với các nước ngoại vi.

Những mâu thuẫn này diễn ra đồng thời, vẫn là những thách thức và đe dọa

sự tồn vong của chủ nghĩa tư bản.

Tuy nhiên, như C.Mác và V.I.Lênin đã nhận định: phương thức sản

xuất tư bản chủ nghĩa không tự tiêu vong và phương thức sản xuất cộng sản

chủ nghĩa cũng không tự phát hình thành mà phải được thực hiện thông qua

cuộc cách mạng xã hội, trong đó giai cấp có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cuộc

cách mạng xã hội này chính là giai cấp công nhân.

Phần 3. LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Câu hỏi 132: Giai cấp công nhân là giai cấp nào trong lịch sử?

Trả lời:

- Trong phạm vi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa (đặc biệt là ở

thế kỷ XIX) giai cấp công nhân là giai cấp có hai đặc trưng cơ bản sau đây:

Thứ nhất, giai cấp công nhân là giai cấp đại biểu cho sự phát triển lực

lượng sản xuất của xã hội công nghiệp, là con đẻ của nền đại công nghiệp tư

bản chủ nghĩa.

Giai cấp công nhân là những tập đoàn người lao động trực tiếp hay

gián tiếp vận hành những công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày

càng hiện đại, ngày càng có trình độ xã hội hoá cao; nó là con đẻ của nền đại

công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Đặc trưng này cho thấy có sự phân biệt giữa

người công nhân hiện đại với người thợ thủ công thời trung cổ cũng như với

những người thợ trong công trường thủ công, mặc dù những người thợ thủ

công đó là tiền thân của giai cấp công nhân.

Đặc trưng này khiến cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp tiên tiến,

đại biểu cho sự phát triển của sức sản xuất trong xã hội công nghiệp.

Thứ hai, giai cấp công nhân là giai cấp lao động làm thuê cho các nhà

tư bản.

Trong hệ thống quan hệ sản xuất của xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp

công nhân là giai cấp không có tư liệu sản xuất, để sinh tồn họ chỉ có một

cách duy nhất là bán sức lao động cho giai cấp các nhà tư bản. Theo nghĩa

này, họ là những người vô sản (tức là giai cấp những người lao động làm

thuê cho các nhà tư bản hay giai cấp vô sản - giai cấp gồm những người lao

động không sở hữu tư liệu sản xuất của xã hội).

Đặc điểm này khiến cho giai cấp công nhân, một mặt phải phụ thuộc

vào giai cấp tư sản, mặt khác lại trở thành mặt đối kháng với giai cấp tư sản.

- Giai cấp công nhân hiện nay

Vào cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, sự phát triển của giai cấp công

nhân đã có những biến đổi nhất định so với giai cấp công nhân ở thế kỷ XIX.

Chủ yếu là những biến đổi trên 3 phương diện sau đây:

+ Xét trên phạm vi quốc tế, trong đội ngũ giai cấp công nhân không chỉ

có lực lượng giai cấp công nhân làm thuê mà còn có cả lực lượng giai cấp

công nhân đã trở thành ngưòi chủ nắm giữ tư liệu sản xuất chủ yếu của xã

hội nhờ thắng lợi của các cuộc cách mạng dưới sự lãnh đạo của các chính

đảng của nó và đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.

+ Trình độ kiến thức nghề nghiệp, nhận thức xã hội của giai cấp công

nhân ngày càng phát triển cao hơn. Đặc biệt, trong giai cấp công nhân đã

xuất hiện lực lượng lao động ở trình độ công nghiệp phát triển, những ngành

ứng dụng công nghệ cao. “Công nhân áo trắng”, “cổ cồn”... ngày càng tăng

trong các nước tư bản phát triển.

+ Đời sống vật chất và tinh thần của những người công nhân làm thuê

đã được nâng cao hơn nhiều so với những người công nhân ở thế kỷ XIX và

đầu thế kỷ XX. Đặc biệt, một phận nhỏ trong giai cấp công nhân ít nhiều đã

nắm được một phần quyền sở hữu tư liệu sản xuất do sự phát triển của

phương thức tổ chức kinh tế thị trường hiện đại.

Câu hỏi 133: Giai cấp công nhân là giai cấp có sứ mệnh lịch sử nào?

Tại sao?

Trả lời:

- Giai cấp công nhân là giai cấp có sứ mệnh lịch sử

+ Tự mình thực hiện và lãnh đạo nhân dân lao động thực hiện một cuộc

cách mạng xã hội để tự giải phóng mình và giải phóng toàn thể nhân dân lao

động khỏi mọi chế độ áp bức, bóc lột;

+ Đồng thời, xây dựng chế độ xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và

cộng sản chủ nghĩa.

- Vì sao giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử đó?

Theo quan điểm duy vật lịch sử, sứ mệnh lịch sử của một giai cấp

không phải do ý muốn chủ quan quy định mà trái lại, được quy định bởi

những điều kiện khách quan của lịch sử; đồng thời cũng chính điều kiện lịch

sử khách quan đó là cơ sở khách quan tạo cho giai cấp đó có được những

đặc điểm chính trị - xã hội mang tính cách mạng có thể thực hiện được sứ

mệnh lịch sử ấy.

Chứng minh:

Thứ nhất, theo lý luận hình thái kinh tế - xã hội, nhân tố quyết định sự

phát triển của xã hội là sự phát triển của lực lượng sản xuất; trong đó, người

lao động là lực lượng sản xuất hàng đầu. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa hay

trong bất cứ một xã hội nào dựa trên sự phát triển của nền đại công nghiệp

thì lực lượng sản xuất hàng đầu của nó vẫn là người công nhân. Chính người

công nhân là đại biểu cho sự phát triển của lực lượng sản xuất tiên tiến nhất

của thời đại ngày nay; không có một giai cấp nào có thể thay thế địa vị đó.

Chú ý: ở đây là nói người công nhân với tư cách là sản phẩm của nền

sản xuất đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa; nó đại biểu

cho sự phát triển của lực lượng sản xuất tiên tiến của xã hội hiện thời và xã

hội tương lai.

Thứ hai, trong các giai cấp, tầng lớp xã hội đối lập (mâu thuẫn) giai cấp

tư sản thì chỉ có giai cấp công nhân là giai cấp ở vào địa vị mâu thuẫn trực

tiếp nhất và có tính đối kháng. Điều này khiến cho giai cấp công nhân trở

thành giai cấp có tính cách mạng triệt để nhất trong cuộc đấu tranh chống lại

ách thống trị, áp bức và bóc lột của giai cấp tư sản. Trong cuộc đấu tranh để

tự giải phóng mình và giải phóng toàn thể nhân dân lao động khỏi ách thống

trị, áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản, giai cấp công nhân (với tư cách là giai

cấp vô sản) không mất gì cả, ngoại trừ mất xiềng xích, còn nếu được thì được

cả thế giới.

Thứ ba, xuất phát từ đặc điểm của nền sản xuất công nghiệp, nhất là

nền công nghiệp hiện đại, khiến cho giai cấp công nhân có được tính tổ chức

cao với kỷ luật chặt chẽ. Đồng thời, với sự phát triển mở rộng, có tính xã hội

hoá cao của nền sản xuất công nghiệp khiến cho giai cấp công nhân có được

mối quan hệ liên minh mang tính quốc tế của nó từ cơ sở của nền công

nghiệp phát triển và nền kinh tế thị trường mở rộng có xu hướng quốc tế hoá.

Mặt khác, đội ngũ của nó cũng không ngừng lớn mạnh nhờ quá trình phát

triển của công nghiệp hoá ngày càng mở rộng trong phạm vi một quốc gia

cũng như ở nhiều quốc gia khác nhau.

Thứ tư, giai cấp công nhân là giai cấp thuộc những người lao động,

điều đó là cơ sở khách quan cho sự liên minh vững chắc và lâu dài giữa giai

cấp công nhân với các giai cấp và tầng lớp lao động khác trong toàn xã hội,

tạo thành lực lượng cách mạng của công cuộc cách mạng xoá bỏ xã hội cũ,

xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa.

Thứ năm, giai cấp công nhân là giai cấp có được hệ tư tưởng khoa học

của nó - đó là chủ nghĩa Mác - Lênin.

Câu hỏi 134: Sự ra đời và lãnh đạo của Đảng Cộng sản giữ vai trò gì

trong tiến trình giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình? Tại

sao?

Trả lời:

- Giữ vai trò gì?

Sự ra đời và lãnh đạo của Đảng Cộng sản là một tất yếu khách quan và

là điều kiện tiên quyết bảo đảm giai cấp công nhân có thể thực hiện được sứ

mệnh lịch sử của mình.

- Tại sao?

+ Lý luận chung:

Theo quan điểm duy vật lịch sử, quần chúng nhân dân giữ vai trò sáng

tạo lịch sử, quyết định tiến trình lịch sử xã hội nhưng vai trò đó không thể thực

hiện được nếu như nó không được tổ chức lại thành lực lượng chính trị có tổ

chức vững chắc - một tổ chức có sự lãnh đạo đúng đắn theo lý luận khoa học

dẫn đường với đội ngũ lãnh tụ có tài năng và lập trường kiên định của nó. Đối

với sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân cũng không là ngoại lệ.

+ Cụ thể:

Sự ra đời của Đảng Cộng sản không phải là ngẫu nhiên, bên ngoài

phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân; trái lại, nó là một tất yếu xuất

phát từ nhu cầu khách quan của sự phát triển về quy mô và chất lượng từ tự

phát đến tự giác của chính phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và

nhân dân lao động. Nhưng chỉ có nhu cầu đó vẫn chưa thể dẫn tới sự ra đời

của Đảng Cộng sản mà chỉ khi có sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin và

sự phát triển của phong trào công nhân đến độ chín muồi thì mới có thể dẫn

đến sự ra đời của Đảng Cộng sản. Chỉ từ khi có sự ra đời và lãnh đạo của

Đảng thì phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân mới có thể vượt qua

tính tự phát và đạt tới trình độ tự giác; mới có thể làm cho phong trào công

nhân đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác trên tiến trình thực hiện sứ mệnh

lịch sử của mình. Vai trò đó thể hiện ở 3 điểm chính sau đây:

Thứ nhất, trên cơ sở vận dụng những nguyên lý khoa học của chủ

nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện lịch sử, cụ thể của mỗi quốc gia, mỗi thời kỳ

lịch sử,... Đảng Cộng sản - với tư cách là tổ chức chính trị cao nhất của

phong trào công nhân - xây dựng nên đường lối chiến lược, sách lược để

lãnh đạo phong trào công nhân.

Thứ hai, trong quá trình lãnh đạo thực tiễn cách mạng, Đảng cũng

chính là tổ chức chính trị cao nhất làm công việc tổ chức nghiên cứu, tổng kết

kinh nghiệm thực tiễn, bổ sung, hoàn thiện lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin;

tức là hoàn thiện, phát triển lý luận khoa học của giai cấp công nhân và nhân

dân lao động để lý luận đó tiếp tục và mãi mãi là thế giới quan, phương pháp

luận khoa học của phong trào cách mạng.

Thứ ba, với tư cách là đội ngũ tiên phong của giai cấp công nhân và

nhân dân lao động, Đảng giáo dục, giác ngộ quần chúng nhân dân; tập hợp,

tổ chức, lãnh đạo quần chúng nhân dân, từ đó tạo nên sức mạnh sáng tạo

lịch sử của quần chúng nhân dân.

Câu hỏi 135: Giữa Đảng Cộng sản và giai cấp công nhân có mối quan

hệ cơ bản nào?

Trả lời:

Giữa Đảng Cộng sản và giai cấp công nhân, cũng như với nhân dân

lao động luôn luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ. Mối quan hệ đó được

phân tích ở hai điểm chính sau đây:

Thứ nhất, Đảng Cộng sản là tổ chức chính trị cao nhất; đại biểu cho lợi

ích và trí tuệ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đảng lãnh đạo

giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

Thứ hai, giai cấp công nhân và nhân dân lao động là cơ sở giai cấp, cơ

sở xã hội của Đảng Cộng sản; là nguồn bổ sung lực lượng phong phú cho

Đảng; là sức sống và sức mạnh của Đảng.

Vì vậy, một Đảng chân chính luôn có mối liên hệ mật thiết với cơ sở giai

cấp và cơ sở xã hội của nó thì Đảng lãnh đạo cũng chính là giai cấp lãnh đạo;

sự nghiệp của Đảng cũng chính là sự nghiệp của giai cấp công nhân và nhân

dân lao động; lợi ích và trí tuệ của Đảng cũng chính là lợi ích và trí tuệ của

giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

Câu hỏi 136: Cách mạng xã hội chủ nghĩa là gì? Hãy phân tích nguyên

nhân khách quan của nó?

Trả lời:

- Khái niệm cách mạng xã hội chủ nghĩa

+ Theo nghĩa hẹp, cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng

chính trị, được kết thúc bằng việc giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao

động giành được chính quyền, thiết lập được nhà nước chuyên chính vô sản

- nhà nước của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động.

+ Theo nghĩa rộng, cách mạng xã hội chủ nghĩa bao gồm cả hai thời kỳ:

cách mạng về chính trị với nội dung chính là thiết lập nhà nước chuyên chính

vô sản và tiếp theo là thời kỳ giai cấp công nhân và nhân dân lao động sử

dụng nhà nước của mình để cải tạo xã hội cũ về mọi mặt kinh tế, chính trị,

văn hoá, tư tưởng, v.v., xây dựng xã hội mới về mọi mặt nhằm thực hiện

thắng lợi chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

- Nguyên nhân khách quan của cách mạng xã hội chủ nghĩa

+ Phương pháp luận chung để phân tích:

Nguyên nhân sâu xa của mọi cuộc cách mạng trong xã hội là do mâu

thuẫn giữa nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất với sự kìm hãm của

quan hệ sản xuất đã trở nên lỗi thời. Theo quy luật chung của sự phát triển

trong xã hội, lực lượng sản xuất không ngừng phát triển tới khi mâu thuẫn với

quan hệ sản xuất đã lỗi thời, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất,

đòi hỏi tiến hành một cuộc cách mạng xã hội để xoá bỏ quan hệ sản xuất đã

lỗi thời, thay thế bằng quan hệ sản xuất mới mở đường cho lực lượng sản

xuất phát triển, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: từ chỗ là những hình thức

phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng

xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng

xã hội.

+ Vận dụng lý luận chung để phân tích nguyên nhân khách quan của

cách mạng xã hội chủ nghĩa:

Thứ nhất, nguyên nhân sâu xa dẫn tới cuộc cách mạng xã hội chủ

nghĩa là từ mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển xã hội hoá của lực lượng sản

xuất ngày càng cao với lính chất chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Mâu

thuẫn này chỉ có thể giải quyết được thông qua cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Thứ hai, trên lĩnh vực chính trị, mâu thuẫn trong phương thức sản xuất

(nói trên) biểu hiện thành mâu thuẫn đối kháng giai cấp giữa giai cấp công

nhân làm thuê (đại biểu cho sự phát triển lực lượng sản xuất) với giai cấp tư

sản (đại biểu cho tính chất chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất).

Thứ ba, với sự bành trướng của chủ nghĩa tư bản dưới hình thức chủ

nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc đã biến các dân tộc còn ở trình độ chậm

phát triển kinh tế trở thành thuộc địa, phụ thuộc của các nước tư bản. Chính

điều đó đã tạo nên một biểu hiện của mâu thuẫn nữa dẫn tới cách mạng xã

hội chủ nghĩa đó là mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc với

chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc.

Như vậy, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa có nguyên nhân sâu xa của

nó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất có tính xã hội hóa cao với tính chất

tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất dưới chủ nghĩa tư bản, cho nên

chừng nào quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa vẫn được duy trì thì nguyên

nhân khách quan, sâu xa của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa vẫn còn tồn

tại và do đó cách mạng xã hội chủ nghĩa vẫn là một tất yếu khách quan của

tiến trình phát triển lịch sử nhân loại.

Tuy nhiên, cách mạng xã hội chủ nghĩa có nổ ra hay không, khi nào và

ở đâu thì còn phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác như: sự phát triển của cuộc

đấu tranh giai cấp, sự phát triển của phong trào giải phóng dân tộc, ý thức

giác ngộ cách mạng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động,...

Câu hỏi 137: Cách mạng xả hội chủ nghĩa có mục tiêu, động lực và

các nội dung cơ bản nào?

Trả lời:

- Mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa

Mục tiêu cao nhất của cách mạng xã hội chủ nghĩa là thực hiện thành

công chủ nghĩa cộng sản: biến con người từ vương quốc của tất yếu sang

vương quốc của tự do; tạo ra một thể liên hiệp trong đó sự phát triển tự do

của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người.

Mục tiêu cao cả nhất đó được thực hiện dần từng bước, trải qua hai

giai đoạn cơ bản với mục tiêu cụ thể của nó là: Giai đoạn thứ nhất - chiếm

lĩnh quyền lực nhà nước. Giai cấp công nhân phải đoàn kết và lãnh đạo các

giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động khác thực hiện một cuộc cách mạng lật

đổ chính quyền nhà nước của giai cấp áp bức, bóc lột; xác lập chính quyền

mới - chính quyền cách mạng của nhân dân lao động.

Giai đoạn thứ hai - tổ chức xây dưng xã hội mới. Giai cấp công nhân

phải tập hợp các tầng lớp nhân dân lao động thành lực lượng sáng tạo lịch

sử, xây dựng thành công xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa; trên cơ sở đó

mới có thể dần từng bước tiến tới giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội

cộng sản chủ nghĩa, tức là thực hiện được mục tiêu cao nhất của nó.

- Động lực của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa

+ Khái quát chung về động lực cách mạng xã hội chủ nghĩa:

Cách mạng xã hội chủ nghĩa với mục đích giải phóng giai cấp công

nhân, nhân dân lao động ra khỏi tình trạng bị áp bức bóc lột, đưa lại cuộc

sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân lao động, do vậy thu hút được sự tham

gia của quần chúng nhân dân lao động trong suốt quá trình cách mạng.

+ Phân tích cụ thể các lực lượng tạo thành động lực cách mạng xã hội

chủ nghĩa:

Thứ nhất, lực lượng giai cấp công nhân.

Giai cấp công nhân là lực lượng quan trọng nhất tạo thành động lực

cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giai cấp này là giai cấp vừa ở vị trí lãnh đạo,

vừa là lực lượng cơ bản tạo thành động lực chủ yếu của cách mạng xã hội

chủ nghĩa.

Giai cấp công nhân là sản phẩm của nền sản xuất đại công nghiệp, do

vậy ngày càng tăng lên về số lượng, nâng cao về chất trong xã hội hiện đại.

Giai cấp công nhân là lực lượng lao động chủ yếu tạo nên sự giàu có trong xã

hội hiện đại, là lực lượng xã hội đi đầu trong cuộc đấu tranh xoá bỏ chế độ tư

bản chủ nghĩa và trong công cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì

vậy có thể khẳng định, giai cấp công nhân là lực lượng hàng đầu bảo đảm

cho sự thắng lợi của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Thực tế lịch sử trên

thế giới đã chứng minh, khi nào và ở đâu phong trào công nhân vững mạnh,

sự lãnh đạo chính đảng của giai cấp công nhân sáng suốt thì cách mạng xã

hội chủ nghĩa giành được thắng lợi, những lực lượng phản động quốc tế bị

đẩy lùi. Ở đâu và khi nào phong trào công nhân bị suy yếu, sự lãnh đạo của

giai cấp công nhân giảm sút, thiếu sự thống nhất thì cách mạng xã hội chủ

nghĩa sẽ gặp khó khăn.

Thứ hai, lực lượng giai cấp nông dân.

Đối với những quốc gia, dân tộc mà lực lượng nông dân còn là lực

lượng đông đảo trong xã hội thì đây chính là một lực lượng hết sức quan

trọng của sự hình thành khối “liên minh công - nông” - lực lượng giữ vai trò

nòng cốt của khối lực lượng cách mạng tạo nên động lực to lớn của cách

mạng xã hội chủ nghĩa. Nếu thiếu sự liên minh này thì có thể nói bài đơn ca

của giai cấp vô sản sẽ bị biến thành một bài ai điếu.

Giai cấp nông dân có nhiều lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của giai

cấp công nhân, giai cấp này trở thành động lực to lớn trong cách mạng xã hội

chủ nghĩa. Trong cuộc đấu tranh giành chính quyền, giai cấp công nhân chỉ

giành được thắng lợi khi lôi kéo được giai cấp nông dân đi theo mình.

Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng vậy, giai cấp công

nhân chỉ có thể hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình, khi đại đa số giai

cấp nông dân đi theo giai cấp công nhân. Đứng về phương diện kinh tế, giai

cấp nông dân là một lực lượng lao động quan trọng trong xã hội. Đứng về

phương diện chính trị - xã hội, giai cấp nông dân là một lực lượng cơ bản

tham gia bảo vệ chính quyền nhà nưóc xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, “nguyên tắc

cao nhất của chuyên chính vô sản là duy trì khối liên minh giữa giai cấp vô

sản và nông dân. Trên cơ sở khối liên minh công - nông vững chắc mới có

thể tạo ra được sức mạnh của khối đoàn kết rộng rãi các lực lượng tiến bộ

trong các tầng lớp nhân dân lao động khác trong cuộc cách mạng xã hội chủ

nghĩa.

Thứ ba, các lực lượng khác.

Tạo thành động lực cách mạng xã hội chủ nghĩa còn là nhiều tầng lớp

nhân dân lao động khác, trong đó đội ngũ tầng lớp trí thức có một vị trí hết

sức quan trọng, đặc biệt do nhu cầu phát triển của xã hội công nghiệp hiện

đại - sự phát triển của kinh tế thị trường, chẳng những đội ngũ công nhân làm

thuê có trình độ đào tạo, đào tạo ở trình độ cao ngày càng tăng lên mà bản

thân đội ngũ lao động trí thức cũng phát triển hết sức nhanh chóng. Vai trò đội

ngũ này ngày càng tăng trong xã hội và giữ vai trò sức quan trọng trong tiến

trình phát triển của xã hội hiện đại. Vấn đề là ở chỗ đội ngũ này phục vụ lợi

ích của giai cấp nào.

- Nội dung của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa

Mọi cuộc cách mạng xã hội đều diễn ra trên một phạm vi hết sức rộng

lớn và toàn diện của đời sống xã hội. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là

cuộc cách mạng triệt để nhất trong lịch sử, do vậy, nó phải được tiến hành cải

tạo xã hội một cách căn bản trên mọi lĩnh vực xã hội; trong đó vừa cải tạo cái

cũ vừa xây dựng cái mới mà xây dựng cái mới là căn bản.

+ Trên lĩnh vực chính trị:

* Nội dung trước tiên của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa phải thực

hiện là đập tan nhà nước của giai cấp bóc lột, giành chính quyền về tay giai

cấp công nhân, nhân dân lao động, đưa những ngươi lao động từ địa vị nô lệ

làm thuê lên địa vị làm chủ xã hội. Bước tiếp theo là cần phải tạo điều kiện

làm sâu rộng thêm nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, mà thực chất của quá trình

đó là ngày càng thu hút đông đảo quần chúng nhân dân lao động tham gia

vào quản lý xã hội, quản lý nhà nước.

* Để nâng cao hiệu quả trong việc tập hợp, tổ chức nhân dân tham gia

vào các công việc của nhà nước xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản và nhà

nước xã hội chủ nghĩa phải thường xuyên chăm lo nâng cao kiến thức về mọi

mặt cho người dân, đặc biệt là văn hoá chính trị. Bên cạnh việc nâng cao

trình độ tri thức cho người dân, Đảng và Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải

quan tâm tới xây dựng dệ thống luật pháp, hoàn thiện cơ chế, có những biện

pháp đễ cho nhân dân lao động tham gia hoạt động quản lý xã hội, quản lý

nhà nước.

+ Trên lĩnh vực kinh tế:

Những cuộc cách mạng trước đây về thực chất chỉ là cuộc cách mạng

chính trị, bởi vì, về căn bản nó được kết thúc bằng việc lật đổ ách thống trị

của giai cấp này, thay thế bằng sự thống trị của giai cấp khác. Cách mạng xã

hội chủ nghĩa, về thực chất là có tính chất kinh tế. Việc giành chính quyền về

tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động mới chỉ là bước đầu. Nhiệm vụ

trọng tâm có ý nghĩa quyết định cho sự thắng lợi của cách mạng xã hội chủ

nghĩa phải là phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao năng suất lao động,

cải thiện đời sống nhân dân.

* Cách mạng xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực kinh tế, trước hết phải

thay đổi vị trí, vai trò của ngưòi lao động đối với tư liệu sản xuất chủ yếu, thay

thế chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất bằng chế

độ sở hữu xã hội chủ nghĩa với những hình thức thích hợp; thực hiện những

biện pháp cần thiết gắn người lao động với tư liệu sản xuất.

* Cùng với cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới

xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa phải tìm mọi cách phát triển lực

lượng sản xuất, không ngừng nâng cao năng suất lao động, trên cơ sở đó

từng bước cải thiện đời sống nhân dân.

+ Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá:

Trong điều kiện xã hội mới - xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân cùng

với nhân dân lao động là chủ thể sáng tạo ra các giá trị tư tưởng - văn hoá

mới xã hội chủ nghĩa với những nội dung cơ bản sau:

* Làm cho hệ tư tưởng khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin trở thành

hệ tư tưởng chính thống trong đời sống tư tưởng - văn hoá của toàn xã hội;

trở thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học phổ biến định hướng

mọi hoạt động sáng tạo của Đảng và quần chúng nhân dân.

* Trên cơ sở phê phán và kế thừa, nâng cao các giá trị tư tưởng - văn

hoá truyền thống của dân tộc, tiếp thu các giá trị tư tưởng - văn hoá tiên tiến

của thời đại, cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá

thực hiện việc giải phóng những người lao động về mặt tinh thần thông qua

xây dựng từng bước thế giới quan và nhân sinh quan mới cho người lao

động, hình thành những con người mới xã hội chủ nghĩa, giàu lòng yêu nước

thương dân, có bản lĩnh chính trị, nhân văn, nhân đạo, có hiểu biết, có khả

năng giải quyết một cách đúng đắn mối quan hệ cá nhân, gia đình và xã hội.

Câu hỏi 138: Tại sao đối với những nước mà nông dân còn là một lực

lượng đông đảo thì trong cách mạng xã hội chủ nghĩa thực hiện sự liên minh

giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân là một tất yếu khách quan và

có thể thực hiện được? Có những nội dung và nguyên tắc cơ bản nào của sự

liên minh đó?

Trả lời:

- Thực hiện liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân là

một tất yếu và có thể thực hiện được trong cách mạng xã hội chủ nghĩa ở

những nước mà nông dân còn là một lực lượng đông đảo là do:

Sự phát triển của phương thức sản xuất công nghiệp và thị trường

ngày càng mở rộng thì đương nhiên giai cấp công nhân ngày càng tăng lên,

ngược lại giai cấp nông dân ngày càng giảm đi một cách tương ứng. Tuy

nhiên, sự phát triển đó là không đồng đều ở các quốc gia khác nhau, ở các

thời kỳ lịch sử khác nhau. Đối với những nước và ở thời kỳ lịch sử khi mà giai

cấp nông dân còn là một lực lượng đông đảo trong xã hội thì việc giai cấp

công nhân thực hiện sự liên minh chặt chẽ với giai cấp nông dân là một tất

yếu khách quan của cách mạng xã hội chủ nghĩa, đồng thời sự liên minh đó là

có thể thực hiện được do có cơ sở khách quan của nó.

Điều đó chủ yếu được phân tích ở các điểm chính sau đây:

+ Sự liên minh chặt chẽ giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân

cũng như với nhiều tầng lớp nhân dân lao động khác mới có thể tạo ra được

lực lượng tạo thành động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa.

+ Bản thân giai cấp nông dân cũng là giai cấp cần sự giải phóng khỏi

ách áp bức, bóc lột. Chỉ có đi theo sự liên minh chặt chẽ với giai cấp công

nhân và thực hiện sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa thì giai cấp nông

dân mới có thể thực sự giải phóng được sự áp bức, bóc lột của giai cấp khác

và mới có thể vươn lên trình độ làm chủ xã hội.

+ Chỉ có liên minh công - nông mới có thể tạo ra được cơ sở vững chắc

bảo đảm sự phát triển và thực hiện sự lãnh đạo của chính Đảng của giai cấp

công nhân trong toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội.

+ Giai cấp công nhân và giai cấp nông dân đều có chung bản chất của

người lao động.

+ Cơ sở khách quan của khối liên minh công - nông là mối quan hệ tất

yếu của cơ cấu kinh tế giữa hai ngành công nghiệp và nông nghiệp.

Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân, giai cấp nông dân

cũng như nhiều tầng lớp lao động khác đều là những ngươi lao động, đều bị

áp bức bóc lột.

- Nội dung cơ bản của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp

nông dân và các tầng lớp lao động khác trong cách mạng xã hội chủ nghĩa là

hết sức phong phú, toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Mỗi thời

kỳ lịch sử, mỗi lĩnh vực khác nhau sẽ có những nội dung cụ thể khác nhau,

nhưng tất cả các nội dung đó đều nhằm hướng tới việc đảm bảo thành công

sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Nội dung của liên minh công - nông có thể được phân tích trên ba lĩnh

vực cơ bản của xã hội.

+ Liên minh về chính trị:

Nội dung của liên minh chính trị là liên minh quyền lực chính trị nhằm

thực hiện quyền lực thuộc về nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của giai

cấp công nhân thông qua chính Đảng của nó.

Nội dung này được cụ thể hoá trong hai giai đoạn cách mạng: giai đoạn

giành chính quyền về tay nhân dân và giai đoạn tổ chức chính quyền mới

thực sự “của dân, do dân và vì dân”.

+ Liên minh về kinh tế:

Nội dung của liên minh này là thực hiện lợi ích kinh tế giữa giai cấp

công nhân và giai cấp nông dân, trong đó bao gồm: thực hiện đúng đắn lợi

ích giữa các giai cấp và tầng lớp xã hội; xây dựng và phát triển hợp lý cơ cấu

kinh tế công - nông nghiệp; tổ chức các hình thức trao đổi, hỗ trợ, giao lưu

kinh tế giữa công nghiệp và nông nghiệp; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý (cơ

cấu thành phần, cơ cấu ngành và cơ cấu vùng) bảo đảm sự phát triển hài hoà

trong hệ thống kinh tế quốc dân thống nhất;...

+ Liên minh văn hoá, xã hội:

Liên minh văn hoá, xã hội trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa

bao gồm nhiều nội dung cụ thể: thực hiện sự tăng trưởng gắn với sự tiến bộ

và công bằng xã hội; xây dựng đời sống văn hoá mới của nhân dân; phát

triển giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng nhân tài cho sự nghiệp cách mạng; xây

dựng văn hoá nông thôn;...

- Nguyên tắc cơ bản của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp

nông dân và các tầng lớp lao động khác trong cách mạng xã hội chủ nghĩa:

để bảo đảm xây dựng được khối liên minh vững chắc giữa giai cấp công nhân

với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác trong suốt tiến trình cách

mạng xã hội chủ nghĩa cần phải thực hiện được ba nguyên tắc cơ bản sau

đây:

+ Một là, phải bảo đảm vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân.

Liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng

lớp lao động khác nhằm mục tiêu cuối cùng là xây dựng thành công chủ

nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Do đó, sự liên minh này cần phải đứng

trên lập trường của giai cấp công nhân thông qua sự lãnh đạo của chính

Đảng của nó. Nếu thiếu nguyên tắc này thì sự liên minh sẽ không thể lâu dài

và sẽ đi chệch hướng của cách mạng xã hội chủ nghĩa.

+ Hai là, phải bảo đảm nguyên tắc tự nguyện.

Bất cứ một sự liên minh nào cũng cần phải dựa trên nguyên tắc tự

nguyện mới có thể bền vững và có hiệu quả. Sự liên minh giữa giai cấp công

nhân với giai cấp nông nhân và các tầng lớp lao động khác là sự liên minh có

tính chất lâu dài, có tính chất chiến lược; nó không phải là sự liên minh mang

tính ngẫu nhiên, có tính chất tình huống nhất thời hay sách lược. Bởi vậy, nó

phải được bảo đảm bằng nguyên tắc thực sự tự nguyện giữa các giai cấp.

+ Ba là, kết hợp đúng đắn các lợi ích.

Không có một sự liên minh nào có thể vững chắc và lâu dài nếu như

giữa các lực lượng liên minh không có được sự kết hợp đúng đắn, hợp lý, hài

hoà về các lợi ích: lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị, lợi ích văn hoá, xã hội mà

trong đó lợi ích kinh tế là căn bản và lâu dài. Sự liên minh giữa giai cấp công

nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác không là ngoại lệ.

Câu hỏi 139: Những dự báo của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác

- Lênin về sự ra đời, phát triển hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa

dựa trên cơ sở nào? Theo dự báo đó, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ

nghĩa phát triển qua những giai đoạn cơ bản nào?

Trả lời:

- Những dự báo của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin về sự

ra đời, phát triển hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa dựa trên hai cơ

sở chính sau đây:

+ Từ việc phát hiện ra quá trình phát triển các hình thái kinh tế - xã hội

là quá trình lịch sử - tự nhiên, tức là quá trình phát triển thay thế lẫn nhau của

các hình thái kinh tế - xã hội theo quy luật khách quan chứ không phải tuân

theo ý muốn chủ quan của con người. Trong các quy luật khách quan đó, quy

luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực

lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất chi phối toàn bộ quá trình lịch sử ấy

với tính tất yếu của nó.

+ Vận dụng quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử vào việc

phân tích hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, các nhà kinh điển của

chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra các quy luật khách quan của quá trình ra đời,

phát triển và tất yếu diệt vong của xã hội đó từ cơ sở kinh tế của nó và sự ra

đời tất yếu của hình thái kinh tế - xã hội mới cộng sản chủ nghĩa.

- Các giai đoạn cơ bản của sự phát triển hình thái kinh tế - xã hội cộng

sản chủ nghĩa.

Dựa trên quy luật chung về sự ra đời của mỗi hình thái kinh tế - xã hội,

đồng thời dựa trên sự phân tích về hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa

với tư cách là hình thái kinh tế - xã hội trực tiếp dẫn đến sự ra đời của hình

thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra

những dự báo và phác thảo cơ bản về các giai đoạn ra đời, phát triển của

hình thái kinh tế - xã hội cộng sản trong tương lai. Những dự báo và phác

thảo đó đã được V.I.Lênin tiếp tục nghiên cứu, bổ sung trên cơ sở kinh

nghiệm lịch sử mới ở đầu thế kỷ XX, đặc biệt là từ kinh nghiệm của cuộc

Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917.

Về cơ bản, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng hình thái kinh tế - xã hội

cộng sản chủ nghĩa sẽ phát triển qua hai giai đoạn lớn được gọi là giai đoạn

thấp và giai đoạn cao của xã hội cộng sản.

V.I.Lênin đã tiếp tục nghiên cứu và chỉ ra ba giai đoạn hình thành, phát

triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản là:

+ Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (thời kỳ của "những cơn đau đẻ

kéo dài");

+ Giai đoạn đầu của xã hội cộng sản - tức chủ nghĩa xã hội hay xã hội

xã hội chủ nghĩa;

+ Giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa (hay "chủ nghĩa cộng

sản đầy đủ" (theo cách gọi của các nhà lý luận của Đảng Cộng sản Liên Xô

trước đây).

Câu hỏi 140: Phân tích tính tất yếu, đặc điểm và nội dung cơ bản của

thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội?

Trả lời:

- Tính tất yếu của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã

hội.

Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được lý giải từ các

căn cứ sau đây:

Một là, bất kỳ quá trình chuyển biến từ một xã hội này lên một xã hội

khác đều nhất định phải trải qua một thời kỳ gọi là thời kỳ quá độ. Đó là thời

kỳ còn có sự đan xen lẫn nhau giữa các yếu tố mới và cũ trong cuộc đấu

tranh với nhau. Có thể nói đây là thời kỳ của cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa

cái cũ và cái mới mà nói chung theo tính tất yếu phát triển lịch sử thì cái mới

thường chiến thắng cái cũ, cái lạc hậu. Từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã

hội không là ngoại lệ lịch sử. Hơn nữa, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã

hội là một bước nhảy lớn và căn bản về chất so với các quá trình thay thế từ

xã hội cũ lên xã hội mới đã từng diễn ra trong lịch sử thì thời kỳ quá độ lại

càng là một tất yếu, thậm chí có thể kéo dài, nhất là đối với những nước còn

ở trình độ tiền tư bản thực hiện thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì “những

cơn đau đẻ” này còn có thể rất dài với nhiều bước quanh co.

Hai là, sự ra đời của một xã hội mới bao giờ cũng có những sự kế thừa

nhất định từ những nhân tố do xã hội cũ tạo ra. Sự ra đời của chủ nghĩa xã

hội là sự kế thừa đối với chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là trên phương diện kế

thừa cơ sở vật chất kỹ thuật đã được tạo ra bởi sự phát triển của nền đại

công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội

mặc dù cũng là nền sản xuất đại công nghiệp nhưng đó là nền sản xuất đại

công nghiệp xã hội chủ nghĩa chứ không phải là nền đại công nghiệp tư bản

chủ nghĩa. Do đó nó cũng cần phải có thời kỳ quá độ của bước cải tạo, kế

thừa và tái cấu trúc nền công nghiệp tư bản chủ nghĩa.

Đối với những nước chưa từng trải qua quá trình công nghiệp hóa tiến

lên chủ nghĩa xã hội, thời kỳ quá độ cho việc xây dựng cơ sở vật chất, kỹ

thuật cho chủ nghĩa xã hội càng có thể kéo dài với nhiệm vụ trọng tâm của nó

là tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Đó là một nhiệm vụ vô cùng to

lớn và đầy khó khăn, không thể “đốt cháy giai đoạn” được.

Ba là, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát nảy sinh

trong lòng chủ nghĩa tư bản, chúng là kết quả của quá trình xây dựng và cải

tạo xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, dù đã ở trình độ cao

cũng chỉ có thể tạo ra những điều kiện, tiền đề cho sự hình thành các quan hệ

xã hội mới xã hội chủ nghĩa, do vậy cũng cần phải có thời gian nhất định để

xây dựng và phát triển những quan hệ đó.

Bốn là, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công việc mới mẻ,

khó khăn và phức tạp. Với tư cách là ngươi chủ của xã hội mới, giai cấp công

nhân và nhân dân lao động không thể ngay lập tức có thể đảm đương được

công việc ấy, nó cần phải có thời gian nhất định.

Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nước có trình độ phát triển

kinh tế - xã hội khác nhau có thể diễn ra với khoảng thời gian dài, ngắn khác

nhau. Đối với những nước đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển ở trình độ

cao khi tiến lên chủ nghĩa xã hội thì thời kỳ quá độ có thể tương đối ngắn.

Những nước đã trải qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản ở trình độ trung

bình, đặc biệt là những nước còn ở trình độ phát triển tiền tư bản, cỏ nền kinh

tế lạc hậu thì thời kỳ quá độ thường kéo dài với rất nhiều khó khăn, phức tạp.

- Những đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên

chủ nghĩa xã hội

Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa

xã hội là sự tồn tại những yếu tố của xã hội cũ bên cạnh những nhân tố mới

của chủ nghĩa xã hội trong mối quan hệ vừa thống nhất vừa đấu tranh với

nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.

+ Trên lĩnh vực kinh tế:

Thời kỳ quá độ là thời kỳ tất yếu còn tồn tại một nền kinh tế nhiều thành

phần trong một hệ thống kinh tế quốc dân thống nhất. Đây là bước quá độ

trung gian tất yếu trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, không thể dùng

ý chí để xóa bỏ ngay kết cấu nhiều thành phần của nền kinh tế, nhất là đối với

những nước còn ở trình độ chưa trải qua sự phát triển của phương thức sản

xuất tư bản chủ nghĩa.

Nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

được xác lập trên cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều loại hình sở hữu về

tư liệu sản xuất với những hình thức tổ chức kinh tế đa dạng, đan xen hỗn

hợp và tương ứng với nó là những hình thức phân phối khác nhau, trong đó

hình thức phân phối theo lao động tất yếu ngày càng giữ vai trò là hình thức

phân phối chủ đạo.

+ Trên lĩnh vực chính trị:

Do kết cấu kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đa dạng,

phức tạp, nên kết cấu giai cấp của xã hội trong thời kỳ này cũng đa dạng

phức tạp. Nói chung, thời kỳ này thường bao gồm: giai cấp công nhân, nông

dân, tầng lớp trí thức, những người sản xuất nhỏ, tầng lớp tư sản và một số

tầng lớp xã hội khác tuỳ theo từng điều kiện cụ thể của mỗi nước. Các giai

cấp, tầng lớp này vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau.

+ Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá:

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều yếu tố tư

tưởng và văn hoá khác nhau. Bên cạnh tư tưởng xã hội chủ nghĩa còn tồn tại

tư tưởng tư sản, tiểu tư sản, tâm lý tiểu nông, v.v.. Theo V.I. Lênin, tính tự

phát tiểu tư sản là “kẻ thù giấu mặt hết sức nguy hiểm, nguy hiểm hơn so với

nhiều bọn phản cách mạng công khai”. Trên lĩnh vực văn hoá cũng tồn tại các

yếu tố văn hoá cũ và mới, chúng thường xuyên đấu tranh với nhau.

Thực chất của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội

là thời kỳ diễn ra cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản đã bị đánh bại

không còn là giai cấp thống trị và những thế lực chống phá chủ nghĩa xã hội

với giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động. Cuộc đấu tranh giai

cấp diễn ra trong điều kiện mới là giai cấp công nhân đã nắm được chính

quyền nhà nước, quản lý tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Cuộc đấu tranh

giai cấp với những nội dung, hình thức mới, diễn ra trong lĩnh vực chính trị,

kinh tế, tư tưởng - văn hóa, bằng tuyên truyền vận động là chủ yếu, bằng

hành chính và luật pháp.

- Nội dung kinh tế, chính trị và văn hóa, xã hội của thời kỳ quá độ lên

chủ nghĩa xã hội

+ Trong lĩnh vực kinh tế:

Nội dung cơ bản trên lĩnh vực kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa

xã hội là thực hiện việc sắp xếp, bố trí lại các lực lượng sản xuất hiện có của

xã hội; cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới theo

hướng tạo ra sự phát triển cân đối của nền kinh tế, bảo đảm phục vụ ngày

càng tốt đời sống nhân dân lao động.

Việc sắp xếp, bố trí lại các lực lượng sản xuất của xã hội nhất định

không thể theo ý muốn nóng vội chủ quan mà phải tuân theo tính tất yếu

khách quan của các quy luật kinh tế, đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất phù

hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

Đối với những nước chưa trải qua quá trình công nghiệp hóa tư bản

chủ nghĩa, tất yếu phải tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa nhằm tạo

ra được cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đối với những nước

này, nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ quá độ phải là tiến hành công nghiệp

hóa, hiện đại hóa nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa diễn ra ở các

nước khác nhau với những điều kiện lịch sử khác nhau có thể được tiến hành

với những nội dung cụ thể và hình thức, bước đi khác nhau. Đó cũng là quán

triệt quan điểm lịch sử - cụ thể trong việc xác định những nội dung, hình thức

và bước đi trong tiến trình công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở thời kỳ quá độ

lên chủ nghĩa xã hội.

+ Trong lĩnh vực chính trị:

Nội dung cơ bản trong lĩnh vực chính trị của thời kỳ quá độ lên chủ

nghĩa xã hội là tiến hành cuộc đấu tranh chống lại những thế lực thù địch,

chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; tiến hành xây dựng, củng cố

nhà nước và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh, bảo đảm

quyền làm chủ trong hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của nhân

dân lao động; xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội thực sự là nơi thực hiện

quyền làm chủ của nhân dân lao động; xây dựng Đảng Cộng sản ngày càng

trong sạch, vững mạnh ngang tầm với các nhiệm vụ của mỗi thời kỳ lịch sử.

+ Trong lĩnh vực tư tưởng - văn hoá:

Nội dung cơ bản trong lĩnh vực tư tưởng - văn hóa của thời kỳ quá độ

lên chủ nghĩa xã hội là: thực hiện tuyên truyền phổ biến những tư tưởng khoa

học và cách mạng của giai cấp công nhân trong toàn xã hội; khắc phục những

tư tưởng và tâm lý có ảnh hưởng tiêu cực đối với tiến trình xây dựng chủ

nghĩa xã hội; xây dựng nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa, tiếp thu giá trị tinh

hoa của các nền văn hóa trên thế giới.

+ Trong lĩnh vực xã hội:

Nội dung cơ bản trong lĩnh vực xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa

xã hội là phải thực hiện việc khắc phục những tệ nạn xã hội do xã hội cũ để

lại; từng bước khắc phục sự chênh lệch phát triển giữa các vùng miền, các

tầng lớp dân cư trong xã hội nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng xã hội; xây

dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người theo mục tiêu lý tưởng tự do

của người này là điều kiện, tiền đề cho sự tự do của người khác.

Tóm lại, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ lịch sử tất

yếu trên con đường phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ

nghĩa. Đó là thời kỳ lịch sử có đặc điểm riêng với những nội dung kinh tế,

chính trị, văn hóa và xã hội đặc thù mà giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa trên

con đường phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa chỉ có

thể có được trên cơ sở hoàn thành các nội dung đó.

Câu hỏi 141: Phân tích những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ

nghĩa?

Trả lời:

Xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội có những đặc trưng cơ bản sau

đây:

- Thứ nhất, về cơ sở vật chất, kỹ thuật của xã hội.

Cơ sở vật chất của xã hội xã hội chủ nghĩa là nền đại công nghiệp có

trình độ phát triển cao; được xây dựng trên cơ sở kế thừa và phát triển cơ sở

vật chất do sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã tạo ra.

- Thứ hai, về chế độ kinh tế của xã hội.

Chế độ kinh tế của xã hội xã hội chủ nghĩa là chế độ công hữu về tư

liệu sản xuất đã chiếm địa vị thống trị vững chắc trong nền kinh tế quốc dân.

Đồng thời, cũng đã tạo ra được phương thức tổ chức lao động và kỷ luật lao

động mới theo tinh thần xã hội chủ nghĩa với một chế độ phân phối theo lao

động.

- Thứ ba, về chế độ dân chủ của xã hội.

Xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội có nền dân chủ thực sự, dân chủ

"gấp triệu lần dân chủ tư sản"; nền dân chủ đó mang bản chất của giai cấp

công nhân và có tính chất nhân dân rộng rãi nhất, có tính dân tộc sâu sắc

nhất chưa từng có trong lịch sử.

- Thứ tư, về đời sống văn hoá, xã hội của dân cư.

Xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội đã thực hiện được sự giải phóng

con người khỏi ách nô dịch, bị áp bức, bị bóc lột; tạo ra được những điều kiện

về mọi mặt để mọi người đều có cơ hội phát triển bình đẳng.

Câu hỏi 142: Phân tích những đặc trưng của xã hội cộng sản chủ

nghĩa tương lai theo những phác thảo của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác -

Lênin?

Trả lời:

Theo những phác thảo của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin về

xã hội cộng sản tương lai thì đó là một xã hội có những đặc trưng cơ bản sau

đây:

- Một là, về sự phát triển của kinh tế và chế độ phân phối

Do sự phát triển hết sức cao của sức sản xuất nên của cải của toàn xã

hội đã được tạo ra vô cùng phong phú và giàu có đến mức xã hội có thể bỏ

qua giới hạn của chế độ phân phối theo lao động để tiến hành thực hiện chế

độ phân phối theo nhu cầu (làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu).

Trong tác phẩm Phê phán cương lĩnh Gôta, C.Mác đã có dự báo: “Khi

mà lao động trở thành không những là một phương tiện để sinh sống mà bản

thân nó còn là một nhu cầu bậc nhất của đời sống; khi mà cùng với sự phát

triển toàn diện của các cá nhân, sức sản xuất của họ cũng ngày càng tăng lên

và tất cả các nguồn của cải xã hội đều tuôn ra dồi dào - chỉ khi đó người ta

mới có thể vượt hẳn ra khỏi giới hạn chật hẹp của pháp quyền tư sản và xã

hội mới có thể ghi trên lá cờ của mình: làm theo năng lực, hưởng theo nhu

cầu”.

- Hai là, về sự tiêu vong của nhà nước trong xã hội cộng sản tương lai.

Đến xã hội cộng sản chủ nghĩa, giai cấp đã hoàn toàn mất đi, sự hoàn

thiện, phát triển của chế độ dân chủ ở giai đoạn phát triển xã hội xã hội chủ

nghĩa đã tất yếu dẫn tới sự tự tiêu vong của yếu tố nhà nước trong thượng

tầng kiến trúc của xã hội.

Theo V.I.Lênin: “khi bọn tư bản đã tiêu tan đi rồi và không còn có giai

cấp nữa (nghĩa là giữa các thành viên trong xã hội không còn có sự phân biệt

nào nữa về những quan hệ xã hội của họ đối với những tư liệu sản xuất xã

hội) chỉ lúc đó “nhà nước mới không còn nữa và mới có thể nói đến tự do”.

Chỉ lúc đó, một nền dân chủ thực sự hoàn bị, thật sự không hạn chế, mới có

thể có được và được thực hiện. Chỉ lúc đó, chế độ dân chủ mới bắt đầu tiêu

vong vì lý do đơn giản là một khi thoát khỏi chế độ nô lệ tư bản chủ nghĩa,

thoát khỏi những sự khủng khiếp, những sự dã man... thì người ta sẽ dần dần

quen với việc tôn trọng các quy tắc sơ thiểu của đời sống chung xã hội”.

- Ba là, về các quan hệ xã hội và sự phát triển của con người

Do điều kiện kinh tế - xã hội đã đạt đến mức rất hoàn thiện nên xã hội

đã có thể đạt được sự hài hoà cao độ trong việc giải quyết các mối quan hệ

xã hội và đời sống tinh thần của con người được nâng lên rất cao. Khi đó con

người có đầy đủ những điều kiện cần thiết để mỗi con người có thể phát triển

tự do và toàn diện các năng lực của mình. Đó chính là lúc nhân loại có thể

thực hiện "bước nhảy từ vương quốc của tính tất yếu sang vương quốc của

tự do".

Qua phân tích của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về giai đoạn cao

của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa đã cho thấy:

+ Thứ nhất, chỉ có thể đạt tới giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ

nghĩa khi trong thực tế khách quan của sự phát triển xã hội đã có được

những điều kiện, tiền đề phù hợp. Mọi ý muốn chủ quan muốn thực hiện ngay

những nguyên tắc của giai đoạn cao trong sự phát triển của hình thái kinh tế -

xã hội cộng sản chủ nghĩa khi chưa có những điều kiện phát triển kinh tế - xã

hội tương ứng thì nhất định sẽ mắc phải sai lầm chủ quan duy ý chí và nhất

định sẽ thất bại.

+ Thứ hai, sự xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng

sản chủ nghĩa là một quá trình lâu dài, bằng việc không ngừng phát triển

mạnh mẽ lực lượng sản xuất, tổ chức xã hội về mọi mặt, giáo dục nâng cao

tinh thần tự giác của con người. Nếu không có quá trình đó cũng không thể

xuất hiện được giai đoạn đó.

+ Thứ ba, quá trình xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội

cộng sản chủ nghĩa ở các nước khác nhau diễn ra với những quá trình khác

nhau, tuỳ thuộc vào sự nỗ lực phấn đấu về mọi phương diện. Khi chưa xuất

hiện giai đoạn cao thì “trong một thời gian nhất định, dưới chế độ cộng sản,

không những vẫn còn pháp quyền tư sản, mà vẫn còn cả nhà nước kiểu tư

sản nhưng không có giai cấp tư sản”. Khi chưa đạt đến giai đoạn cao của

hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, trong điều kiện vẫn còn chủ

nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc trên thế giới thì những vấn đề lý luận của

chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước, về dân chủ vẫn còn nguyên giá trị. Tính

chất giai cấp của nhà nước dân chủ vẫn tồn tại.

NHỮNG VẤN ĐỀ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CÓ TÍNH QUY LUẬT TRONG TIẾN TRÌNH CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Câu hỏi 143: Thế nào là “dân chủ”, “chế độ dân chủ”, “nền dân chủ” và

“nền dân chủ xã hội chủ nghĩa”? Hãy nêu khái quát tính tất yếu của việc xây

dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong tiến trình cách mạng xã hội chủ

nghĩa?

Trả lời:

- Khái niệm dân chủ

Khái niệm dân chủ có một nội hàm hết sức phong phú với một lịch sử

phát triển trên hai nghìn năm qua nhưng nếu hiểu vắn tắt và cơ bản thì có thể

nói: Khái niệm dân chủ dùng để chỉ quyền làm chủ của nhân dân.

Khái niệm này được hình thành từ những cuộc tranh luận về chủ thể

quyền lực của xã hội thuộc về ai? (nhân dân hay vua - “quân chủ”;...).

Nếu lý giải theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin thì khái niệm

“dân chủ” bao hàm ba nội dung chủ yếu sau đây:

+ Dân chủ là quyền lực của nhân dân (tức chủ thể quyền lực của xã hội

thuộc về nhân dân). Theo nghĩa đó, một khi quyền lực cai trị xã hội thuộc về

một người (ví dụ theo chế độ phong kiến) thì xã hội đó là xã hội không có dân

chủ mà là xã hội “quân chủ” (vấn đề chỉ còn là “quân chủ tập quyền” hay

“quân chủ phân quyền” mà thôi).

+ Trong xã hội có giai cấp đối kháng thì không có dân chủ phi giai cấp.

Trái lại, về thực chất (chứ không phải là trên phương diện tuyên ngôn - lời

tuyên bố) dân chủ bao giờ cũng là dân chủ đối với một giai cấp xác định còn

đối với giai cấp khác, giai cấp đối kháng với nó thì không có dân chủ. Bản

chất giai cấp của dân chủ có cơ sở kinh tế của nó. Giai cấp nào nắm được tư

liệu sản xuất chủ yếu của xã hội thì mới có thể thực sự thực hiện được quyền

làm chủ xã hội.

Ví dụ, khái niệm dân chủ trong xã hội chiếm hữu nô lệ là dân chủ cho

giai cấp chủ nô chứ không phải cho giai cấp những người nô lệ (những người

bị coi không phải là “người”), cũng không phải thực chất cho tầng lớp lao

động tự do (nông dân, thợ thủ công,... trong xã hội chiếm hữu nô lệ).

+ Khái niệm dân chủ không phải là khái niệm bất biến, trái lại nó là một

phạm trù có tính lịch sử và luôn gắn với sự tồn tại của các kiểu nhà nước

trong mỗi điều kiện xác định. Bởi vậy, khái niệm “dân chủ" có mối quan hệ

chặt chẽ với khái niệm “chế độ dân chủ" và “nền dân chủ”. Nếu không thế thì

trong thực tế xã hội, khái niệm dân chủ chỉ là một khái niệm thuần tuý tư

tưởng, thiếu một nội dung hiện thực triển khai trong thực tiễn tổ chức xã hội.

- Khái niệm chế độ dân chủ và nền dân chủ

Khái niệm chế độ dân chủ dùng để chỉ thiết chế xã hội nhằm thực hiện

quyền lực của nhân dân; còn khái niệm nền dân chủ dùng để chỉ hệ thống các

thiết chế được xác lập và thực thi trong hiện thực xã hội theo mục tiêu thực

hiện quyền làm chủ của nhân dân trong xã hội đó. Theo nghĩa đó, khái niệm

chế độ dân chủ và khái niệm nền dân chủ có cùng bản chất nhưng tuỳ theo

từng trường hợp cụ thể có thể sử dụng thay thế cho phù hợp.

- Khái niệm nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

+ Khái niệm:

Nền dân chủ (hay chế độ dân chủ) xã hội chủ nghĩa là hệ thống thiết

chế (chính trị, nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội) được xác lập và thực thi

trong xã hội theo mục tiêu thực hiện quyền lực cai trị (quản lý, điều khiển,

kiểm soát,... xã hội) thực sự thuộc về nhân dân lao động.

+ Cụ thể, nền dân chủ đó có những đặc trưng chủ yếu sau đây:

Một là, đó là nền dân chủ phát triển ở trình độ cao nhất trong lịch sử,

được xác lập sau khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được

quyền lực nhà nước trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Đó là một chế độ dân chủ rộng rãi nhất - dân chủ cho toàn thể nhân

dân lao động. Các chế độ dân chủ trước đây về thực chất chỉ là dân chủ đối

với thiểu số giai cấp thống trị - giai cấp nắm giữ tư liệu sản xuất của xã hội.

Hai là, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ hoàn toàn có khả

năng thực hiện được quyền lực thuộc về nhân dân lao động vì quyền lực ấy

được bảo đảm bằng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chiếm địa vị thống

trị trong nền kinh tế.

Ba là, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một chế độ dân chủ được thể

chế hoá và vận hành trong hiện thực xã hội bằng một cơ chế chặt chẽ: Đảng

lãnh đạo, nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Đó là một thể chế và cơ

chế đảm bảo thực hiện được: quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân, quản lý

xã hội bằng công cụ quyền lực nhà nước và thực hiện được rộng rãi nhất

quyền lực của nhân dân lao động.

- Tính tất yếu của việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong

tiến trình xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa

Có thể phân tích tính tất yếu này trên ba điểm chính sau đây:

+ Nội dung chính trị của cách mạng xã hội chủ nghĩa là thực hiện quyền

lực của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, do vậy, trong tiến trình

cách mạng xã hội chủ nghĩa tất yếu cần phải thiết lập và thực thi nền dân chủ

xã hội chủ nghĩa.

+ Chỉ có xây dựng một chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa mới đảm bảo

được trong thực tế vai trò làm chủ của nhân dân lao động và sự lãnh đạo của

chính Đảng của giai cấp công nhân đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã

hội, đồng thời thực hiện được sự chuyên chính đối với những xâm phạm

quyền lực của nhân dân.

+ Chỉ có thể tập hợp được rộng rãi nhất và phát huy được sức mạnh to

lớn của toàn thể nhân dân lao động vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội

khi thiết lập và thực thi được chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Câu hỏi 144: Có sự khác nhau nào giữa nền (chế độ) dân chủ xã hội

chủ nghĩa và nền dân chủ tư sản?

Trả lời:

Giữa nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và nền dần chủ tư sản có sự khác

nhau rất căn bản. Chủ yếu được phân biệt trên các điểm chính sau đây:

Thứ nhất, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ cho đại đa số

nhân dân lao động; còn nền dân chủ tư sản là nền dân chủ cho thiểu số, phục

vụ lơi ích cho thiểu số - đó là giai cấp tư sản.

Thứ hai, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có cơ sở kinh tế của nó là chế

độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội; còn chế độ dân chủ tư

sản có cơ sở kinh tế của nó là chế độ chiếm, hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa

về tư liệu sản xuất.

Thứ ba, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ đặt dưới sự lãnh

đạo của Đảng Cộng sản, quản lý xã hội bằng nhà nước xã hội chủ nghĩa; còn

nền dân chủ tư sản là nền dân chủ đặt dưới sự lãnh đạo của các đảng tư sản

- tổ chức chính trị đại biểu cho lợi ích của các tập đoàn tư bản, thông qua nhà

nước tư sản với nhiều hình thức tổ chức cụ thể khác nhau.

Câu hỏi 145: Hãy phát biểu một định nghĩa về nhà nước xã hội chủ

nghĩa và nêu những đặc trưng, chức năng và nhiệm vụ của nó? Tại sao nói

việc xây dựng và củng cố nhà nước xã hội chủ nghĩa là một tất yếu trong tiến

trình xây dựng chủ nghĩa xã hội?

Trả lời:

- Định nghĩa về nhà nước xã hội chủ nghĩa

Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu tổ chức quyền lực đặc biệt của

nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của chính Đảng của giai cấp công

nhân.

Với tư cách là một trong những tổ chức cơ bản nhất của hệ thống chính

trị xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa là một tổ chức quyền lực đặc

biệt, thể hiện và thực hiện lợi ích, ý chí của nhân dân lao động, đặt dưới sự

lãnh đạo của chính Đảng của giai cấp công nhân. Chính vì vậy, nhà nước xã

hội chủ nghĩa vừa là cơ quan quyền lực, vừa là bộ máy hành chính, vừa là tổ

chức quản lý kinh tế, văn hóa - xã hội của nhân dân, được thể hiện tập trung

qua hai chức năng chủ yếu của nó, đó là chức năng thống trị giai cấp và chức

năng tổ chức xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa.

- Đặc trưng của nhà nước xã hội chủ nghĩa khác với các hình thức nhà

nước đã từng có trong lịch sử, nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà

nước đặc biệt. Đó là kiểu nhà nước có những đặc trưng cơ bản sau đây:

+ Một là, nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ cơ bản để thực hiện

quyền lực của nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

+ Hai là, nhà nước xã hội chủ nghĩa có đặc trưng về nguyên tắc khác

hẳn với nhà nước tư sản. Cũng là công cụ của chuyên chính giai cấp, nhưng

vì lợi ích của tất cả những người lao động tức là tuyệt đại đa số nhân dân,

nhà nước chuyên chính vô sản thực hiện sự trấn áp đối với những kẻ chống

đối, phá hoại sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.

+ Ba là, trong khi nhấn mạnh sự cần thiết của bạo lực và trấn áp, các

nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn xem mặt tổ chức xây dựng là

đặc trưng cơ bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa, của chuyên chính vô sản.

V.I.Lênin cho rằng, chuyên chính vô sản không phải chỉ là bạo lực đối với bọn

bóc lột và cũng không phải chủ yếu là bạo lực mà mặt cơ bản của nó là tổ

chức xây dựng toàn diện xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản

chủ nghĩa.

+ Bốn là, nhà nước xã hội chủ nghĩa nằm trong nền dân chủ xã hội chủ

nghĩa và theo V.I.Lênin, con đường vận động, phát triển của nó là: ngày càng

hoàn thiện các hình thức đại diện nhân dân, mở rộng dân chủ nhằm lôi cuốn

đông đảo quần chúng nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội.

+ Năm là, nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước đặc biệt,

“nhà nước không còn nguyên nghĩa”, là “nửa nhà nước”. Sau khi những cơ

sở kinh tế - xã hội cho sự tồn tại của nhà nước mất đi thì nhà nước cũng

không còn, nhà nước “tự tiêu vong”. Đây cũng là một đặc trưng nổi bật của

nhà nước vô sản.

- Chức năng, nhiệm vụ cơ bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa

+ Chức năng cơ bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa: Nhà nước xã hội

chủ nghĩa có hai chức năng cơ bản là chức năng tổ chức xây dựng xã hội

mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và chức năng trấn áp - trấn áp đối với mọi sự

chống đối công cuộc xây dựng xã hội mới, bảo vệ lợi ích của nhân dân (cũng

gọi tắt là chức năng tổ chức xây dựng và chức năng trấn áp).

Trong hai chức năng đó, chức năng tổ chức xây dựng là chức năng cơ

bản nhất.

+ Nhiệm vụ cơ bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa:

Thứ nhất, trên lĩnh vực chính trị: nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ

quyền lực chủ yếu để bảo vệ sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua

sự lãnh đạo của chính Đảng của nó; thực hiện lợi ích của nhân dân; đảm bảo

sự thắng lợi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội;...

Thứ hai, trên lĩnh vực kinh tế nhà nước xã hội chủ nghĩa đại biểu cho

toàn thể xã hội thực hiện việc quản lý, vận hành toàn bộ tài sản quốc gia; tạo

điều kiện môi trường pháp luật cho sự phát triển kinh tế, phát triển lực lượng

sản xuất; đảm bảo việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần không ngừng

tăng lên của nhân dân;...

Đối với lĩnh vực kinh tế, nhà nước vô sản phải nhanh chóng phát triển

mạnh số lượng sản phẩm, củng cố kỷ luật lao động mới và nâng cao năng

suất lao động được xem là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.

Thứ ba, trên lĩnh vực văn hoá, xã hội: nhà nước xã hội chủ nghĩa thực

hiện việc quản lý mọi hoạt động văn hoá, xã hội bằng pháp luật và bằng

những chính sách đầu tư, khuyến khích sự phát triển toàn diện các hoạt động

văn hoá, xã hội theo mục tiêu phục vụ lợi ích của nhân dân, xây dựng nền

văn hoá mới xã hội chủ nghĩa;...

Đối với lĩnh vực xã hội, phải xây dựng được quan hệ xã hội mới, hình

thành những tổ chức lao động mới, tập hợp được đông đảo những người lao

động có khả năng vận dụng những thành tựu của khoa học - kỹ thuật vào sản

xuất, thực hiện từng bước cải tạo những người tiểu sản xuất hàng hóa thông

qua những tổ chức thích hợp.

- Tính tất yếu của việc xây dựng, củng cố nhà nước xã hội chủ nghĩa

Tính tất yếu của việc xây dựng, củng cố nhà nước xã hội chủ nghĩa

trong tiến trình xây dựng xã hội chủ nghĩa được phân tích ở những điểm căn

bản sau đây:

+ Chỉ có thiết lập và củng cố nhà nước xã hội chủ nghĩa mới có thể có

công cụ quyền lực để xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu

của xã hội.

+ Khi đã thiết lập được chế độ công hữu về tư liệu sản xuất thì chỉ có

xây dựng, củng cố nhà nước xã hội chủ nghĩa - với tư cách là đại biểu cho

toàn dân - thực hiện việc quản lý và vận hành tài sản công hữu đó vì mục

đích của nhân dân.

+ Chỉ có xây dựng, củng cố nhà nước xã hội chủ nghĩa thì nhân dân

mới có thể có công cụ quyền lực để thực hiện lợi ích chính đáng của mình

trước sự chống đối của kẻ thù giai cấp (trong và ngoài nước).

+ Chỉ có xây dựng, củng cố nhà nước xã hội chủ nghĩa thì chính Đảng

của giai cấp công nhân mới có thể có công cụ đắc lực cho việc thực hiện sự

lãnh đạo của mình đối với toàn thể xã hội; đồng thời mới có thể thực hiện

được việc huy động, thống nhất các lực lượng, nguồn lực của toàn xã hội vào

công cuộc xây dựng xã hội mới, đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp xây dựng

chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

Câu hỏi 146: Thế nào là “Văn hoá” và “nền văn hoá xã hội chủ nghĩa”?

Trả lời:

- Khái niệm văn hoá

Khái niệm “văn hoá” có một nội hàm hết sức phong phú, bởi vậy cho

đến nay có khá nhiều định nghĩa. Tuy nhiên, nếu nhìn từ góc độ bao quát

nhất, có thể định nghĩa: Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần

do con người sáng tạo ra trong lịch sử nhờ lao động của mình.

Theo khái niệm trên, có thể nói: cái cốt lõi của văn hoá chính là hệ giá

trị đóng vai trò làm cơ sở cho việc xây dựng nên một nền văn hoá nhất định,

như: nền văn hoá phương Đông, phương Tây, văn hoá Hy Lạp, văn hoá Phục

Hưng Tây Âu,...

Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong điều kiện xã hội có

giai cấp thì nội dung của văn hoá cũng có tính giai cấp. Từ đó có thể nói tới

các khái niệm theo tính giai cấp đó, như khi nói: nền văn hoá tư sản, nền văn

hoá vô sản hay nền văn hoá xã hội chủ nghĩa,...

- Khái niệm nền văn hóa xã hội chủ nghĩa

Nền văn hoá xã hội chủ nghĩa là một nền văn hoá được xây dựng trên

cơ sở hệ giá trị tư tưởng cách mạng của giai cấp công nhân; có sự kế thừa,

tiếp thu chọn lọc đối với những tinh hoa văn hoá đã được con người sáng tạo

ra trong lịch sử.

Như vậy, nền văn hoá xã hội chủ nghĩa là nền văn hoá có bản chất giai

cấp khác căn bản so với các nền văn hoá trước đây (thí dụ nền văn hoá tư

sản), thế nhưng nó lại là sự tiếp tục của sự phát triển văn hoá mà nhân loại

đã sáng tạo ra. V.I.Lênin đã từng nhấn mạnh rằng: “Văn hóa vô sản không

phải bỗng nhiên mà có, nó không phải do những người tự cho mình là chuyên

gia về văn hóa vô sản phát minh ra... Văn hóa vô sản phải là sự phát triển

hợp quy luật của tổng số những kiến thức mà loài người tích lũy được dưới

ách thống trị của xã hội tư bản, xã hội của bọn địa chủ và xã hội của bọn quan

liêu”.

- Những đặc trưng cơ bản của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa

Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa có những đặc trưng cơ bản sau đây:

Thứ nhất, đó là nền văn hoá được xây dựng trên nền tảng ý thức hệ

của giai cấp công nhân thể hiện tập trung ở hệ tư tưởng Mác - Lênin.

Thứ hai, đó là nền văn hoá có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc

sâu sắc; đó là nền văn hoá được sáng tạo bởi nhân dân lao động và phục vụ

lợi ích của nhân dân lao động.

Thứ ba, đó là nền văn hoá có sự kế thừa đối với những tinh hoa của

lịch sử văn hoá các dân tộc trên thế giới.

Câu hỏi 147: Tại sao xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa là một tất

yếu trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa? Quá trình xây dựng đó có

những nội dung cơ bản nào? Phương thức cơ bản của việc xây dựng nền

văn hoá đó?

Trả lời:

- Tính tất yếu của việc xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa

Tính tất yếu của việc xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa xuất phát

từ những căn cứ sau đây:

Thứ nhất, cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng xã hội

có tính chất toàn diện, triệt để: diễn ra trên mọi mặt của đời sống xã hội, trong

đó có lĩnh vực văn hoá. Theo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, mỗi phương

thức sản xuất sẽ tạo ra một phương thức sinh hoạt văn hoá tinh thần tương

ứng, đáp ứng nhu cầu phát triển của nó. Xây dựng phương thức sản xuất mới

tất yếu đòi hỏi phải xây dựng một phương thức sinh hoạt văn hoá tinh thần

tương ứng cho nhu cầu phát triển của phương thức sản xuất này - phương

thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.

Thứ hai, xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa cũng tất yếu đòi hỏi phải

từng bước xoá bỏ, cải tạo tính giai cấp trong nền văn hoá cũ (văn hoá tư sản,

văn hoá phong kiến,...) đồng thời xây dựng những giá trị văn hoá mới mang

bản chất của giai cấp công nhân, phục vụ lợi ích của toàn thể nhân dân lao

động.

Thứ ba, xây dựng nền văn hoá mới là nhằm tạo ra động lực văn hoá

đảm bảo phát huy được sức mạnh, nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân

lao động trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Thứ tư, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách

quan, bởi vì văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình xây dựng

chủ nghĩa xã hội.

- Những nội dung cơ bản của việc xây dựng nền văn hóa xã hội chủ

nghĩa

Việc xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa bao gồm những nội dung

chính sau đây:

+ Xây dựng và phát triển nền giáo dục quốc dân nhằm mục tiêu nâng

cao dân trí, trình độ học vấn cho nhân dân; tiến hành xây dựng và phát triển

đội ngũ trí thức mới xã hội chủ nghĩa phục vụ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa

xã hội.

+ Xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa với những nội dung phù

hợp với nhu cầu của sự nghiệp cách mạng (con người có sự phát triển toàn

diện về thể lực và trí lực; có năng lực lao động sáng tạo và ý thức tập thể, có

lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội,...).

+ Xây dựng lối sống mới theo hệ giá trị văn hoá mới - văn hoá xã hội

chủ nghĩa (mình vì mọi người, mọi người vì mình; tự do và bình đẳng cho mọi

người;...).

+ Xây dựng các cộng đồng văn hoá mới đáp ứng nhu cầu phát triển

của xã hội mới xã hội chủ nghĩa; trong đó, vấn đề xây dựng cộng đồng văn

hoá gia đình theo hệ giá trị mới xã hội chủ nghĩa giữ một vị trí vô cùng quan

trọng.

- Phương thức xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa

Để thực hiện được những nội dung chủ yếu của nền văn hóa xã hội

chủ nghĩa cần phải thực hiện các phương thức cơ bản sau đây:

+ Giữ vững và tăng cường vai trò chủ đạo của hệ tư tưởng giai cấp

công nhân trong đời sống tinh thần của xã hội; làm cho hệ tư tưởng khoa học

và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin trở thành hệ tư tưởng chủ đạo trong

đời sống tinh thần của nhân dân.

+ Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và vai trò

quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa đối với mọi hoạt động tư tưởng - văn

hoá của toàn xã hội.

+ Thực hiện phương thức kết hợp giữa việc kế thừa đối với những giá

trị trong di sản văn hóa dân tộc với tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của

văn hóa nhân loại.

+ Sử dụng mọi hình thức tổ chức thích hợp để lôi cuốn được đông đảo

nhất quần chúng nhân dân tham gia vào các hoạt động văn hoá và sáng tạo

văn hóa.

Câu hỏi 148: Trình bày khái niệm "dân tộc" và hai xu hướng phát triển

của dân tộc trong chủ nghĩa tư bản?

Trả lời:

- Khái niệm dân tộc

Khái niệm dân tộc thường được dùng với hai nghĩa:

+ Theo nghĩa rộng, khái niệm dân tộc dùng để chỉ những cộng đồng

người có bốn đặc trưng: cộng đồng về ngôn ngữ; cộng đồng về lãnh thổ;

cộng đồng về kinh tế; cộng đồng về văn hoá, về tâm lý, tính cách.

Theo nghĩa này, những cộng đồng người được gọi là "dân tộc" là kết

quả của sự phát triển hết sức lâu dài của các cộng đồng người trong lịch sử

nhân loại: từ cộng đồng thị tộc, bộ lạc đến cộng đồng bộ tộc và phát triển lên

hình thức tổ chức cộng đồng được gọi là dân tộc. Đồng thời, sự hình thành

dân tộc theo nghĩa này thường gắn với hình thức tổ chức nhà nước vì thế

cũng còn thường được gọi là “quốc gia - dân tộc”. Ví dụ nói: “các quốc gia

dân tộc châu Âu”,...). Trong các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác -

Lênin, khái niệm dân tộc thường được sử dụng theo nghĩa này.

Sự hình thành cộng đồng dân tộc có thể diễn ra sớm hay muộn khác

nhau tuỳ theo các điều kiện lịch sử. Ví dụ, ở các nước Tây Âu, sự ra đời của

các cộng đồng dân tộc khá muộn so với một số nước ở châu Á.

+ Theo nghĩa hẹp, khái niệm dân tộc dùng để chỉ các tộc người; tức là

dùng để chỉ các cộng đồng người có chung một số đặc điểm nào đó về kinh

tế, tập quán sinh hoạt văn hoá,... Ví dụ khi nói: dân tộc Kinh, Thái, Tày,

Nùng,... với tư cách là các cộng đồng dân tộc anh em tự nguyện gắn kết nhau

lại thành cộng đồng dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh dựng nước và

cứu nước.

- Hai xu hướng phát triển của dân tộc trong chủ nghĩa tư bản

Khi nghiên cứu về dân tộc và phong trào dân tộc trong chủ nghĩa tư

bản, V.I.Lênin đã phân tích và chỉ ra hai xu hướng phát triển có tính khách

quan của nó:

+ Xu hướng thứ nhất:

Do sự chín muồi của ý thức dân tộc, sự thức tỉnh về quyền sống của

mình, các cộng đồng dân cư muốn tách ra để thành lập các quốc gia dân tộc

độc lập. Thực tế này đã diễn ra ở những quốc gia, khu vực nơi có nhiều cộng

đồng dân cư với nguồn gốc tộc người khác nhau trong chủ nghĩa tư bản. Xu

hướng này biểu hiện thành phong trào đấu tranh chống áp bức dân tộc để

tiến tới thành lập các quốc gia dân tộc độc lập và có tác động nổi bật trong

giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản. Trong xu hướng đó, nhiều cộng đồng

dân cư đã ý thức được rằng, chỉ trong cộng đồng dân tộc độc lập, họ mới có

quyền quyết định con đường phát triển của dân tộc mình.

+ Xu hướng thứ hai:

Các dân tộc ở từng quốc gia, kể cả các dân tộc ở nhiều quốc gia muốn

liên hiệp lại với nhau. Sự phát triển của lực lượng sản xuất, của giao lưu kinh

tế, văn hóa trong chủ nghĩa tư bản đã tạo nên mối liên hệ quốc gia và quốc tế

mở rộng giữa các dân tộc, xóa bỏ sự biệt lập, khép kín, thúc đẩy các dân tộc

xích lại gần nhau.

Tuỳ từng điều kiện lịch sử khác nhau mà có thể diễn ra sự trội hơn của

xu hướng nào. Nói chung, trong điều kiện phát triển của chủ nghĩa tư bản, sự

vận động của hai xu hướng nói trên gặp rất nhiều trở ngại.

Câu hỏi 149: Trình bày những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác -

Lênin trong việc giải quyết các vấn đề dân tộc trong tiến trình xây dựng chủ

nghĩa xã hội?

Trả lời:

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong tiến trình cách mạng

xã hội chủ nghĩa, các vấn đề dân tộc cần phải được giải quyết trên cơ sở các

nguyên tắc cơ bản sau đây:

- Thứ nhất, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng.

+ Quyền bình đẳng giữa các dân tộc cần phải được coi là quyền thiêng

liêng bất khả xâm phạm. Bất kể cộng đồng dân tộc nào (cho dù đó là cộng

đồng có đông người hay ít người; có trình độ phát triển cao hay thấp;...) cũng

đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau; không thể có đặc quyền đặc lợi cho

riêng một dân tộc nào về các mặt: kinh tế, chính trị, văn hoá, ngôn ngữ,...

+ Trong phạm vi một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa

các dân tộc cần phải được nhà nước bảo vệ bằng pháp luật; đồng thời nhà

nước cần phải có chính sách phù hợp trong việc khắc phục sự chênh lệch về

trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội giữa các dân tộc, tạo nên sự phát

triển hài hoà giữa các dân tộc.

+ Trong phạm vi quan hệ giữa các quốc gia - dân tộc trên thế giới,

quyền bình đẳng dân tộc cần phải được gắn kết với cuộc đấu tranh chống

chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa bá quyền nước lớn; chống sự áp

bức, bóc lột của các nước tư bản phát triển đối với các nước lạc hậu, chậm

phát triển về kinh tế nhằm đạt được sự bình đẳng giữa các quốc gia - dân tộc

trên phạm vi quốc tế.

- Thứ hai, các dân tộc được quyền tự quyết.

+ Quyền tự quyết của các dân tộc là nói đến quyền làm chủ của mỗi

dân tộc mà trước hết và cơ bản là quyền các dân tộc có thể tự mình quyết

định con đường phát triển kinh tế, chính trị - xã hội của dân tộc mình, không

chịu sự ràng buộc, cưỡng bức của dân tộc khác.

+ Quyền tự quyết của các dân tộc bao gồm: quyền tự do phân tách,

hình thành nên cộng đồng quốc gia - dân tộc độc lập vì lợi ích chính đáng của

các dân tộc và quyền liên hiệp các dân tộc trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng

của các dân tộc.

- Thứ ba, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc.

+ Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc là một nội dung cơ bản trong

cương lĩnh dân tộc của V.I.Lênin; nó thể hiện bản chất quốc tế của giai cấp

công nhân và phản ánh mối quan hệ chặt chẽ giữa sự nghiệp giải phóng dân

tộc với giải phóng giai cấp; phản ánh tính thống nhất biện chứng giữa chủ

nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng.

+ Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc là một quan điểm có tính

nguyên tắc trong việc giải quyết các vấn đề dân tộc trong tiến trình cách mạng

xã hội chủ nghĩa; quan điểm này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc

giải quyết các vấn đề thuộc quyền bình đẳng giữa các dân tộc và quyền tự

quyết của cấc dân tộc.

Câu hỏi 150: Tôn giáo là gì? Vì sao có sự ra đời và tồn tại của tôn

giáo? Trình bày quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với việc giải

quyết các vấn đề tôn giáo trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa?

Trả lời:

- Khái niệm tôn giáo

Chủ nghĩa Mác - Lênin xác định khái niệm tôn giáo với tư cách là một

yếu tố thuộc thượng tầng kiến trúc của xã hội.

Với tư cách đó, có thể nói bất cứ một tôn giáo nào, với hình thái phát

triển của nó, cũng đều bao gồm: ý thức tôn giáo (thể hiện ở quan niệm về các

đấng thiêng liêng cùng những tín ngưỡng tương ứng) và hệ thống tổ chức tôn

giáo cùng với những hoạt động mang tính chất nghi thức tín ngưỡng của nó.

Tiêu biểu cho tôn giáo với nghĩa như vậy là Phật giáo, Thiên Chúa giáo

và Hồi giáo. Đây là những tôn giáo có tầm ảnh hưởng quốc tế, vượt qua

phạm vi nhiều quốc gia dân tộc. Ngoài ra, tại một số quốc gia hay các khu vực

còn có những tôn giáo có tầm ảnh hưởng ít hơn.

Khi phân tích bản chất tôn giáo với tư cách là một hình thái ý thức xã

hội, Ph.Ăngghen đã cho rằng: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản

ánh hư ảo vào trong đầu óc của con người - của những lực lượng bên ngoài

chi phối cuộc sống của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở

trần thế đã mang những hình thức của lực lượng siêu trần thế”.

- Nguồn gốc ra đời và tồn tại của tôn giáo

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, sự ra đời và tồn tại của tôn

giáo có nguồn gốc khách quan và chủ quan của nó; đó là:

Thứ nhất, do sự hạn chế về khả năng chinh phục của con người trước

sức mạnh tự phát của giới tự nhiên hay xã hội đã khiến cho con người sợ hãi

trước sức mạnh ấy, từ đó dẫn tới sự hình thành tín ngưỡng và cao hơn là sự

ra đời và tồn tại của tôn giáo.

(Khái niệm tín ngưỡng dùng để chỉ lòng tin và sự ngưỡng vọng của con

người về các đấng siêu nhiên; khái niệm này không đồng nghĩa với khái niệm

mê tín, dị đoan - là khái niệm dùng để chỉ lòng tin mù quáng của con người về

những điều thần bí trong tự nhiên hay xã hội).

Thứ hai, trong xã hội có sự thống trị của các giai cấp áp bức, bóc lột,

giai cấp này đã lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng,… để ru ngủ sức phản kháng

của nhân dân lao động trước sự áp bức bóc lột đó.

Thứ ba, khả năng nhận thức của con người trước thế giới vô cùng tận

là có hạn. Trong những giới hạn lịch sử nhất định, con người chưa thể giải

thích được hết mọi bản chất của các hiện tượng tự nhiên và xã hội, do đó dẫn

tới sự sùng bái chúng đến mức biến thành tín ngưỡng và tôn giáo.

Thứ tư, sự sợ hãi, bất lực và bất hạnh trong cuộc đời của mỗi cá nhân

khiến con người ta tìm đến tôn giáo như một chỗ dựa tinh thần hay như một

sự “đền bù hư ảo” trước cái gọi là “số phận”.

Thứ năm, trong tiến trình phát triển văn hoá truyền thống của các dân

tộc, các tộc người, tôn giáo, tín ngưỡng đã trở thành một thành tố của sự

phát triển văn hoá, nó hoà đồng và bám rễ sâu chắc vào các sinh hoạt đó và

đồng hành cùng sự phát triển văn hoá của các cộng đồng người trong lịch sử.

- Các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với việc giải

quyết các vấn đề tôn giáo trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa:

Giải quyết những vấn đề tôn giáo trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa

xã hội cần dựa trên những quan điểm cơ bản sau đây:

Một là, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, xét về mặt hình thái

ý thức xã hội thì ý thức tôn giáo là hình thái ý thức có nhiều hạn chế vì thế

trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cần phải được khắc phục và vượt

qua.

Tuy nhiên, cũng theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, cần phải

xem xét tôn giáo một cách toàn diện không chỉ trên những phương diện còn

có những hạn chế của nó mà còn phải là trên mặt tích cực của nó.

Hai là, khi tín ngưỡng tôn giáo còn là nhu cầu tinh thần của một bộ

phận nhân dân thì nhà nước xã hội chủ nghĩa cần phải tôn trọng và bảo đảm

quyền tự do tôn giáo và tín ngưỡng của nhân dân; bảo đảm sự bình đẳng

pháp luật về quyên lợi và nghĩa vụ giữa những người theo tôn giáo khác nhau

cũng như giữa người có tôn giáo với người không có tôn giáo; nghiêm cấm

những hành vi lợi dụng tôn giáo để xâm phạm lợi ích của nhân dân;...

Ba là, thực hiện đoàn kết những người có tôn giáo với những người

không có tôn giáo; đoàn kết các tôn giáo; đoàn kết những người theo tôn giáo

với những người không theo tôn giáo;... đồng thời, nghiêm cấm mọi hành vi

chia rẽ cộng đồng vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.

Bốn là, trong việc giải quyết các vấn đề tôn giáo cần phải phân biệt rõ

mặt chính trị và mặt tư tưởng của nó. Mặt tư tưởng của vấn đề tôn giáo phản

ánh nhu cầu tín ngưỡng và nhận thức của con người - đó là công việc lâu dài

và cần phải có thái độ tôn trọng; còn mặt chính trị của vấn đề tôn giáo là nói

sự lợi dụng tôn giáo (tư tưởng, tín ngưỡng hay hoạt động tôn giáo,...) để xâm

hại lợi ích của nhân dân lao động, chống lại tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã

hội,... thì cần phải giải quyết ngay, giải quyết triệt để với những biện pháp

thích hợp.

Năm là, phải có quan điểm lịch sử - cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn

giáo vì rằng một mặt trong mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò và sự tác

động của từng tôn giáo cũng có sự khác nhau; mặt khác, ngay cả đối với một

tôn giáo nào đó, thậm chí một vấn đề cụ thể nào đó của một tôn giáo nhất

định cũng có thể có vai trò khác nhau trong những điều kiện lịch sử khác

nhau.

CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN THỰC VÀ TRIỂN VỌNG

Câu hỏi 151: Chủ nghĩa xã hội hiện thực ra đời đầu tiên ở đâu? Nó đã

có tác dụng tích cực nào đối với phong trào cách mạng trên thế giới?

Trả lời:

- Chủ nghĩa xã hội hiện thực ra đời đầu tiên ở nước Nga Xôviết với sự

kiện Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917.

Ngày 7-11-1917, Đảng Bônsêvích Nga, đứng đầu là V.I.Lênin, đã lãnh

đạo quần chúng nhân dân khởi nghĩa vũ trang xoá bỏ quyền lực của chính

phủ lâm thời tư sản tại nước Nga, giành “toàn bộ chính quyền về tay Xôviết”.

Lần đầu tiên trong lịch sử, một nhà nước kiểu mới - Nhà nước Xôviết - nhà

nước của nhân dân lao động do V.I.Lênin đứng đầu, đã được xác lập. Với

quyền lực mới của mình nhân dân lao động Nga đã ngay lập tức bắt tay vào

việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa - đó là

một xã hội do nhân dân làm chủ dưới sự lãnh đạo của chính Đảng của mình.

- Sự kiện Cách mạng Tháng Mười đã thức tỉnh hàng triệu con người

lao động và các dân tộc đang bị áp bức, bị bóc lột dưới ách thống trị của tư

bản và chủ nghĩa thực dân hướng về nó như hướng về tương lai của chính

mình để đấu tranh cho sự giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách

mạng Tháng Mười Nga chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu hàng

triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng

có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”.

Câu hỏi 152: Chủ nghĩa xã hội hiện thực đầu tiên ở nước Nga Xôviết

đã được xây dựng thế nào dưới sự lãnh đạo của V.I.Lênin?

Trả lời:

Những nghiên cứu tìm tòi về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở

Liên Xô dưới sự lãnh đạo của V.I.Lênin, nói chung có thể phân chia làm ba

thời kỳ là: thời kỳ củng cố Chính quyền xôviết; thời kỳ nội chiến và can thiệp

vũ trang của nước ngoài, tức thời kỳ chủ nghĩa cộng sản thời chiến; thời kỳ

chuyển từ chính sách kinh tế thời chiến sang chính sách kinh tế mới.

Từ tháng 11-1917 đến mùa Xuân năm 1918, trên cơ sở Chính quyền

xôviết đã thực hiện nhiệm vụ “tước đoạt của kẻ tước đoạt”, quốc hữu hóa

ngân hàng và những ngành công nghiệp lớn nhờ đó mà giai cấp vô sản có

thể nắm trong tay sinh mệnh và huyết mạch của nền kinh tế. Tháng 3-1918,

Nga và Đức ký hòa ước, chiến tranh tạm dừng, nhờ đó mà nước Nga Xôviết

có được cơ hội hoà bình chưa đầy nửa năm. V.I.Lênin đã nắm bắt cơ hội hòa

bình hiếm hoi này, lập kế hoạch sơ bộ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong tác

phẩm Những nhiệm vụ trước mắt của Chính quyền xôviết và Luận về tính

chất tiểu tư sản và tính chất ấu trĩ tả khuynh, V.I.Lênin đã phác thảo kế hoạch

sơ bộ của sự quá độ của nước Nga Xôviết tiến lên chủ nghĩa xã hội, đã nêu

ra biện pháp và con đường thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa.

Việc xác lập và củng cố Chính quyền xôviết đã làm cho những kẻ thù

địch nước ngoài hết sức lo sợ. Từ nửa cuối năm 1918, chủ nghĩa đế quốc đã

tập hợp liên minh 14 nước, phát động cuộc can thiệp vũ trang vào Chính

quyền xôviết, đồng thời chúng lại phát động cuộc nội chiến bạo động ngay

bên trong nước Nga. Để đảm bảo chiến thắng trên chiến trường và bảo vệ

được Chính quyền xôviết non trẻ, xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ

nghĩa, từ mùa Hạ năm 1918 đến mùa Xuân năm 1919, Chính quyền xôviết

dưới sự lãnh đạo của V.I.Lênin đã tiến hành thủ tiêu quan hệ hàng hóa - tiền

tệ và thực hiện chính sách kinh tế phù hợp với đặc trưng của thời chiến tranh,

trên phương diện kinh tế đã thực thi hàng loạt những biện pháp có tính chất

cưỡng chế. Chính sách cộng sản thời chiến là một loại chính sách có tính lâm

thời phù hợp với điều kiện lịch sử cấp bách của nước Nga Xôviết trong thời

kỳ nội chiến và có sự can thiệp vũ trang của nước ngoài. Đúng như V.I.Lênin

đã từng chỉ ra rằng: để cứu nhà nước, cứu quân đội, cứu chính quyền công

nông thì lúc đó tất nhiên phải làm như vậy. Việc thực thi chính sách cộng sản

thời chiến có một tác dụng vô cùng quan trọng đối với việc đập tan sự can

thiệp vũ trang của bọn đế quốc bên ngoài và phản loạn chống phá cách mạng

từ bên trong, bảo vệ được Chính quyền xôviết non trẻ. Thế nhưng, dùng biện

pháp mệnh lệnh trực tiếp của nhà nước vô sản để điều tiết nền sản xuất và

phân phối sản phẩm trong một xã hội tiểu nông thì đó là cách làm thoát ly

thực tế kinh tế.

Cuối năm 1920, bọn can thiệp vũ trang bên ngoài rút lui và cuộc nội

chiến cũng chấm dứt. Năm 1921 là thời kỳ bước đầu chuyển sang xây dựng

và khôi phục kinh tế trong hòa bình. Thời kỳ này nền kinh tế quốc dân đứng

trước những hậu quả bị tàn phá nặng nề, trong nước phải đối mặt với những

nguy cơ khủng hoảng kinh tế và chính trị nghiêm trọng. Trong tình hình như

vậy, V.I.Lênin cảm nhận được sâu sắc rằng nếu không cải cách các chính

sách thì sẽ mất quần chúng, sẽ đánh mất cơ sở giai cấp. Tháng 3-1921, Đại

hội X của Đảng Bônsêvích được triệu tập, quyết định bước chuyển từ chính

sách kinh tế thời chiến sang phát triển kinh tế hàng hóa, coi đó là đặc trưng

chủ yếu của chính sách kinh tế mới. Quyết định này đã thể hiện sự biến đổi

rất lớn trong tư tưởng của V.I.Lênin về xây dựng chủ nghĩa xã hội, nó là một

sự nhận thức mới về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước còn

cơ bản là kinh tế tiểu nông như nước Nga, nó là tiêu thức đánh dấu việc

V.I.Lênin đã tìm kiếm được con đường thích hợp cho việc xây dựng chủ

nghĩa xã hội ở nước Nga. Việc thực thi Chính sách kinh tế mới đã trở thành

mấu chốt cho việc cứu nguy sự khủng hoảng kinh tế của nước Nga, nó đã

làm sống động lại nền kinh tế nông thôn của nước Nga Xôviết, đã phát triển

sản xuất, tăng cường được cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa của nước Nga

Xôviết, cải thiện được đời sống văn hóa vật chất của người nông dân, công

nhân và người lao động nói chung.

Trong thời kỳ giành được thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở

nước Nga, đặc biệt là trong thời kỳ thực hiện Chính sách kinh tế mới,

V.I.Lênin đã có những khảo cứu rất sâu sắc về mặt lý luận của vấn đề cần

phải xây dựng chủ nghĩa xã hội như thế nào ở nước Nga Xôviết, ông đã lý

giải nhiều vấn đề hết sức tinh túy. Trước hết, để xây dựng chủ nghĩa xã hội

thì cần phải không ngừng có sự nghiên cứu khảo nghiệm lâu dài thông qua

thực tiễn. Thứ hai, cần phải coi việc phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao

năng suất lao động là nhiệm vụ quan trọng ở vị trí đầu tiên. Thứ ba, trong điều

kiện còn tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần thì phải lợi dụng kinh tế thị

trường để phát triển nền kinh tế. Thứ tư, phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản để

xây dựng chủ nghĩa xã hội. V.I.Lênin còn chỉ ra tính chất đặc biệt quan trọng

của việc xây dựng một chính đảng mácxít cầm quyền, chỉ rõ tầm quan trọng

của việc xây dựng một nền văn hóa và tư tưởng mới, đề xuất hàng loạt các

biện pháp để tăng cường xây dựng chính quyền nhà nước và phát huy nền

dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nắm bắt thấu đáo tình hình trong nước, nhận thức

rõ những vấn đề phải đối mặt và những vấn đề mới, không câu nệ vào những

kết luận đã có, mà cần phải “căn cứ vào những kinh nghiệm mà bàn về chủ

nghĩa xã hội”, tất cả đều cần phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng thực tiễn

sống động của hàng triệu quần chúng nhân dân, dũng cảm tìm tòi, mạnh dạn

sáng tạo cái mới, nỗ lực đem những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác mà

vận dụng một cách thích hợp vào điều kiện cụ thể của nước Nga, đưa ra

được con đường thích hợp cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong tình

hình cụ thể của đất nước. Đây chính là những cống hiến vĩ đại của V.I.Lênin

đối với chủ nghĩa Mác, đó cũng là những di sản quý báu để lại cho hậu thế

chúng ta. V.I.Lênin đã để lại rất nhiều di sản quý báu như: Nhật ký trích lục,

Bàn về hợp tác xã, Luận về cách mạng nước Nga, Làm thế nào đê cải tổ Viện

kiểm sát công nông, Thà ít mà tốt. Những di cảo này được coi là những bản

“di chúc chính trị” của V.I.Lênin. Trong những di cảo này, V.I.Lênin đã những

suy nghĩ hết sức sâu sắc về con đường tương lai Cách mạng Tháng Mười

Nga tất yếu sẽ phải trải qua, xuất ra những ý tưởng mới về việc xây dựng chủ

nghĩa hội. Những ý tưởng mới này chủ yếu bao gồm: dùng hợp tác xã làm

con đường dẫn dắt nông dân đi vào chủ nghĩa xã hội; phát triển nền đại công

nghiệp, thực hiện nghiệp hóa và điện khí hóa, học tập và sử dụng tất cả

những gì có giá trị của chủ nghĩa tư bản, tiến hành mạng văn hóa, ra sức phát

triển sự nghiệp văn hóa giáo dục; tiến hành cải tổ cơ cấu Nhà nước và Đảng,

nỗ lực nâng cao tố chất và năng lực cán bộ; sự cần thiết chống chủ nghĩa

quan liêu, xây dựng nền dân chủ và pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ sự

đoàn kết trong Đảng, biệt là sự đoàn kết trong nội bộ Trung ương Đảng Cộng

Sản Liên Xô. Những tư tưởng này có một ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với

chúng ta.

Câu hỏi 153: Mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực đã được xây dựng

thế nào trong thời kỳ sau khi V.I.Lênin qua đời? Nhận định thế nào về vai trò

lịch sử của mô hình đó?

Trả lời:

Sau khi V.I.Lênin qua đời đã xảy ra những bất đồng lớn trong Đảng

Cộng sản Liên Xô cũng như trong giới lý luận của Đảng đối với những vấn đề

về mô hình và những biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô. Sau

những cuộc tranh luận kéo dài, tư tưởng xây dựng chủ nghĩa xã hội theo

quan điểm của I.V.Stalin đã chiếm được địa vị chủ đạo. Tháng 10-1928, Liên

Xô bắt đầu thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, lấy việc phát triển công

nghiệp nặng làm trung tâm của công cuộc công nghiệp hóa đất nước, hoàn

thành vào cuối năm 1932. Năm 1933, khi tổng kết những thành tựu Kế hoạch

5 năm lần thứ nhất, Chính phủ Liên Xô đã khẳng định tỷ trọng công nghiệp

trong nền kinh tế quốc dân đã đạt tới 70%, do vậy Liên Xô từ một nước nông

nghiệp trở thành một nước công nghiệp. Do chỗ đã tiêu diệt những thành

phần kinh tế tư bản chủ nghĩa trong những ngành công nông nghiệp nên hệ

thống kinh tế xã hội chủ nghĩa đã trở thành hình thức duy nhất trong công

nghiệp. Do đã tiêu diệt được giai cấp phú nông nên hệ thống kinh tế xã hội

chủ nghĩa đã trở thành cơ sở kinh tế ổn định trong nông nghiệp. Chế độ nông

trang tập thể đã xóa bỏ được hiện tượng nghèo khó trong nông thôn, đã tiêu

diệt được hiện tượng thất nghiệp, đã giành được thắng lợi trong tất cả các

ngành kinh tế quốc dân, đã tiêu diệt được hiện tượng bóc lột. Tháng 12-1936,

Đại hội đại biểu lần thứ 8 toàn Liên bang xôviết đã thông qua bản Hiến pháp,

trong đó có tuyên bố Liên Xô đã trở thành nước xã hội chủ nghĩa.

Trong quá trình đó, mô hình Liên Xô cũng được xác lập. Đặc trưng cơ

bản của mô hình Liên Xô trên phương diện kinh tế để xem xét thì nó là cái

được tạo nên từ hai bộ phận là: chiến lược phát triển kinh tế và thể chế kinh

tế. Trên phương diện chiến lược phát triển kinh tế thì chủ yếu là nhiệm vụ

phát triển cao độ nền kinh tế quốc dân, coi trọng phát triển công nghiệp nặng,

thực hiện việc chuyển từ một nước nông nghiệp sang một nước công nghiệp.

Tương ứng với chiến lược phát triển kinh tế này thì trên phương diện thể chế

kinh tế hình thành nên trong kết cấu sở hữu một thể chế công hữu đơn nhất

về tư liệu sản xuất, hoàn toàn loại trừ cơ chế thị trường ra khỏi sự vận hành

của nền kinh tế, hoàn toàn sử dụng biện pháp hành chính, hoàn thành mô

hình kinh tế kế hoạch có tính pháp lệnh tập trung. Trên phương diện chính trị,

chủ yếu là thực hiện chế độ lãnh đạo tập trung của Đảng và Nhà nước mang

tính chất tập quyền, thực hiện chế độ bổ nhiệm cán bộ từ trên xuống dưới, cơ

chế kiểm soát rất yếu và hiệu quả thấp.

Mô hình Liên Xô là một loại mô hình đặc thù được sản sinh ra trong một

hoàn cảnh đặc biệt, nó đã từng có tác dụng củng cố và phát triển chế độ xã

hội chủ nghĩa, có tác dụng thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của lực lượng

sản xuất của xã hội, đã xác lập được nền công nghiệp nặng, đặc biệt là sự

phát triển công nghiệp quốc phòng. Liên Xô trong vòng bao vây của chủ nghĩa

đế quốc đã xác lập được cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, đời sống vật

chất và văn hóa của nhân dân được nâng cao. Hình thức này đã đảm bảo

cho Liên Xô có được những cơ sở vật chất và con người để chiến thắng chủ

nghĩa phátxít trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Thế nhưng cùng với sự phát

triển của kinh tế - xã hội thì những hạn chế của mô hình này cũng dần dần

bộc lộ ra mà chủ yếu là: quá tập trung, quản lý quá chặt theo kiểu hành chính,

phủ nhận tác dụng của cơ chế thị trường, không phát huy được tính tích cực

của xí nghiệp và người lao động. Lịch sử phát triển của chủ nghĩa xã hội đã

chứng minh: mô hình Liên Xô là sản phẩm của một điều kiện lịch sử đặc thù,

nó không phải là hình thức duy nhất của chủ nghĩa xã hội.

Mặc dù vậy, với ảnh hưởng to lớn của cuộc Cách mạng Tháng Mười

Nga và những thành công trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên

Xô, nhân dân lao động các nước trên thế giới, sau khi giành được chính

quyền nhà nước (sau Chiến tranh thế giới thứ hai) đã quyết định đi theo con

đường chủ nghĩa xã hội; trong đó, mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực mà

Liên Xô đã xây dựng, trong thực tế đã trở thành mô hình lý tưởng cần học

tập. Giữa các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa đều có những sự khác

nhau ít nhiều, nhưng về căn bản vẫn là mô hình chủ nghĩa xã hội theo kiểu

mà Liên Xô đã xây dựng.

Câu hỏi 154: Vì sao chủ nghĩa xã hội hiện thực lâm vào tình trạng

khủng hoảng và sụp đổ ở Liên Xô và các nước Đông Âu?

Trả lời:

Bắt đầu từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX, Liên Xô và các nước xã

hội chủ nghĩa Đông Âu bước vào thời kỳ khủng hoảng. Từ tháng 4-1989 trở

đi, sự đổ vỡ diễn ra liên tiếp ở các nước Đông Âu. Chỉ trong vòng 2 năm, đến

tháng 9-1991, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và 6 nước Đông Âu đã bị

sụp đổ hoàn toàn. Sự đổ vỡ cũng diễn ra ở Mông Cổ, Anbani, Nam Tư. Sự

khủng hoảng và sụp đổ này cũng chính là sự khủng hoảng và sụp đổ của một

mô hình chủ nghĩa xã hội.

Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến sự khủng

hoảng của chủ nghĩa xã hội hiện thực.

- Nguyên nhân sâu xa:

Nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự khủng hoảng và sụp đổ của chủ nghĩa

xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu là do sự chậm đổi mới đối

với những bất cập trong mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội trước những biến

đổi của hoàn cảnh lịch sử.

Cụ thể:

Bất cứ một sự kiện lịch sử lớn nào của xã hội cũng đều có nguyên

nhân sâu xa của nó. Sự khủng hoảng và sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện

thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu cũng vậy.

Ở Liên Xô, sau khi V.I.Lênin qua đời, Chính sách kinh tế mới không

được tiếp tục thực hiện mà chuyển sang kế hoạch hoá tập trung cao độ. Thời

gian đầu, kế hoạch hoá tập trung đã phát huy mạnh mẽ tác dụng, song đã

biến dạng thành kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp. Sau Chiến tranh

thế giới thứ hai, Liên Xô vẫn tiếp tục duy trì mô hình này. Mô hình này đã

tuyệt đối hoá cơ chế kế hoạch hoá tập trung cao, từ bỏ hay gần như từ bỏ

một cách chủ quan duy ý chí nền kinh tế hàng hoá, cơ chế thị trường, thực

hiện chế độ bao cấp tràn lan, triệt tiêu tính chủ động, sáng tạo của người lao

động.

Do chậm đổi mới cơ chế kinh tế, hệ thống quản lý, nói chung là chậm

đổi mới mô hình của chủ nghĩa xã hội, nên hậu quả là Liên Xô đang rút ngắn

dần khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế so với các nước tư bản phát

triển thì từ giữa những năm 70 của thế kỷ XX tình hình diễn ra theo chiều

hướng ngược lại. Sự thua kém rõ rệt của Liên Xô thể hiện trong lĩnh vực công

nghệ và năng suất lao động. Mà đây lại là yếu tố như V.I.Lênin nói, xét đến

cùng sẽ quyết định thắng lợi hoàn toàn của chế độ mới.

Những sai lầm chủ quan nghiêm trọng kéo dài đã nói ở trên cản trở sự

đổi mới đúng đắn là nguyên nhân sâu xa làm cho chế độ xã hội chủ nghĩa bị

suy yếu, rơi vào khủng hoảng. Đó không phải những sai lầm khuyết tật do

bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, mà do quan niệm giáo điều về chủ

nghĩa xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ

nghĩa xã hội của Đảng ta chỉ rõ: “Do duy trì quá lâu những khuyết tật của mô

hình cũ của chủ nghĩa xã hội, chậm trễ trong cách mạng khoa học và công

nghệ” nên gây ra tình trạng trì trệ kéo dài về kinh tế - xã hội rồi đi tới khủng

hoảng.

- Nguyên nhân chủ yếu, trực tiếp:

Nguyên nhân chủ yếu, trực tiếp dẫn tới sự khủng hoảng và sụp đổ của

chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu là do những sai

lầm nghiêm trọng trong đường lối chính trị, tư tưởng, tổ chức trong tiến trình

cải tổ ở Liên Xô không được nhanh chóng sửa chữa và sự can thiệp của các

thế lực thù địch đối với chủ nghĩa xã hội.

Cụ thể:

Thứ nhất, về những sai lầm nghiêm trọng trong đường lối chính trị, tư

tưởng và tổ chức không được nhanh chóng sửa chữa.

Cuộc cải tổ ở Liên Xô bắt đầu từ năm 1986 đã kết thúc trong sự đổ vỡ

hoàn toàn năm 1991 vì đường lối cải tổ thực chất là đường lối trượt dài từ cơ

hội hữu khuynh đến xét lại, đến từ bỏ hoàn toàn chủ nghĩa Mác - Lênin.

Những lời tuyên bố lúc ban đầu: “cải tổ để có nhiều dân chủ hơn, nhiều chủ

nghĩa xã hội hơn”, “chúng ta sẽ đi tới chủ nghĩa xã hội tốt đẹp hơn chứ không

đi ra ngoài nó”, “chúng ta tìm trong khuôn khổ của chủ nghĩa xã hội chứ

không phải ở ngoài giới hạn của nó những câu trả lời cho các vấn đề do cuộc

sống đặt ra”, v.v., rốt cuộc chỉ là những tuyên bố suông ngụy trang cho ý đồ

phản bội.

Những người lãnh đạo cải tổ lùi dần từng bước, từng bước, thậm chí

ngày càng công khai tuyên bố từ bỏ những mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà họ

đã từng hứa hẹn, từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, từ bỏ vai trò lãnh đạo của

Đảng Cộng sản.

Chủ trương đưa ra lúc đầu là “tăng tốc” về kinh tế để chấm dứt sự trì

trệ. Đẩy mạnh nhịp độ phát triển không có gì sai mà là tất yếu, bức bách. Vấn

đề là tăng tốc bằng cách nào thì không có câu trả lời đúng đắn. Đổi mới công

nghệ bằng cách nào cũng bế tắc. Người ta liền quy cho cơ chế quản lý kinh tế

nhưng rồi cũng trầy trật; người ta đã chuyển nhanh sang cải tổ chính trị coi

đây là “cái chìa khoá” cho mọi vấn đề. Hội nghị Đảng toàn quốc lần thứ 19

(năm 1988) chủ trương chuyển trọng tâm sang cải tổ hệ thống chính trị trên

cơ sở cái gọi là “tư duy chính trị mới”. Thực chất đó là sự thoả hiệp vô nguyên

tắc, là sự đầu hàng, là từ bỏ lập trường giai cấp, là sự phản bội chủ nghĩa

Mác - Lênin, phản bội sự nghiệp xã hội chủ nghĩa. Cuộc cải cách chính trị

đánh thắng vào hệ thống chính trị của chủ nghĩa xã hội, trước hết là vào tổ

chức Đảng. Nhóm lãnh đạo cải tổ tìm cách loại bỏ khỏi uỷ ban Trung ương

Đảng hàng loạt những người không tán thành đường lối sai lầm của cải tổ,

kiên trì đường lối chủ nghĩa Mác - Lênin. Những người ngấm ngầm hoặc

công khai thù địch với chủ nghĩa Mác - Lênin chiếm các vị trí chủ chốt trong

bộ máy của Đảng và Nhà nước.

Bằng phát súng lệnh “công khai”, “dân chủ”, “không có vùng cấm”, cải

tổ đã nhanh chóng tạo ra làn sóng phê phán, công kích, bôi đen tất cả những

gì gắn với lịch sử 70 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, phủ định sạch trơn mọi

thành tựu của chủ nghĩa xã hội. Nó gây hoang mang, xáo động đến cực độ

trong tư tưởng xã hội, phá vỡ niềm tin của quần chúng đối với những giá trị

của chủ nghĩa xã hội. Người ta sử dụng toàn bộ phương tiện thông tin đại

chúng để làm việc này và chiến dịch tuyên truyền, đào bới, phủ định, xuyên

tạc quá khứ được các đài, báo phương Tây tiếp sức mạnh mẽ và lái theo

những ý đồ, mục đích đen tối của chúng.

Thứ hai, về sự can thiệp của các thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội.

Chủ nghĩa đế quốc thường xuyên tiến hành một cuộc chiến tranh khi

bằng súng đạn, khi bằng “diễn biến hoà bình” chống chủ nghĩa xã hội, chống

Liên Xô. Chủ nghĩa đế quốc đã gây ra cuộc chiến tranh lạnh từ sau Chiến

tranh thế giới thứ hai. Các chiến lược gia phương Tây sớm nhận ra “cái gót

chân Asin” của cải tổ: đó là đường lối xét lại, là hệ tư tưởng tư sản, là chính

sách thoả hiệp, nhân nhượng vô nguyên tắc với Mỹ và phương Tây thể hiện

tập trung ở “tư duy chính trị mới”. Các thế lực chống chủ nghĩa xã hội ở bên

ngoài theo sát quá trình cải tổ, tìm mọi cách để lái nó đi theo ý đồ của họ. Các

thế lực bên ngoài tác động vào cải tổ cả về tư tưởng, chính trị và tổ chức.

Hứa hẹn viện trợ kinh tế được dùng làm một thứ vũ khí rất lợi hại để lái cuộc

cải tổ theo quỹ đạo mà phương Tây mong muốn. Chủ nghĩa đế quốc đã đẩy

mạnh thực hiện “diễn biến hoà bình” trong nội bộ Liên Xô và Đông Âu. Trong

cuốn sách Chiến thắng không cần chiến tranh. R.Níchxơn cho rằng “mặt trận

tư tưởng là mặt trận quyết định nhất”. Ông ta viết: toàn bộ vũ khí của chúng

ta, các hiệp định mậu dịch, viện trợ kinh tế sẽ không đi đến đâu nếu chúng ta

thất bại trên mặt trận tư tưởng. Chiến lược của Mỹ trước sau như một là đưa

chiến tranh vào bên trong “bức màn sắt”.

Tóm lại, sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc cùng với sự phản bội từ

bên trong và từ trên chóp bu của cơ quan lãnh đạo cao nhất là nguyên nhân

trực tiếp làm cho Liên Xô sụp đổ. Hai nguyên nhân này quyện chặt vào nhau,

tác động cùng chiều, tạo nên một lực cộng hưởng rất mạnh và nhanh như

một cơn lốc chính trị trực tiếp phá sập ngôi nhà xã hội chủ nghĩa. Tất nhiên,

xét cho cùng chính bọn cơ hội, xét lại và phản bội, sự mất cảnh giác cách

mạng trong hàng ngũ những người cộng sản đã tạo ra “cơ hội vàng” cho chủ

nghĩa đế quốc “chiến thắng mà không cần chiến tranh”.

Trong tình hình chủ nghĩa xã hội trì trệ và khủng hoảng do những sai

lầm của mô hình cũ thì cải tổ, cải cách mở cửa, đổi mới là tất yếu. Vì chỉ có

một cuộc cải tổ, cải cách, đổi mới sâu sắc, toàn diện mới đưa chủ nghĩa xã

hội thoát khỏi khủng hoảng để bước vào thời kỳ phát triển mới. Cải tổ, cải

cách, mở cửa, đổi mới là tất yếu nhưng sụp đổ thì không là tất yếu. Vấn để ở

chỗ: cải tổ, cải cách, mở cửa, đổi mới thế nào, nhằm mục đích gì, theo đường

lối nào?

Câu hỏi 155: Có thể nhận định thế nào cho đúng về vai trò của chủ

nghĩa xã hội hiện thực đối với tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại? Sự

khủng hoảng và sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các

nước Đông Âu có đồng nghĩa với cái gọi là “sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội”

không? Tại sao?

Trả lời:

- Nhận định thế nào cho đúng về vai trò của chủ nghĩa xã hội hiện thực

đối với tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại?

Thế kỷ XX là thế kỷ vĩ đại đầy những biến động lớn lao. Trong thế kỷ

này đã liên tục phát sinh những ảnh hưởng sâu sắc và trọng đại, còn có ảnh

hưởng mạnh mẽ đến thế kỷ XXI, đó là sự thành công của cách mạng xã hội

chủ nghĩa, sự xác lập và phát triển của chế độ xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã

hội đã từ lý luận biến thành hiện thực, từ một nước phát triển đến nhiều nước,

đây là một bước đại nhảy vọt của sự phát triển lịch sử nhân loại. Chế độ xã

hội chủ nghĩa là một công hiến lớn đối với lịch sã phát triển của xã hội loài

người.

Thứ nhất, chủ nghĩa xã hội đã bắt đầu trở thành một loại chế độ xã hội

mới phát huy tác dụng đối với lịch sử xã hội loài người. Trong thời kỳ chủ

nghĩa xã hội giành được những thắng lợi vĩ đại, dân số các nước xã hội chủ

nghĩa đã chiếm đến 1/3 dân số thế giới, còn diện tích lãnh thổ chiếm đến 1/4.

Phong trào xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa đã không

ngừng được phát huy, nó đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa

và các lĩnh vực khác của các nước này, nó đã thúc đẩy quá trình công nghiệp

hóa, hiện đại hóa các nước này. Sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ của

các nước xã hội chủ nghĩa cũng đã tạo thành một áp lực rất lớn đối với chủ

nghĩa tư bản, buộc các nước tư bản chủ nghĩa cũng phải cải thiện những điều

kiện sinh hoạt của người lao động và giai cấp công nhân trên nhiều phương

diện ở một mức độ nhất định. Với sự xác lập và phát triển của chủ nghĩa xi

hội thì tổ chức các Đảng Cộng sản - đội quân tiên phong của giai cấp công

nhân trên thế giới cũng đã có những sự phát triển lớn mạnh. Nó từng bước

làm thay đổi tương quan so sánh lực lượng trên vũ đài chính trị thế giới, tạo

cơ sở làm suy yếu nền chính trị tư sản, cổ vũ và củng cố niềm tin cho nhân

dân thế giới vào sự nghiệp tiến bộ, đem lại cho sự phát triển của thế giới

đương đại những nội dung mới, từ đó mà tăng cường sức sống mới.

Thứ hai, sự tồn tại và ảnh hưởng trên các phương diện kinh tế, chính

trị, ngoại giao, quân sự của các nước xã hội chủ nghĩa đã làm thay đổi cục

diện chính trị thế giới mà ở một mức độ nhất định nó đã hạn chế được sự

bành trướng trên phạm vi thế giới của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa bá

quyền của các nước đế quốc. Lực lượng xã hội chủ nghĩa đã tham gia vào

hoạt động chính trị quốc tế, xuất phát từ lợi ích căn bản của quần chúng nhân

dân thế giới. Đứng vững trên lập trường bảo vệ hòa bình thế giới và sự tiến

bộ của nhân loại, nó đã phát huy những tác dụng tích cực, từng bước một

làm thất bại và sụp đổ mưu đồ cùng dã tâm của chủ nghĩa tư bản hòng nô

dịch nhân dân thế giới. Lực lượng xã hội chủ nghĩa cùng với nhân dân thế

giới đã giành được thắng lợi trong cuộc chiến tranh chống chủ nghĩa phátxít,

đây là một bằng chứng đầy sức thuyết phục về sức mạnh và tính ưu việt của

chủ nghĩa xã hội. Bất cứ một sự tranh chấp và can thiệp nào vào sự an toàn

của thế giới nếu không có sự tham gia của các nước xã hội chủ nghĩa thì nhất

định sẽ không thể đạt được sự giải quyết công bằng và thỏa mãn đầy đủ.

Trong mọi hoạt động kinh tế và chính trị của thế giới đương đại đều bao gồm

trong đó địa vị và tác dụng quan trọng của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân

dân tiến bộ thế giới. Thời đại mà chủ nghĩa tư bản làm mưa làm gió, bá chủ

thế giới, thống soái thiên hạ nhất định không thể quay trở lại nữa. Đương

nhiên cần phải tỉnh táo mà nhận thức rằng sau khi Liên Xô sụp đổ thì phong

trào xã hội chủ nghĩa đang ở vào giai đoạn thoái trào, các nước xã hội chủ

nghĩa cần phải tăng cường lực lượng lớn mạnh của mình để đứng vững và

chiến thắng.

Thứ ba, lực lượng xã hội chủ nghĩa cần phải kiên trì bảo vệ các dân tộc

và nhân dân bị áp bức, thúc đẩy phong trào đấu tranh vì hòa bình và sự tiến

bộ trên thế giới. Sự lớn mạnh của chủ nghĩa xã hội đã thúc đẩy sự phát triển

của phong trào đấu tranh giải phóng các dân tộc ở châu Á châu Phi và khu

vực Mỹ Latinh, đả kích và làm tan rã hệ thống chủ nghĩa thực dân đế quốc,

làm co lại phạm vi thế lực của chủ nghĩa tư bản. Sau Chiến tranh thế giới thứ

hai, hơn 100 nước thuộc địa của chủ nghĩa thực dân đã giành được độc lập

dân tộc, tự tìm con đường phát triển của chính mình. Các nước xã hội chủ

nghĩa luôn đứng bên cạnh và bảo vệ các nước đang phát triển, trở thành một

lực lượng chính trị lớn mạnh mới không thể xem thường trong thế giới hiện

nay. Các nước đang phát triển hiện nay, đồng thời với việc phải cảnh giác và

phòng chống chủ nghĩa thực dân kiểu mới của chủ nghĩa tư bản thì cần phải

học tập kinh nghiệm và nhìn theo tấm gương của các nước xã hội chủ nghĩa,

trong việc lựa chọn con đường phát triển cho dân tộc mình thì cần phải tự

mình tìm lấy đường đi phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, cụ thể của mình.

Thứ tư, trong thế giới hiện nay chủ nghĩa xã hội đang dẫn dắt nhân dân

thế giới đi theo hướng tiến bộ. Lý tưởng và niềm tin xã hội chủ nghĩa chẳng

những đã được thấm sâu trong quảng đại quần chúng nhân dân các nước xã

hội chủ nghĩa mà còn ngày càng có xu hướng thu phục niềm tin lý tưởng của

nhân dân trên thế giới. Chừng nào mà chủ nghĩa tư bản còn tồn tại thì chừng

đó còn cần đến vũ khí tư tưởng lý luận cũng như cần đến phong trào xã hội

chủ nghĩa. Nhờ sự nhất quán lập trường của chủ nghĩa xã hội là thực hiện sự

thúc đẩy hòa bình và phát triển nên nó đã trở thành ngọn cờ của thời đại, luôn

có ảnh hưởng tới quá trình phát triến của lịch sử thế giới và mãi vê sau này

nó vẫn là ngọn cờ dẫn dắt nhân dân thế giới tiến lên phía trước.

- Sự khủng hoảng và sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô

và các nước Đông Âu có đồng nghĩa với cái gọi là “sự sụp đổ của chủ nghĩa

xã hội” không? Tại sao?

Sự khủng hoảng và sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và

các nước Đông Âu không phải là "sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội" mà đó chỉ

là sự khủng hoảng và sụp đổ của một mô hình cụ thể của chủ nghĩa xã hội

trên tiến trình phát triển lịch sử của nó. Bởi vì, không thể có sự đồng nhất

giữa một hình thức cụ thể của quá trình phát triển với bản thân quá trình ấy.

Không có bất cứ một quá trình phát triển nào, dù đó là quá trình phát

triển tự phát trong giới tự nhiên hay xã hội mà lại luôn luôn diễn ra theo

đường thẳng; trái lại, nó luôn luôn diễn ra trong sự chi phối, đan xen tác động

của rất nhiều nhân tố, rất nhiều khuynh hướng khác nhau và đối lập nhau.

Chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XX đã giành được những thành tựu liết sức

đáng khâm phục, thế nhưng trong quá trình phát triển nó cũng phải trải qua

con đường đầy quanh co khúc khuỷu và thậm chí cả những thất bại tạm thời

mà đặc biệt là những khủng hoảng của Liên Xô và Đông Âu vào những thập

niên 80, 90 của thế kỷ XX. Sự khủng hoảng của các nước Đông Âu và sự tan

rã của Liên Xô chỉ là sự sụp đổ của một mô hình cụ thể trên tiến trình phát

triển tất yếu của xu hướng vận động của lịch sử. Sự khủng hoảng và sụp đổ

đó đã cho chúng ta bài học sâu sắc rằng: xa rời chủ nghĩa xã hội, xa rời

chuyên chính vô sản, xa rời địa vị lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xa rời chủ

nghĩa Mác - Lênin thì kết quả sẽ làm kích động những mâu thuẫn kinh tế,

chính trị, xã hội và dân tộc đến chỗ trầm trọng khó bề giải quyết và rốt cuộc

thì chỉ có thể đi tới những khủng hoảng chế độ và những bi kịch lịch sử.

Thế kỷ XXI là thế kỷ mà chủ nghĩa xã hội tiếp tục trên con đường khai

phá tìm tòi cái mới, thông qua sự phấn đấu của toàn thể cộng đồng giai cấp

công nhân thế giới cùng với chính Đảng của nó, nhất định một sự phục hưng

vĩ đại mới của chủ nghĩa xã hội sẽ đến trong tương lai.

Câu hỏi 156: Công cuộc cải cách ở Trung Quốc và đổi mới ở Việt Nam

cũng như ở một số nước xã hội chủ nghĩa khác đã diễn ra như thế nào và đã

đạt dược những thành công nào trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội?

Trả lời:

- Công cuộc cải cách ở Trung Quốc và đổi mới ở Việt Nam đã diễn ra

như thế nào?

Trong khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp

đổ, các nước xã hội chủ nghĩa còn lại tiếp tục đẩy mạnh công cuộc cải cách,

đổi mới một cách toàn diện, nhờ đó chế độ xã hội chủ nghĩa ở những nước

này không chỉ đứng vững mà còn tiếp tục được đổi mới và phát triển. Trong

đó, Trung Quốc và Việt Nam là hai nước đã tiến hành công cuộc cải cách, đổi

mới tương đối thành công nhất. Trên cơ sở vận dụng sáng tạo, phát triển chủ

nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể, mỗi nước đã tìm ra con đường đi lên

chủ nghĩa xã hội trong điều kiện lịch sử mới. Tuy Trung Quốc và Việt Nam có

những sự khác biệt nhất định trên nhiều phương diện, nhưng công cuộc cải

cách, mở cửa ở Trung Quốc và công cuộc đổi mới ở Việt Nam có những nét

tương đồng sau đây:

+ Đã từ bỏ mô hình kinh tế kế hoạch tập trung chuyển sang kinh tế thị

trường xã hội chủ nghĩa (Trung Quốc) hoặc theo kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa (Việt Nam). Với những đặc trưng: đa dạng hoá hình

thức sở hữu, trong đó quốc hữu giữ vai trò chủ thể (Trung Quốc), hoặc là

công hữu là nền tảng (Việt Nam), kinh tế nhà nước là chủ đạo; sở hữu cổ

phần được xem là hình thức chủ yếu của chế độ công hữu (Trung Quốc),

hoặc doanh nghiệp cổ phần trở thành hình thức tổ chức kinh tế phổ biến (Việt

Nam); đa dạng hoá hình thức phân phối, xem trọng phân phối theo lao động,

đảm bảo quyền kinh doanh bình đẳng cho mọi loại hình doanh nghiệp không

phân biệt đối xử; giá cả, tỷ giá, lãi suất do thị trường xác định có sự điều tiết

của Nhà nước; phát triển đồng bộ các loại thị trường từ hàng hoá đến dịch vụ,

thị trường chứng khoán: thực hiện các chương trình phúc lợi xã hội rộng lớn,

xoá đói giảm nghèo, giữ gìn môi trường, v.v..

+ Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo hướng xây

dựng hệ thống luật pháp ngày càng tương đồng với hệ thống luật pháp hiện

đại, đặc biệt là phù hợp với những cam kết quốc tế; giảm dần sự can thiệp vi

mô, sự can thiệp vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, gia tăng

quản lý vĩ mô, gia tăng sự phân quyền cho các địa phương; thực hiện chế độ

dân chủ nói chung, đặc biệt là ở các cơ sở theo hướng công khai, minh bạch

gia tăng sự giám sát của các cấp, của công luận, của Quốc hội, của Hội đồng

nhân dân các cấp, của các tổ chức xã hội tinh giản bộ máy và biên chế, v.v..

+ Xây dựng các tổ chức xã hội phi chính phủ đa dạng gồm các hội

nghề nghiệp, văn hoá, tôn giáo, xã hội,... các tổ chức này ngày càng có vai trò

to lớn trong các lĩnh vực mà Nhà nước không với tay tới, như từ thiện, cứu

trợ người nghèo. v.v..

+ Hội nhập quốc tế sâu rộng, tham gia vào hầu hết các tổ chức quốc tế,

các tổ chức khu vực, đặc biệt là đã gia nhập WTO, trở thành những quốc gia

tích cực trong hội nhập khu vực ASEAN, Đông Á.

+ Đảm bảo sự cầm quyền và lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với công

cuộc xây dựng và phát triển đất nước trên tất cả các mặt. Sự lãnh đạo và cầm

quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc, của Đảng Cộng sản Việt Nam đã và

đang được đổi mới theo hướng khoa học, dân chủ và hiệu quả hơn, phù hợp

với điều kiện cụ thể của Trung Quốc và Việt Nam.

- Công cuộc cải cách ở Trung Quốc, đổi mới ở Việt Nam cũng như ở

một số nước xã hội chủ nghĩa khác đã đạt được những thành công nào?

+ Tổng kết gần 30 năm cải cách mở cửa của Trung Quốc (1978 -

2007), Đại hội XVII Đảng Cộng sản Trung Quốc (tháng 10-2007) đã khẳng

định: “Cuộc đại cải cách, đại mở cửa chưa từng diễn ra trong lịch sử đã huy

động tính tích cực của hàng trăm triệu người khắp các địa phương, làm cho

nước ta thực hiện thành công bước ngoặt lịch sử vĩ đại từ thể chế kinh tế kế

hoạch hóa tập trung cao độ sang kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa tràn đầy

sức sống, từ đóng cửa, hé cửa đến mở cửa toàn diện... Thực tế chứng minh

một cách hùng hồn rằng, cải cách, mở cửa là sự lựa chọn then chốt của vận

mệnh Trung Quốc đương đại, là con đường tất yếu phát triển chủ nghĩa xã

hội đặc sắc Trung Quốc, thực hiện chấn hưng dân tộc Trung Hoa vĩ đại; chỉ

có chủ nghĩa xã hội mới cứu được Trung Quốc, phát triển được chủ nghĩa xã

hội và phát triển được chủ nghĩa Mác”.

+ Tổng kết 20 năm đổi mới của Việt Nam (1986 - 2006), Đại hội X của

Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 4-2006) đã khẳng định: “Để đi lên chủ nghĩa

xã hội, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng nền văn hóa tiên

tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội; xây dựng nền

dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân;

xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; bảo đảm vững chắc quốc phòng và

an ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”.

+ Bất chấp sự chống phá của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù

địch, các nước xã hội chủ nghĩa đã giành được nhiều thắng lợi to lớn, có ý

nghĩa lịch sử.

Theo các số liệu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế công bố tháng 4-2008 (không

có số liệu của Cuba và Triều Tiên) tỷ trọng GDP của ba nước Trung Quốc,

Việt Nam và Lào trong GDP toàn thế giới đã tăng từ hơn 1,72% năm 1991 lên

6.12% năm 2007. GDP của Trung Quốc năm 2007 đã tăng gấp hơn 2.7 lần so

với năm 2000 và gấp hơn 8,38 lần so với năm 1990. Các số liệu tương ứng

của Việt Nam là 2,25 và 10,2 lần; của Lào là 2,35 và 4,68 lần.

Hơn 20 năm qua, Trung Quốc luôn duy trì dược tốc độ tăng trưởng kinh

tế cao hàng đầu thế giới, thường xuyên ở mức hai con số. Năm 2005, GDP

của Trung Quốc tăng 10,4%; năm 2008 tăng 11,4%. Vào năm 2005, kinh tế

Trung Quốc đã vươn lên vị trí thứ tư thế giới, chỉ đứng sau Mỹ, Nhật Bản và

Đức (đạt 3.251 tỷ USD năm 2007). Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Lào 5 năm

qua liên tục đạt trên 7%/năm. Kinh tế Cuba mấy năm gần đây liên tục tăng

trưởng khá cao; tốc độ tăng trưởng GDP năm 2005 đạt 11,8%, năm 2006 đạt

12,5%, năm 2007 đạt trên 7,5%.

Những đóng góp, uy tín và vị thế của các nước xã hội chủ nghĩa, nhất

là Trung Quốc được quốc tế thừa nhận và đánh giá cao. Các nước xã hội chủ

nghĩa tích cực hoạt động tại các diễn đàn đa phương lớn của thế giới.

MỤC LỤCChú dẫn của Nhà xuất bản

Phần mở đầuNHẬP MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CỦA CHỦ NGHĨA

MÁC - LÊNIN

Câu hỏi 1: Chủ nghĩa Mác - Lênin là gì? Chủ nghĩa Mác - Lênin được

cấu thành từ những bộ phận lý luận cơ bản nào? Chức năng và mối quan hệ

cơ bản của mỗi bộ phận đó trong chủ nghĩa Mác - Lênin?

Câu hỏi 2: Chủ nghĩa Mác ra đời, phát triền trên cơ sở những điều

kiện, tiền đề cơ bản nào? Hãy nêu khái quát các điều kiện, tiền đề đó?

Câu hỏi 3: Chủ nghĩa Mác hình thành và phát triển qua các giai đoạn

lớn (thời kỳ chính yếu) nào?

Câu hỏi 4: Chủ nghĩa Mác - Lênin giữ vai trò gì đối với sự nghiệp cách

mạng ở nước ta trong giai đoạn hiện nay? Sinh viên học tập những nguyên lý

cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin để làm gì và cần học tập như thế nào?

Phần thứ nhất THẾ GIỚI QUAN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN TRIẾT HỌC

CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN

CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG

Câu hỏi 5: Triết học là gì? Vấn đề cơ bản lớn của triết học là vấn đề

nào? Vị trí của vấn đề đó đối với sự phân định các trường phái triết học chính

trong lịch sử?

Câu hỏi 6: Chủ nghĩa duy vật là gì? Nó có những hình thức - trình độ

phát triển nào? Vì sao nói chủ nghĩa duy vật biện chứng do C.Mác và

Ph.Ăngghen sáng lập là hình thức - trình độ phát triển cao nhất của chủ nghĩa

duy vật trong lịch sử?

Câu hỏi 7: Phạm trù (khái niệm) “vật chất” giữ vai trò gì đối với chủ

nghĩa duy vật? Các nhà triết học duy vật trước Mác đã có quan niệm thế nào

về “vật chất”? Nêu ưu điểm và hạn chế lịch sử của những quan niệm đó?

Câu hỏi 8: Phát biểu định nghĩa của V.I.Lênin về vật chất. Hãy phân

tích nội dung cơ bản và ý nghĩa của định nghĩa đó?

Câu hỏi 9: Hãy trình bày các nội dung cơ bản của quan niệm duy vật

biện chứng về vận động của vật chất và không gian, thời gian của vật chất?

Câu hỏi 10: Hãy trình bày khái quát nội dung cơ bản của quan niệm

duy vật biện chứng về tính thống nhất vật chất của thế giới?

Câu hỏi 11: Hãy trình bày khái quát quan điểm duy vật biện chứng về

nguồn gốc của ý thức?

Câu hỏi 12: Hãy trình bày khái quát quan điểm duy vật biện chứng về

bản chất của ý thức? Theo quan điểm đó, ý thức có “tự vận động” không?

Câu hỏi 13: Hãy trình bày khái quát quan điểm duy vật biện chứng về

kết cấu của ý thức? Theo quan điểm đó, tri thức đóng vai trò gì trong đời sống

tinh thần của con người và trong hoạt động thực tiễn của con người?

Câu hỏi 14: Quan điểm duy vật biện chứng đối với vấn đề về mối quan

hệ giữa vật chất và ý thức? Quan điểm đó có gì khác biệt cơ bản với quan

điểm duy tâm và quan điểm duy vật siêu hình về vấn đề này?

Câu hỏi 15: Từ quan điểm duy vật biện chứng về vật chất, ý thức, mối

quan hệ giữa vật chất và ý thức rút ra ý nghĩa phương pháp luận cơ bản?

PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

Câu hỏi 16: Biện chứng là gì? Phép biện chứng là gì? Có những hình

thức lịch sử nào của phép biện chứng? Có sự đối lập căn bản nào giữa

phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình trong nhận thức?

Câu hỏi 17: Phép biện chứng duy vật bao gồm những nguyên lý, quy

luật cơ bản nào?

Câu hỏi 18: Thế nào là mối liên hệ và mối liên hệ phổ biến? Cho ví dụ.

Câu hỏi 19: Theo phép biện chứng duy vật, các mối liên hệ có những

tính chất chung nào? Cho ví dụ.

Câu hỏi 20: Phát triển là gì? Cho ví dụ. Tăng trưởng và phát triển có

mối quan hệ nào? Cho ví dụ.

Câu hỏi 21: Mọi sự phát triển đều có những tính chất chung nào? Cho

ví dụ.

Câu hỏi 22: Thế nào là quan điểm toàn diện, phát triển và lịch sử cụ

thể? Cho ví dụ. Các quan điểm đó được xác lập trên cơ sở lý luận nào?

Câu hỏi 23: Thế nào là cái riêng, cái chung, cái đơn nhất? Giữa chúng

có mối quan hệ như thế nào? Nghiên cứu mối quan hệ đó có ý nghĩa gì đối

với nhận thức và thực tiễn? Nêu một số ví dụ minh hoạ

Câu hỏi 24: Nguyên nhân và kết quả có mối quan hệ biện chứng nào?

Từ việc hiểu mối quan hệ biện chứng đó có thể rút ra ý nghĩa phương pháp

luận gì? Cho ví dụ.

Câu hỏi 25: Tất nhiên và ngẫu nhiên có mối quan hệ biện chứng nào?

Có thể rút ra ý nghĩa phương pháp luận gì từ việc hiểu biết mối quan hệ biện

chứng đó? Cho ví dụ.

Câu hỏi 26: Trình bày mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình

thức. Từ việc nghiên cứu mối quan hệ biện chứng đó có thể rút ra ý nghĩa

phương pháp luận gì? Nêu một số ví dụ minh hoạ.

Cầu hỏi 27: Bản chất là gì? Hiện tượng là gì? Chúng có mối quan hệ

biện chứng nào? Ý nghĩa rút ra từ việc nghiên cứu mối quan hệ đó. Cho ví dụ

minh hoạ.

Câu hỏi 28: Trình bày mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện

thực? Có thể rút ra ý nghĩa phương pháp luận nào từ việc nghiên cứu mối

quan hệ đó? Cho một số ví dụ minh hoạ.

Câu hỏi 29: Mọi quá trình vận động, phát triển trong tự nhiên, xã hội và

tư duy đều tuân theo những quy luật cơ bản nào? Vị trí của mỗi quy luật đó

đối với quá trình vận động, phát triển? Cho ví dụ.

Câu hỏi 30: Thế nào là chất, lượng, độ, điểm nút, bước nhảy? Chất và

lượng của sự vật có mối quan hệ biện chứng nào? Có thể rút ra ý nghĩa

phương pháp luận gì từ việc nghiên cứu mối quan hệ đó? Cho ví dụ minh

hoạ.

Câu hỏi 31: Hiểu theo nghĩa biện chứng duy vật: mâu thuẫn là gì? Với

nghĩa như vậy, mâu thuẫn đóng vai trò gì đối với quá trình vận động, phát

triển? Tại sao? Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu vai trò đó?

Cho một số ví dụ tương ứng.

Câu hỏi 32: Phủ định là gì? Phủ định biện chứng là gì? Phủ định biện

chứng giữ vai trò gì đối với sự phát triển? Tại sao? Thế nào là “phủ định của

phủ định”? Cho ví dụ minh hoạ.

Câu hỏi 33: Lý luận nhận thức duy vật biện chứng được xác lập trên

cơ sở những nguyên lý (nguyên tắc) cơ bản nào?

Câu hỏi 34: Thực tiễn là gì? Nhận thức là gì? Theo quan điểm duy vật

biện chứng: thực tiễn có vai trò gì đối với nhận thức?

Câu hỏi 35: V.I.Lênin đã nhận định thế nào về con đường biện chứng

của sự nhận thức chân lý? Hãy phân tích khái quát nhận định đó và rút ra quy

luật chung của quá trình phát triển nhận thức.

Câu hỏi 36: Chân lý là gì? Chân lý có những tính chất chung nào? Thế

nào là chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối? Chân lý có vai trò gì đối với

thực tiễn?

CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

Câu hỏi 37: Theo quan điểm duy vật lịch sử, cái gì đóng vai trò là cơ sở

nền tảng của đời sống xã hội? Tại sao? Quan niệm đó của chủ nghĩa duy vật

lịch sử có ý nghĩa phương pháp luận gì?

Câu hỏi 38: sản xuất vật chất đóng vai trò là cơ sở nền tảng của toàn

bộ đời sống xã hội, vậy trình độ phát triển của nền sản xuất vật chất của xã

hội căn bản phụ thuộc vào nhân tố nào (nhân tố nào giữ vai trò quyết định)?

Quan điểm đó có ý nghĩa phương pháp luận gì? Cho ví dụ minh hoạ.

Câu hỏi 39: Sự vận động, phát triển của phương thức sản xuất vật chất

có tuân theo quy luật khách quan hay không? Nếu có thì đó là quy luật cơ bản

nào?

Câu hỏi 40: Lực lượng sản xuất là gì? Quan hệ sản xuất là gì? Lực

lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ như thế nào? Từ việc

hiểu biết mối quan hệ đó có thể rút ra ý nghĩa phương pháp luận nào? Cho ví

dụ minh hoạ.

Câu hỏi 41: Cơ sở hạ tầng là gì? Kiến trúc thượng tầng là gì? Trong xã

hội có giai cấp, yếu tố nào là yếu tố giữ vai trò trọng yếu của kiến trúc thượng

tầng?

Câu hỏi 42: Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có mối quan hệ

nào? Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ việc nghiên cứu mối quan hệ đó.

Cho ví dụ minh hoạ.

Câu hỏi 43: Tồn tại xã hội là gì? Ý thức xã hội là gì?

Câu hỏi 44: Phân tích quan điểm duy vật lịch sử về vai trò của tồn tại

xã hội đối với ý thức xã hội và tính độc lập tương đối của ý thức xã hội? Quan

điểm đó có ý nghĩa phương pháp luận gì?

Câu hỏi 46: Hình thái kinh tế - xã hội là gì? Mỗi hình thái kinh tế - xã

hội được cấu thành từ những yếu tố cơ bản nào? Hiểu thế nào về luận điểm

của C.Mác: “sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình

lịch sử - tự nhiên”? Nhân tố chủ quan đóng vai trò gì đối với tiến trình lịch sử?

Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu lý luận hình thái kinh tế - xã

hội?

Câu hỏi 47: Giai cấp là gì? Hiểu thế nào về khái niệm “tầng lớp xã

hội”? Giai cấp có phải là hiện tượng vĩnh viễn trong lịch sử không? Tại sao?

Câu hỏi 48: Theo quan điểm duy vật lịch sử, trong điều kiện xã hội có

sự phân hoá giai cấp và đấu tranh giai cấp thì đấu tranh giai cấp giữ vai trò gì

đối với quá trình phát triển của xã hội?

Câu hỏi 49: Sự ra đời và tồn tại của tổ chức quyền lực nhà nước trong

kiến trúc thượng tầng của xã hội có liên quan gì với những cuộc đấu tranh

giai cấp trong lịch sử? Nếu căn cứ vào cơ sở giai cấp để phân loại các kiểu

nhà nước thì có thể nói tới những kiểu nhà nước nào trong lịch sử trên hai

nghìn năm qua? Nhà nước xã hội chủ nghĩa thuộc kiểu nhà nước nào?

Câu hỏi 50: Cách mạng xã hội là gì? Cách mạng xã hội có nguyên

nhân khách quan nào? Thế nào là cải cách xã hội? Theo quan điểm duy vật

lịch sử, cách mạng xã hội và cải cách xã hội giữ vai trò gì đối với sự tiến bộ

và phát triển của xã hội?

Câu hỏi 51: Quan điểm duy vật lịch sử về khái niệm con người?

Câu hỏi 52: Quan điểm duy vật lịch sử về bản chất của con người? Ý

nghĩa phương pháp luận của quan điểm đó.

Cầu hỏi 53: Theo quan điểm duy vật lịch sử, quần chúng nhân dân giữ

vai trò gì đối với tiến trình lịch sử? Tại sao? Từ hiểu biết về vai trò đó của

quần chúng nhân dân có thể rút ra ý nghĩa phương pháp luận nào?

Câu hỏi 54: Theo quan điểm duy vật lịch sử, các cá nhân, đặc biệt là

các vĩ nhân, lãnh tụ đóng vai trò gì đối với sự phát triển của lịch sử?

Phần thứ haiHỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ PHƯƠNG

THỨC SẢN XUẤT TƯ BẢN CHỦ NGHĨA

HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ

Câu hỏi 55: Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa?

Câu hỏi 56: Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hóa so với sản

xuất tự cung tự cấp?

Câu hỏi 57: Thế nào là hàng hóa? Hàng hóa có những thuộc tính gì?

Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa?

Câu hỏi 58: Phân tích tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng

hóa?

Câu hỏi 59: Lượng giá trị của hàng hóa được xác định như thế nào?

Câu hỏi 60: Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa?

Câu hỏi 61: Giá trị cũ và giá trị mới của H?

Câu hỏi 62: Lịch sử ra đời và bản chất của tiền tệ?

Câu hỏi 63: Các chức năng của tiền tệ?

Câu hỏi 64: Nội dung và tác động của quy luật giá trị?

HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ

Câu hỏi 65: Công thức chung của tư bản?

Câu hỏi 66: Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản?

Câu hỏi 67: Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa?

Câu hỏi 68: Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động?

Câu hỏi 69: Phân tích sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị

sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư?

Câu hỏi 70: Bản chất của tư bản?

Câu hỏi 71: Thế nào là tư bản bất biến? Tư bản khả biến? Ý nghĩa của

việc phân chia cặp phạm trù trên?

Câu hỏi 72: Tỷ suất, khối lượng giá trị thặng dư và ý nghĩa của nó?

Câu hỏi 73: Phân tích quá trình sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối?

Câu hỏi 74: Phân tích quá trình sản xuất giá trị thặng dư tương đối?

Câu hỏi 75: Giá trị thặng dư siêu ngạch?

Câu hỏi 76: Tại sao nói quy luật sản xuất giá trị thặng dư là quy luật

kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản? Đặc điểm của sản xuất giá trị thặng dư

trong giai đoạn hiện nay?

Câu hỏi 77: Phân tích bản chất kinh tế của tiền công trong chủ nghĩa tư

bản?

Câu hỏi 78: Hai hình thức cơ bản của tiền công?

Câu hỏi 79: Phân tích tiền công danh nghĩa, tiền công thực tế?

Câu hỏi 80: Phân tích thực chất và động cơ của tích lũy tư bản?

Câu hỏi 81: Phân tích bản chất bóc lột của quan hệ sản xuất tư bản

chủ nghĩa thể hiện qua tích lũy tư bản?

Câu hỏi 82: Những nhân tố quyết định quy mô tích luỹ tư bản?

Câu hỏi 83: Tích tụ và tập trung tư bản? Vai trò của tập trung tư bản

trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản?

Câu hỏi 84: Phân tích cấu tạo hữu cơ của tư bản?

Câu hỏi 85: Thế nào là tuần hoàn và các hình thái tuần hoàn của tư

bản công nghiệp?

Câu hỏi 86: Thế nào là chu chuyển, thời gian chu chuyển và tốc độ chu

chuyển của tư bản?

Câu hỏi 87: Thế nào là tư bản cố định và tư bản lưu động? Ý nghĩa của

việc phân chia cặp phạm trù trên?

Câu hỏi 88: Tác dụng và biện pháp nâng cao tốc độ chu chuyển của tư

bản?

Câu hỏi 89: Tổng sản phẩm xã hội là gì?

Câu hỏi 90: Phân tích hai khu vực của nền sản xuất xã hội?

Câu hỏi 91: Tư bản xã hội là gì? Những giả định của C.Mác khi nghiên

cứu tái sản xuất tư bản xã hội?

Câu hỏi 92: Phân tích các điều kiện thực hiện sản phẩm xã hội trong tái

sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng tư bản xã hội?

Câu hỏi 93: Bản chất và nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế trong

chủ nghĩa tư bản?

Câu hỏi 94: Các chu kỳ của khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư

bản?

Câu hỏi 95: Phân tích hậu quả của khủng hoảng kinh tế?

Câu hỏi 96: Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là gì?

Câu hỏi 97: Lợi nhuận là gì? Phân biệt lợi nhuận với giá trị thặng dư?

Câu hỏi 98: Tỷ suất lợi nhuận là gì? Các nhân tố ảnh hưởng tới tỷ suất

lợi nhuận?

Câu hỏi 99: Phân tích sự hình thành lợi nhuận bình quân và giá cả sản

xuất?

Câu hỏi 100: Phân tích sự chuyển hóa của giá trị hàng hóa thành giá

cả sản xuất?

Câu hỏi 101: Nguồn gốc ra đời và vai trò của tư bản thương nghiệp

trong chủ nghĩa tư bản?

Câu hỏi 102: Tại sao nói tư bản thương nghiệp vừa thống nhất, phụ

thuộc, vừa độc lập tương đối với tư bản công nghiệp?

Câu hỏi 103: Nguồn gốc, bản chất và sự hình thành lợi nhuận thương

nghiệp?

Câu hỏi 104: Tư bản cho vay được hình thành như thế nào trong chủ

nghĩa tư bản?

Câu hỏi 105: Lợi tức là gì? Tỷ suất lợi tức là gì?

Câu hỏi 106: Hãy phân tích các hình thức tín dụng cơ bản trong chủ

nghĩa tư bản?

Câu hỏi 107: Ngân hàng là gì? Phân tích lợi nhuận ngân hàng?

Câu hỏi 108: Phân biệt tư bản ngân hàng với tư bản cho vay?

Câu hỏi 109: Công ty cổ phần là gì?

Câu hỏi 110: Tư bản giả là gì? Đặc điểm của tư bản giả?

Câu hỏi 111: Thị trường chứng khoán là gì?

Câu hỏi 112: Phân tích sự hình thành quan hệ sản xuất tư bản chủ

nghĩa trong nông nghiệp?

Câu hỏi 113: Phân tích bản chất của địa tô tư bản chủ nghĩa?

Câu hỏi 114: Địa tô chênh lệch là gì? Có mấy hình thức địa tô chênh

lệch?

Câu hỏi 115: Địa tô tuyệt đối là gì? Phân biệt địa tô tuyệt đối với địa tô

chênh lệch?

HỌC THUYẾT VỀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN VÀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC

Câu hỏi 116: Nguyên nhân hình thành chủ nghĩa tư bản độc quyền?

Câu hỏi 117: Phân tích những đặc điểm kinh tế chủ yếu của chủ nghĩa

tư bản độc quyền?

Câu hỏi 118: Phân tích mối quan hệ giữa độc quyền và cạnh tranh

trong chủ nghĩa tư bản độc quyền?

Câu hỏi 119: Biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị và quy luật giá trị

thặng dư trong chủ nghĩa tư bản độc quyền?

Câu hỏi 120: Nguyên nhân hình thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà

nước?

Câu hỏi 121: Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước?

Câu hỏi 122: Những biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa tư bản độc

quyền nhà nước?

Câu hỏi 123: Phân tích sự phát triển nhảy vọt về lực lượng sản xuất

của chủ nghĩa tư bản hiện đại?

Câu hỏi 124: Phân tích xu hướng chuyển từ nền kinh tế công nghiệp

sang kinh tế tri thức của chủ nghĩa tư bản hiện đại?

Câu hỏi 125: Phân tích những điều chỉnh về quan hệ sản xuất và quan

hệ giai cấp trong chủ nghĩa tư bản hiện đại?

Câu hỏi 126: Phân tích những thay đổi thể chế quản lý kinh doanh

trong nội bộ các doanh nghiệp dưới chủ nghĩa tư bản hiện đại?

Câu hỏi 127: Phân tích chính sách điều tiết vĩ mô của nhà nước trong

chủ nghĩa tư bản hiện đại?

Câu hỏi 128: Phân tích vai trò của các công ty xuyên quốc gia trong

chủ nghĩa tư bản hiện đại?

Câu hỏi 129: Phân tích vai trò của chủ nghĩa tư bản đối với sự phát

triển của nền sản xuất xã hội?

Câu hỏi 130: Phân tích những hạn chế của chủ nghĩa tư bản?

Câu hỏi 131: Phân tích xu hướng vận động của chủ nghĩa tư bản?

Phần thứ baLÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Câu hỏi 132: Giai cấp công nhân là giai cấp nào trong lịch sử?

Câu hỏi 133: Giai cấp công nhân là giai cấp có sứ mệnh lịch sử nào?

Tại sao?

Câu hỏi 134: Sự ra đời và lãnh đạo của Đảng Cộng sản giữ vai trò gì

trong tiến trình giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình? Tại

sao?

Câu hỏi 135: Giữa Đảng Cộng sản và giai cấp công nhân có mối quan

hệ cơ bản nào?

Câu hỏi 136: Cách mạng xã hội chủ nghĩa là gì? Hãy phân tích nguyên

nhân khách quan của nó?

Câu hỏi 137: Cách mạng xã hội chủ nghĩa có mục tiêu, động lực và các

nội dung cơ bản nào?

Câu hỏi 138: Tại sao đối với những nước mà nông dân còn là một lực

lượng đông đảo thì trong cách mạng xã hội chủ nghĩa thực hiện sự liên minh

giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân là một tất yếu khách quan và

có thể thực hiện được? Có những nội dung và nguyên tắc cơ bản nào của sự

liên minh đó?

Câu hỏi 139: Những dự báo của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác

- Lênin về sự ra đời, phát triển hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa

dựa trên cơ sở nào? Theo dự báo đó, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ

nghĩa phát triển qua những giai đoạn cơ bản nào?

Câu hỏi 140: Phân tích tính tất yếu, đặc điểm và nội dung cơ bản của

thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội?

Câu hỏi 141: Phân tích những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ

nghĩa?

Câu hỏi 142: Phân tích những đặc trưng của xã hội cộng sản chủ

nghĩa tương lai theo những phác thảo của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác -

Lênin?

NHỮNG VẤN ĐỀ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CÓ TÍNH QUY LUẬT TRONG TIẾN TRÌNH CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Câu hỏi 143: Thế nào là “dân chủ”, “chế độ dân chủ”, “nền dân chủ” và

“nền dân chủ xã hội chủ nghĩa”? Hãy nêu khái quát tính tất yếu của việc xây

dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong tiến trình cách mạng xã hội chủ

nghĩa?

Câu hỏi 144: Có sự khác nhau nào giữa nền (chế độ) dân chủ xã hội

chủ nghĩa và nền dân chủ tư sản?

Câu hỏi 145: Hãy phát biểu một định nghĩa về nhà nước xã hội chủ

nghĩa và nêu những đặc trưng, chức năng và nhiệm vụ của nó? Tại sao nói

việc xây dựng và củng cố nhà nước xã hội chủ nghĩa là một tất yếu trong tiến

trình xây dựng chủ nghĩa xã hội?

Câu hỏi 146: Thế nào là "văn hoá" và "nền văn hoá xã hội chủ nghĩa"?

Câu hỏi 147: Tại sao xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa là một tất

yếu trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa? Quá trình xây dựng đó có

những nội dung cơ bản nào? Phương thức cơ bản của việc xây dựng nền

văn hoá đó?

Câu hỏi 148: Trình bày khái niệm "dân tộc" và hai xu hướng phát triển

của dân tộc trong chủ nghĩa tư bản?

Câu hỏi 149: Trình bày những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác -

Lênin trong việc giải quyết các vấn đề dân tộc trong tiến trình xây dựng chủ

nghĩa xã hội?

Câu hỏi 150: Tôn giáo là gì? Vì sao có sự ra đời và tồn tại của tôn

giáo? Trình bày quan điển cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với việc giải

quyết các vấn đề tôn giáo trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa?

CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN THỰC VÀ TRIỂN VỌNG

Câu hỏi 151: Chủ nghĩa xã hội hiện thực ra đời đầu tiên ở đâu? Nó đã

có tác dụng tích cực nào đối với phong trào cách mạng trên thế giới?

Câu hỏi 152: Chủ nghĩa xã hội hiện thực đầu tiên ở nước Nga Xôviết

đã được xây dựng thế nào dưới sự lãnh đạo của V.I.Lênin?

Câu hỏi 153: Mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực đã được xây dựng

thế nào trong thời kỳ sau khi V.I.Lênin qua đời? Nhận định thế nào về vai trò

lịch sử của mô hình đó?

Câu hỏi 154: Vì sao chủ nghĩa xã hội hiện thực lâm vào tình trạng

khủng hoảng và sụp đổ ở Liên Xô và các nước Đông Âu?

Câu hỏi 155: Có thế nhận định thế nào cho đúng về vai trò của chủ

nghĩa xã hội hiện thực đối với tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại? Sự

khủng hoảng và sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các

nước Đông Âu có đồng nghĩa với cái gọi là “sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội”

không? Tại sao?

Câu hỏi 156: Công cuộc cải cách ở Trung Quốc và đổi mới ở Việt Nam

cũng như ở một số nước xã hội chủ nghĩa khác đã diễn ra như thế nào và đã

đạt được những thành công nào trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội?

---//---

HỎI VÀ ĐÁP MÔNNHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN

(Dành cho sinh viên đại học, cao đẳng khối không chuyên ngành Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh)

Đồng chủ biên:

TS. LÊ MINH NGHĨA - TS. PHẠM VĂN SINH

Tập thể tác giả:

TS. LÊ MINH NGHĨA - TS. PHẠM VĂN SINH - THS. NGHIÊM THỊ CHÂU

GIANG - THS. VŨ VĂN NÂM

NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA

Chịu trách nhiệm xuất bản: TS. NGUYỄN DUY HÙNG

Chịu trách nhiệm nội dung: TS. LÊ MINH NGHĨA

Biên tập nội dung: TS. ĐỖ QUANG DŨNG - ThS. VŨ VĂN NÂM

Trình bày bìa: PHÙNG MINH TRANG

Chế bản vi tính: ĐÀO THỊ BÍCH

Sửa bản in: PHÒNG BIÊN TẬP KỸ THUẬT

Đọc sách mẫu: VŨ NÂM

In 2.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm, tại Công ty in Tiến Bộ, Hà Nội. Số đăng ký

kế hoạch xuất bản: 85-2010/CXB/31-95/NXBCTQG. Giấy phép xuất bản số:

4457/QĐ-NXBCTQG. In xong và nộp lưu chiểu tháng 7 năm 2010.